Âm:01
Sơn cư cổ cảnh cửu mai trần,
Kim nhật trùng ma khí tượng tân,
Ngân cấu tịnh trừ quang thủy hiện,
Phân minh diện kiến bổn lai nhân.
Âm:02
Sơn cư lực học ngộ Thiền tông,
Nhật dụng tiên tu đạt khổ không,
Bất thức bổn lai chân diện mục,
Niêm hoa vi tiếu táng gia phong.
Âm:03
Sơn cư u ẩn bạch vân thâm,
Học đạo tiên đương yếu thức tâm,
Đại tắc phóng chi chu pháp giới,
Quyển chi tắc thối bất dung châm.
Âm:04
Sơn cư học Đạo chỉ cầu tâm,
Hà tất khu khu hướng ngoại tầm,
Cử bộ tiện ưng đăng bảo sở,
Mạc tương hoàng diệp đáng chân kim.
Âm:05
Sơn cư phản chiếu khán tâm điền,
Thối bộ nguyên lai thị thượng tiền,
Mật mật công phu vô gián đoạn,
Tất đương tham thấu Tổ sư thiền.
Âm:06
Sơn cư tịch tịch dưỡng lương tri,
Duy tại đương nhơn tự bảo trì,
Tình niệm dịch lai vi đạo niệm,
Quả nhiên thành Phật dĩ đa thì.
Âm:07
Sơn cư xích sái tịnh vô ai,
Chung nhật như ngu dưỡng thánh thai,
Bổn phận sinh nhai thùy thức đắc,
Thế nhân hàm tiếu ngã si ngai.
Âm:08
Sơn cư mao ngỏa trúc vi duyên,
Thủ đạo an bần lạc tự nhiên,
Tận nhật bế quan vô biệt sự,
Trường thân lưỡng cước chẩm vân miên.
Âm:09
Sơn cư phong cảnh dị nhân gian,
Vân điểu phi hành tự vãng hoàn,
Vật ngã nhất như vong bỉ thử,
Sài môn tuy thiết vị thường quan.
Âm:10
Sơn cư tự cổ viễn hiêu trần,
Tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân,
Phong nguyệt mãn hoài cùng khoái hoạt,
Cao ca nhất khúc họa dương xuân.
Âm:11
Sơn cư lão nạp bá vô năng,
Cúng Phật thường nhiên nhất trản đăng,
Bất giả thiêm du quang xán lạn,
Thập phương thế giới tất viên minh.
Âm:12
Sơn cư nhật nhật thị lương triêu,
Lệ phạn sung trường thủy nhất biều,
Thùy thức lão tăng cùng đáo để,
Đình tiền bá tử đáng hương thiêu.
Âm:13
Sơn cư khô đạm quả nhiên cùng,
Hân đảo thiền sàng lại hạ công,
Thánh giải phàm tình câu bất lập,
Nhứt luân minh nguyệt chiếu hư không.
Âm:14
Sơn cư môn yểm trúc lâm u,
Vân tự phi hề thủy tự lưu,
Thủ kỷ an bần tùy phận ngộ,
Hữu nhân vấn ngã chỉ đê đầu.
Âm:15
Sơn cư xuất nhập phóng đầu đê,
Bất lý nhân gian thị dữ phi,
Thâu thập thân tâm quy cố lý,
Miễn giáo đới thủy hựu thi nê.
Âm:16
Sơn cư bốc trúc ẩn nham a,
Miễn đắc tùy lưu trục thế ba,
Tri túc an bần thường khoái lạc,
Mộc nhân tề xướng thái bình ca.
Âm:17
Sơn cư cảnh trí lạc thiên thành,
Kham thán diêm phù thế bất bình,
Nghịch thuận thị phi đa lợi hại,
Mạc như giam khẩu quá bình sinh.
Âm:18
Sơn cư dưỡng chuyết độ dư niên,
Vinh nhục phân minh tại mục tiền,
Thật nãi thế tình triêu mộ cải,
Tất nhiên thương hải biến tang điền.
