TỨ THIỀN
l.“ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ”(Và những pháp thuộc về Thiền thứ nhất như tầm, tứ, hỷ, lạc, nhứt tâm, và xúc, thọ, tưởng, tư, tâm, dục,thắng giải, tinh tấn, niệm, xả, tác ý; các pháp ấy được an trú bất đoạn, Các pháp ấy được biết rỏ như sau; "Như vậy các pháp ấy trước không có nơi ta, nay có hiện hữu, sau khi hiện hữu, chúng đoạn diệt".đối với những pháp ấy, cảm thấy không luyến ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không có hạn chế. "Còn có sự giải thoát hơn thế nữa.đối với hành giả còn có nhiều việc phải làm hơn thế nữa".
II.“ diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm.” Và những pháp thuộc về Thiền thứ hai như nội tĩnh, hỷ, lạc, nhứt tâm, và xúc, thọ, tưởng, tư, tâm, dục, thắng giải, tinh tấn, niệm, xả, tác ý, những pháp ấy được an trú bất đoạn. Các pháp ấy được biết rỏ như sau; "Như vậy các pháp ấy trước không có nơi ta, nay có hiện hữu, sau khi hiện hữu, chúng đoạn diệt". đối với những pháp ấy, không luyến ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không có hạn chế. "Còn có sự giải thoát hơn thế nữa.đối với hành giả còn có nhiều việc phải làm hơn thế nữa".
III.“ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và an trú Thiền thứ ba”
Và những pháp thuộc về Thiền thứ ba, như xả, lạc, niệm, tỉnh giác, nhứt tâm, và xúc, thọ, tưởng, tư, tâm, dục, thắng giải, tinh tấn, xả, tác ý; những pháp ấy được an trú bất đoạn, các pháp ấy được biết đến khi chúng khởi lên, được biết đến khi chúng an trú, được biết đến khi chúng đoạn diệt. đối với những pháp ấy, không luyến ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát không hệ lụy, an trú với tâm không có hạn chế” "Còn có sự giải thoát hơn thế nữa.đối với hành giả còn có nhiều việc phải làm hơn thế nữa".
IV.“xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ từ trước, chứng và trú Thiền thứ tư không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh” Và những pháp thuộc về Thiền thứ tư, như xả, bất khổ bất lạc thọ, thọ (passivedana), vô quán niệm tâm (Cetaso anabhogo), thanh tịnh nhờ niệm, nhứt tâm, và xúc, thọ, tưởng, tư, tâm, dục, thắng giải, tinh tấn, niệm, xả, tác ý; những pháp ấy được an trú bất đoạn, các pháp ấy được biết đến khi chúng khởi lên, được biết đến khi chúng an trú, được biết đến khi chúng đoạn diệt. đối với những pháp ấy, không luyến ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không có hạn chế.” "Còn có sự giải thoát hơn thế nữa.đối với hành giả còn có nhiều việc phải làm hơn thế nữa".
V.“vượt qua toàn diện sắc tưởng, diệt trừ hữu đối tưởng, không tư niệm sai biệt tưởng, nghĩ rằng: "Hư không là vô biên", chứng và trú Hư không vô biên xứ.” Và những pháp thuộc về Không vô biên xứ như hư không, vô biên xứ tưởng, nhứt tâm, và xúc, thọ, tưởng, tư, tâm, dục, thắng giải, tinh tấn, niệm, xả, tác ý; những pháp ấy được an trú bất đoạn, các pháp ấy được biết đến khi chúng khởi lên, được biết đến khi chúng an trú, được biết đến khi chúng đoạn diệt. đối với những pháp ấy, không luyến ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không có hạn chế.”."Còn có sự giải thoát hơn thế nữa.đối với hành giả còn có nhiều việc phải làm hơn thế nữa".
VI.“vượt qua toàn diện Hư không vô biên xứ, nghĩ rằng: "Thức là vô biên," chứng và trú Thức vô biên xứ”. Và những pháp thuộc về Thức vô biên xứ như Thức vô biên xứ tưởng, nhất tâm, và xúc, thọ, tưởng, tư, tâm, dục, thắng giải, tinh tấn, niệm, xả, tác ý; những pháp ấy được an trú bất đoạn; các pháp ấy được biết đến khi chúng khởi lên, được biết đến khi chúng đoạn diệt. đối với những pháp ấy không luyến ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không có hạn chế”."Còn có sự giải thoát hơn thế nữa.đối với hành giả còn có nhiều việc phải làm hơn thế nữa".