Âm:19
Sơn cư súc thủ đắc tiện nghi,
Tịch diệt thân tâm na cá tri,
Bất thị thâu an duy tỵ họa,
Danh cương lợi tỏa tận phao ly.
Âm:20
Sơn cư vô vật tác sanh nhai,
Đạm phạn huỳnh tê trục nhật ai,
Phú quí công danh phi ngã sự,
Đắc khoan hoài xứ thả khoan hoài.
Âm:21
Sơn cư nhất vị thái căn hương,
Vật ngoại nhàn nhân tuế nguyệt trường,
Trục nhật ai lai khiên bổ quá,
Minh triêu hà tất dự tư lương.
Âm:22
Sơn cư xúc xứ thể an nhiên,
Diệc khả phương hề diệc khả viên,
Chỉ hữu lưỡng ban trừ bất đắc,
Cơ lai khiết phạn khốn lai miên.
Âm:23
Sơn cư vô sự khả bình luân,
Nhựt vị tà thời tiện yểm môn,
Phú quí thâu tha thiên vạn bội,
Thanh nhàn hoàn ngã nhị tam phân.
Âm:24
Sơn cư mao ốc lưỡng tam gian,
Lạc đạo vong tình bất yểm quan,
Thước tháo nha minh đàm Bát Nhã,
Thanh phong minh nguyệt bạn tăng nhàn.
Âm:25
Sơn cư nhất Phật nhất lô hương,
Tĩnh lý càn khôn nhật nguyệt trường,
Khát ẩm cơ san vô biệt sự,
Hàn lai hướng hỏa noản thừa lương.
Âm:26
Sơn cư sái lạc nhiệm ngâm nga,
Phạn hậu trà lai khiển thụy ma,
Thế thượng hoàng kim hà túc quí,
Nhất thân an lạc trị tiền đa.
Âm:28
Sơn cư độn tích vạn duyên hưu,
Thất lạc tiên thằng lại khán ngưu,
Tán đản vô câu do ngã lạc,
Chư nhân hà bất tảo hồi đầu.
Âm:29
Sơn cư lão nạp niệm thành khôi,
Ỷ trượng nhàn quan tùng trúc mai,
Phật Tổ thượng nhiên do lại tố,
Khách lai chỉ đắc cương tương bồi.
Âm:30
Sơn cư xử sự xuất bình thường,
Mạc sử thân tâm phận ngoại mang,
Tích nhật Triệu Châu thù ứng lại,
Vương lai do bất hạ thiền sàng.
Âm:31
Sơn cư thâm ẩn bế thiền quan,
Hỷ đắc phù sanh nhựt nhựt nhàn,
Tọa thính tùng phong đàm diệu pháp,
Đại vương gia thiện thục năng san.
Âm:32
Sơn cư quy ẩn lạc tiên thiên,
Mặc khế chân như giáo ngoại truyền,
Đại đạo bổn lai vô sở nhiễm,
Mạc manh vọng niệm ố tâm điền.
Âm:33
Sơn cư mặc tọa thị chân tu,
Học đạo vô như hiết niệm đầu,
Y lý minh châu nguyên bất thất,
Hà tu tân khổ ngoại biên cầu.
Âm:34
Sơn cư hối tích dưỡng chân tâm,
Đa thiểu cuồng mê trục ngoại tầm,
Thủy tín cổ nhân ngôn bất tháo,
Vô huyền cầm thượng thục tri âm.
Âm:35
Sơn cư hồi thủ tự trầm ngâm,
Trượng thiết yên năng phó thốn câm,
Hải hữu khô thời chung kiến để,
Thế nhân chí tử bất tri tâm.
Âm:36
Sơn cư ngột tọa kháp như si,
Tâm địa phân minh liễu liễu tri,
Phong tác tùng đào lai quát nhĩ,
Mão nhiên bất cố thả ca thi.
Âm:37
Sơn cư khiển hứng ngẫu thành thi,
Nhơn nhược đam thi diệc thị si,
Sanh tử mạng căn như vị đoạn,
Mạc tồn tri kiến bả tâm khi.
Âm:38
Sơn cư tuấn hiểm thiểu nhơn đăng,
Trúc tháp già phu nhất cá tăng,
Quý ngã tịch liêu vô bạn lữ,
Tự tri phương thốn lãnh như băng.
Âm:39
Sơn cư lãnh đạm Phật gia phong,
Thật thị thân cùng Đạo bất cùng,
Vô giá ma ni nhân hản thức,
Khả lân đối diện bất tương phùng.
Âm:40
Sơn cư tịch mịch chánh tương nghi,
Hảo bả lương tâm dưỡng phiến thì,
Nguyệt chiếu hàng tùng minh ý Tổ,
Cá trung năng hữu kỷ nhơn tri.
Âm:41
Sơn cư phong vật tự thiên nhiên,
Đại đạo chiêu chiêu tại mục tiền,
Bất thức Tổ tông thân mật chỉ,
Đồ lao niệm Phật dữ tham thiền.
Âm:42
Sơn cư bao nạp thái hư không,
Vạn tượng sum la tận tại trung,
Tả hữu phùng nguyên giai Phật sự,
Bất tiêu bổng hát bất thi công.
Âm:43
Sơn cư mặc tọa ngộ chân không,
Nhứt pháp thông lai vạn pháp thông,
Phi đản ngã kim năng đạt liễu,
Hằng sa chư Phật thể giai đồng.
Âm:44
Sơn cư tùy phận tức tu hành,
Vô sự vô ưu quá thử sanh,
Bản hữu chân không phi ngộ đắc,
Thánh nhân diệc thị cưỡng an danh.
Âm:45
Sơn cư thường vũ bất huyền cầm,
Nhứt khúc vô sanh duyệt ngã tâm,
Trực hạ phản văn văn tự tánh,
Thùy gia ốc lý một Quan Âm.
Âm:46
Sơn cư độc tọa Đại Hùng Phong,
Diện diện hiên song xứ xứ thông,
Vân khứ vân lai giá bất trụ,
Nhứt thừa cao hiển thái hư không.
Âm:47
Sơn cư không tịch ngọa thiền tăng,
Trú dạ thường trì Bát Nhã kinh,
Thỉ thức chúng sanh nguyên thị Phật,
Tùng lai nhiệt thủy tức hàn băng.
Âm:48
Sơn cư diêu yểu tự vô trần,
Bất giả tu trì kiến bổn chân,
Chân Phật hà tằng ly tả hữu,
Kim nhân tiện thị cựu thời nhơn.
Âm:49
Sơn cư như ý nhiệm Đông Tây,
Đại đạo hà tằng hữu ngộ mê,
Hảo nhục huyễn sang nan hạ thủ,
Bát vu thiêm bỉnh diệc thành phi.
Âm:50
Sơn cư cao ngọa thủ thanh hư,
Ẩm trác tùy duyên lạc hữu dư,
Bất dụng tương tâm trừ vọng niệm,
Yếu tri vọng niệm tức chân như.
Âm:51
Sơn cư tuy thị tiểu mao am,
Đại đạo đương dương trực chỉ nam,
Mạc trụ Hóa Thành vong Bảo Sở,
Trùng gia tinh tấn cấp tu tham.
Âm:52
Sơn cư cao ẩn bạch vân trung,
Đa thiểu manh mê bất kiến tung,
Hướng ngoại tầm chơn chơn chuyển viễn,
Khắc chu cầu kiếm uổng thi công.
Âm:53
Sơn cư bình địa hữu thâm khanh,
Chỉ quí đương nhơn cụ nhãn minh,
Phục hổ hàng long giai mạc sự,
Pháp thân bất động ngộ vô sanh.
Âm:54
Sơn cư độc xuất chúng cao phong,
Tứ bích vô y triệt cốt cùng,
Thuyết dữ thế gian hồn bất tín,
Khu khu chỉ đắc tự tiêu dung.