VII.“vượt qua toàn diện Thức vô biên xứ, nghĩ rằng không có vật gì, chứng và trú Vô sở hữu xứ”. Và những pháp thuộc về Vô sở hữu xứ, như Vô sở hữu xứ tưởng, nhứt tâm, và xúc, thọ, tưởng, tư, tâm, dục, thắng giải, tinh tấn, niệm, xả, tác ý; những pháp ấy được an trú bất đoạn; các pháp ấy được biết đến khi chúng khởi lên, được biết đến khi chúng an trú, được biết đến khi chúng đoạn diệt. đối với những pháp ấy không luyến ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không có hạn chế”. "Còn có sự giải thoát hơn thế nữa.đối với hành giả còn có nhiều việc phải làm hơn thế nữa".
“Đến bậc này Bồ Tát, biết mà không vào Phi Tưởng Phi Phi Tưởng xứ Định hoặc Diệt Thọ Tưởng xứ Định.Mà Ở bậc; Vô Sở Hữu Xứ Để Hành Đạo tự Lợi , Lợi Tha Nối Truyền Chánh Pháp,Đó Là hạnh Nguyện Của Bồ Tát Vậy!”. (trích Nguồn Kinh Đại Bát Nhã 24 cuốn).
VIII.“ vượt qua toàn diện Vô sở hữu xứ, chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng”..Với chánh niệm, xuất khỏi định ấy. Sau khi với chánh niệm xuất khỏi định ấy, thấy các pháp ấy thuộc về quá khứ, bị đoạn diệt, bị biến hoại: "Như vậy các pháp ấy trước không có nơi ta, nay có hiện hữu, sau khi hiện hữu chúng đoạn diệt".đối với những pháp ấy cảm thấy không luyến ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không hạn chế” "Còn có sự giải thoát hơn thế nữa.đối với hành giả còn có nhiều việc phải làm hơn thế nữa".
IX.“ vượt qua toàn diện Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng và trú Diệt thọ tưởng định”.( được Thế Tôn nói đến với phi pháp môn).Với chánh niệm,xuất khỏi định ấy.Sau khi với chánh niệm xuất khỏi định ấy, thấy các pháp ấy thuộc về quá khứ, bị đoạn diệt, bị biến hoại: "Như vậy các pháp ấy, trước không có nơi ta, sau có hiện hữu, sau khi hiện hữu, chúng đoạn diệt".Đối với các pháp ấy cảm thấy không luyến ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không hạn chế”. "Không có sự giải thoát nào vô thượng hơn thế nữa. Ðối với hành giả, không có việc phải làm nhiều hơn thế nữa".
Này, nếu nói một cách chơn chánh như sau: "Người này được tự tại, được cứu cánh trong Thánh giới, được tự tại, được cứu cánh trong Thánh định, được tự tại, được cứu cánh trong Thánh tuệ, được tự tại, được cứu cánh trong Thánh giải thoát. là con chánh tông của Thế Tôn, sanh ra từ miệng, sanh ra từ Pháp, do Pháp hóa thành, thừa tự Chánh pháp, không thừa tự vật chất". (trung bộ tập 3 (111) Kinh Bất đoạn) tâp 5 [53] Chương Chín: Tương Ưng Thiền tâp 5[54] Chương Mười: Tương Ưng Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra
Phụ Lục:
“Khi đức Thích ca mâu ni ở Ma kiệt đà (Magadha), ngài đóng cửa không lên tiếng trong ba tuần. Đây há không phải là một điển hình về lối mặc nhiên của Phật?. Khi ba mươi hai vị Bồ tát tại thành Ti da li (Vaisaili) bàn bạc với Duy ma cật (Vimalakirti) về pháp môn bất nhị, cuối cùng Duy ma im lặng không nói một lời và đức Văn thù (Manjusn) khen hay. Đây há không phải là im lặng mặc nhiên của một vị Đại Bồ tát?. Khi Tu bồ đề (Subhuti) ngồi không trong hang đá không nói một lời, không thuyết một câu về Bát nhã ba la mật. Đây há không phải là sự im lặng của một vị Đại Thanh văn (Sravaka)?. Khi thấy Tu bồ đề ngồi lặng lẽ như thế trong hang đá, thiên đế thích (Sakendra) bèn rải hoa trời cúng dường, cũng không nói một lời. Đây há không phải là sự im lặng của phàm phu?. Khi Bồ đề đạt ma dạo đến xứ này, ngài ngồi suốt chín năm trên Thiếu lâm, lãnh đạm với tất cả những ngôn giáo. Đây há không phải là sự im lặng của tổ sư? Và Lỗ Tổ mỗi khi thấy có một vị tăng đến ngài liền quay mặt vào vách ngồi lặng lẽ. Đây há không phải là sự im lặng của tông sư?
“Trước những sự thật lịch sử này, làm sao người ta có thể bảo rằng tu tập ngồi im lặng mặc nhiên là tà ngụy phi pháp đối với Thiền?”Thiền Luận Quyển Trung pdf trg 384