Âm:55
Sơn cư liên lạc đạo nhơn gia,
Nhứt chủng bình hoài độ tuế hoa,
Cơ khiết kim ngưu vô mễ phạn,
Khát lai tiện ẩm Triệu Châu trà.
Âm:56
Sơn cư tham học chí cô cao,
Vị đạo vong xu bất đạn lao,
Tọa đáo ngũ canh thiên dục hiểu,
Thanh tùng trích lộ thấp thiền bào.
Âm: 57
Sơn cư ký tích tạm y thê,
Sanh tử hà tằng hữu định kỳ,
Phân phó đương nhơn cao trước nhãn,
Cấp tu đả điểm xuất đầu thì.
Âm:58
Sơn cư kết thảo tại trùng nham,
Hỉ đắc phiên thân xuất náo lam,
Tri túc tiện vi an lạc quốc,
Mạc giáo quá phận thái vô tàm.
Âm:59
Sơn cư khổ hạnh nhứt đầu đà,
Phế tẩm vong san tự trác ma,
Liễu đắc duy tâm chân Tịnh Độ,
Phương tri Cực Lạc tại Ta Bà.
Âm:60
Sơn cư thắng cảnh dị tầm thường,
Phổ thị chư nhơn bất phú tàng,
Thủy điểu thọ lâm tuyên diệu pháp,
Cao sơn bình địa tổng Tây phương.
Âm:60
Sơn cư phu tọa nhứt bồ đoàn,
Nhựt dụng công phu tại phản quan,
Bổn mệnh nguyên thần tri lạc xứ,
Thiệt đầu bất bị biệt nhơn man.
Âm:61
Sơn cư khách đáo vấn công phu,
Tịch chiếu song vong nhứt tự vô,
Mạc quái lão tăng vô pháp thuyết,
Tùng lai lại đắc khởi quy mô.
Âm: 62
Sơn cư duy trí nhất thiền sàng,
Định lý tâm vong pháp diệc vong,
Lâm Tế Đức Sơn thi bỗng hát,
Lão tăng bất động kiến Không Vương.
Âm:63
Sơn cư tự tại khả tàng thân,
Thiên hạ tri tâm hữu kỷ nhân,
Trừ khước ngã gia thân đích tử,
Thế gian nghi giả bất nghi chân.
Âm:64
Sơn cư trần cấu bất tương xâm,
Tự tại tiêu dao lạc đạo tâm,
Thử sự nhơn nhơn giai khả học,
Bổn lai phi cổ diệc phi câm.
Âm:65
Sơn cư cùng lý tự hoan ngu,
Bất bị hư danh huyễn tướng câu,
Tam giáo bản lai đồng nhất thể,
Phi Tăng, phi Đạo diệc phi Nhu.
Âm:66
Sơn cư tĩnh địa ám ta hu,
Hồng tử phần phân phản loạn chu,
Yếu thức tiên thiên giai thử lý,
Cốc thần thái cực tức chân như.
Âm:67
Sơn cư nhàn xứ lạc thanh u,
Tán lự tiêu dao đắc tự do,
Trầm mặc tịch liêu tình niệm tận,
Trú miên tịch tẩm vạn duyên hưu.
Âm:68
Sơn cư không tịch học vô vi,
Quá khứ nhân duyên mạc yếu tri,
Hiện tại thượng ưng vô sở trụ,
Vị lai khởi khả dự tiền tư.
Âm:69
Sơn cư mặc tọa dưỡng hi di,
Ngạch hạ tàng châu yếu bảo trì,
Khai khẩu hướng nhơn ngôn bất đắc,
Điểm đầu duy hứa tự gia tri.
Âm:70
Sơn cư độc lạc tự gia tri,
Tả hữu phùng nguyên nhậm sở chi,
Tâm địa nhược năng vô quái ngại,
Hà phương thuyết kệ dữ ngâm thi.
Âm:71
Sơn cư cô quýnh tại cao nhai,
Khiếu nguyệt ngâm phong xứng ngã hoài,
Kham thán thế gian toàn bất tỉnh,
Nhứt luân chân tánh vĩnh trầm mai.
Âm:72
Sơn cư vô sự bất khai môn,
Độc tọa cùng tâm mẫn kiến văn,
Chỉ trướng mai hoa tùng nguyệt chiếu,
Nhơn gian biệt thị nhất càn khôn.
Âm:73
Sơn cư thâm viễn lộ điều điều,
Đại đạo vô hình bổn tịch liêu,
Nhật lý thanh phong tần tảo địa,
Dạ lai minh nguyệt quải tùng tiêu.
Âm:74
Sơn cư độc lập thế tài nham,
Minh nguyệt thanh phong nhất đảm đam,
Vấn ngã Tây lai hà Tổ ý?
Tiền tam tam dữ hậu tam tam.
Âm: 75
Sơn cư thường bả chánh môn khai,
Đại đạo đương cơ nhậm khách lai,
Nhược đắc lão Tăng thân khám quá,
Nhơn nhơn khả tác đống lương tài.
Âm:76
Sơn cư dục nhập mích thiên chân,
Tiên độc khai mông thượng đại nhân,
Độc đáo lao quan tri lễ xứ,
Thập phương thế giới hiện toàn thân.
Âm:77
Sơn cư thâm ẩn bạch vân ôi,
Phong nhập tòng lâm chấn pháp lôi,
Kinh động thế gian hôn thụy hán,
Tốc khai lưỡng nhãn mạc bồi hồi.
Âm:78
Sơn cư cao chiếu nhật quang lai,
Trực hạ thừa đương nhãn tiện khai,
Minh liễu nhất thừa viên đốn chỉ,
Hà lao hựu khứ phỏng thiên thai.
Âm:79
Sơn cư tứ bạn khởi yên hà,
Thạch đảnh phần hương tụng Pháp Hoa,
Tam giới vô an như hỏa trạch,
Lão tăng trường giá bạch ngưu xa.
Âm:80
Sơn cư dạ bán tử qui đề,
Bộc bố nham tiền tả bích khê,
Vị đáo tận kinh sơn hiểm tuấn,
Tằng lai phương thức lộ cao đê.
Âm:81
Sơn cư hưu bả tự tâm man,
Thỉ thức đăng cao nhãn giới khoan,
Phóng khứ đại thiên già bất trụ,
Thâu lai chỉ tại nhất hào đoan.
Âm:82
Sơn cư tri thức dị thường luân,
Minh cảnh đương đài biện nghiệm nhân,
Nghiêm xú nan man đô chiếu xuất,
Bản lai minh cảnh tuyệt sơ thân.
Âm:83
Sơn cư tiểu bích cảm nhiên hàn,
Bảo kiếm đương hiên thục cảm khan,
Ngoại đạo tà ma câu não liệt,
Lão tăng thiền định chánh khinh an.
Âm:84
Sơn cư biệt thị nhất gia phong,
Bất dữ nhân gian thú vị đồng,
Mộc mã bôn tê thiên ngoại khứ,
Yểu vô âm tín tuyệt hành tung.
Âm: 85
Sơn cư lộ hiểm tín nan thông,
Hạt hán yên năng đạt thử tông,
Chỉ hứa tác gia thi thủ đoạn,
Tương phùng tận tại bất ngôn trung.
Âm:86
Sơn cư khách đáo vấn thiền tông,
Thủy giác tùng tiền thác dụng công,
Khai khẩu dĩ tri lai lịch sử,
Khả lân bất thức ngộ chân không.
Âm:87
Sơn cư ngộ đắc nhứt chân không,
Na vấn Nam tông dữ Bắc tông,
Như ý Bửu Châu trì tại thủ,
Quang minh hà xứ bất viên thông.
Âm: 88
Sơn cư học Đạo vị vi gian,
Duy hữu an tâm thủ đạo nan,
Bách xích can đầu trùng tấn bộ,
Nhứt chùy đả toái Tổ sư quan.
Âm:89
Sơn cư hồi thủ thán qui dư,
Thức phá nguyên lai tổng thị hư,
Mạc khứ duyên môn cùng khất thực,
Tự gia y lý hữu minh châu.
Âm:90
Sơn cư thanh khổ bất xa hoa,
Khách đáo cao thang tiện đáng trà,
Cụ nhãn thiệt đầu tri vị hảo,
Thông thân sái lạc tảo qui gia.
Âm:91
Sơn cư thường ẩn bạch vân gian,
Đạo tại kỳ trung ý tự nhàn,
Công án hiện thành nhơn bất thức,
Ngoại tuần chi diệp cưỡng truy phan.
Âm:92
Sơn cư hoàng diệp trục phong phiêu,
Thủ ác không quyền diệc bất tiêu,
Phật Tổ chỉ truyền gia lý sự,
Phùng nhơn lại đắc khẩu lao thao.
Âm:93
Sơn cư diệp lạc tất qui căn,
Độc lộ chân thường hiển pháp thân,
Thử sự bất minh đa phí lực,
Bá thành yên thủy diểu vô ngân.
Âm:94
Sơn cư đạo giả hữu hà năng,
Pháp pháp toàn chương tối thượng thừa,
Thuấn mục giương my giai Tổ ý,
Niêm thùy thụ phất diệc chân tình.
Âm:95
Sơn cư phú ốc chỉ chiêm mao,
Lãnh đạm tình hư tuyệt thế giao,
Nhứt phiến bạch vân hoành cốc khẩu,
Kỷ đa qui điểu tận mê sào.
Âm:96
Sơn cư hồn bất yểm cư sơn,
Tựu thọ tru mao phược bán gian,
Nhứt cá lão tăng do thị trách,
Khởi dung tục khách đáo thiền quan.
Âm:97
Sơn cư kiến đạo dĩ vong sơn,
Vạn pháp do lai bổn tự nhàn,
Nam Bắc Đông Tây hồn bất biện,
Thử thân thường tịch thái hư gian.
Âm:98
Sơn cư mãn mục thị thanh sơn,
Tuấn điệp kỳ khu hành lộ nan,
Hành đáo thủy cùng sơn tận xứ,
Tự nhiên đắc bảo bất không hoàn.
Âm:99
Sơn cư diệc tại khổ Ta Bà,
Bách tuế quang âm nhứt sát na,
Tận thử báo thân sanh Cực Lạc,
Tiền đầu hiểm lộ dĩ vô đa.
Âm:100
Sơn cư độc xử lạc thiên chơn,
Minh nguyệt thanh phong chuyển pháp luân,
Nhất đại tạng kinh đô thuyết tận,
Bất tri thùy thị cá trung nhơn.
Nghĩa:
Ở núi gương xưa bấy lâu vùi,
Nay mới chùi lau dáng vẻ tươi,
Bợn nhớp sạch rồi gương lấp lánh,
Rõ ràng tạn mặt bấy nay người.
Nghĩa:
Ở núi dùi mài tỏ Thiền tông,
Vào cửa công phu rõ khổ không,
Chẳng biết xưa nay mày mặt thật,
Niêm hoa vi tiếu mất gia phong.
Nghĩa:
Ở núi mây trắng phủ hang sâu,
Học đạo rõ tâm ấy bước đầu,
Lớn ắt buông ra trùm pháp giới,
Thu vào chẳng lọt mũi kim đâu.
Nghĩa:
Ở núi học Đạo chỉ tìm tâm,
Lựa phải khư khư mãi chạy rông,
Cất bước chính là lên bảo sở,
Chớ đem lá úa thế vàng ròng.
Nghĩa:
Ở núi xoay lại xét tâm điền,
Thối bước ngờ đâu tiến bước liền,
Bám sát công phu không dứt đoạn,
Tất nhiên soi thấu Tổ sư thiền.
Nghĩa
Ở núi lẳng lặng dưỡng lương tri,
Cốt ở người tu tự bảo trì,
Tình niệm đổi ra thành đạo niệm,
Quả nhiên thành Phật khó khăn gì?
Nghĩa:
Ở núi gột sạch lớp bụi dày,
Ngày lụng như ngu dưỡng thánh thai,
Bổn phận mình làm ai biết được,
Mặc cho cười mỉa tớ si ngây.
Nghĩa:
Ở núi tre lau kết nên am,
Giữ đạo an nhiên vui tháng ngày,
Cửa đóng thanh nhàn không việc khác,
Duỗi chân nằm ngủ gối thang mây.
Nghĩa:
Ở núi phong cảnh khác nhân gian,
Mây điểu bay đi biết vãng hoàn,
Ta vật như nhau quên khác loại,
Cửa ngoài tuy có chẳng từng quan.
Nghĩa:
Ở núi từ lâu lánh xa trần,
Tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân,
Trăng gió đầy lòng vui tột bực,
Nghêu ngao một khúc họa dương xuân.
Nghĩa:
Ở núi già cả vụng trăm đường,
Đèn tâm dâng cúng đấng pháp vương,
Đâu rảnh thêm dầu đèn vẫn sáng,
Làu làu tỏ rạng khắp mười phương.
Nghĩa:
Ở núi bửa bửa sống an thường,
Cơm hẩm no lòng nước thanh lương,
Ai biết thầy già nghèo đáo để,
Trước sân cây bá thế lò hương.
Nghĩa:
Ở núi khô lạt rõ ràng nghèo,
Xiêu ngã giường thiền biếng sửa theo,
Ý thánh tình phàm đều ném hết,
Một vầng trăng sáng giữa trời treo.
Nghĩa:
Ở núi thay cửa ngàn trúc sâu,
Mây tự bay chừ nước tự xuôi,
Giữ nết yên nghèo tùy phận gặp,
Chợt ai hỏi đến chỉ nghiêng đầu.
Nghĩa:
Ở núi lui tới khỏi chìu lòn,
Phải trái thói đời chẳng chen bon,
Lượm lặt thân tâm về chốn cũ,
Khỏi vương nước đục với bùn non.
Nghĩa:
Ở núi hang đá gởi tuổi già,
Danh lợi thói đời thân tránh xa,
Biết đủ yên nghèo thường khoái lạc,
Người cây múa hát thái bình ca.
Nghĩa:
Ở núi an nhiên cảnh đẹp xinh,
Ngao ngán diêm phù cõi bất bình,
Phải trái ôi thôi đầy lợi hại,
Tốt hơn ngậm miệng hết bình sinh.
Nghĩa:
Ở núi giấu vụng sống năm tàn,
Vinh nhục kìa ta thấy rõ ràng,
Vốn thật tình đời chiều sáng đổi,
Tất nhiên sự thế biến thương tang.
Nghĩa:
Ở núi rút cổ có tiện nghi,
Lòng mình lặng dứt ai biết gì,
Chẳng phải trộm yên mà lánh họa,
Dàm danh khoá lợi ấy mà chi.
Nghĩa:
Ở núi không gì để sanh nhai,
Dưa muối cơm thô tạm qua ngày,
Phú quí công danh ta chẳng bận,
Được hồi thong thả mở lòng ngay.
Nghĩa:
Ở núi rau củ sống qua ngày,
Làm kẻ nhàn tăng vui thú hoài,
Bữa bữa xét suy chừa lỗi cũ,
Cần gì lo lắng việc ngày mai.
Nghĩa:
Ở núi nơi đâu cũng an nhiên,
Dù việc vuông tròn chẳng lụy phiền,
Chỉ có hai điều trừ chẳng được,
Mệt thì nằm ngủ, đói ăn liền.
Nghĩa:
Ở núi không việc để bàn mưu,
Bóng ngã đầu non cửa đóng rồi,
Phú quí thua người ngàn vạn bội,
Thanh nhàn ta có mấy phần thôi.
Nghĩa:
Ở núi tranh lá một vài gian,
Vui đạo quên tình cửa mở toang,
Lũ quạ kêu ran đàm Bát Nhã,
Trăng trong gió mát bạn tăng nhàn.
Nghĩa:
Ở núi một Phật một lò hương,
Định thể càn khôn nhật nguyệt trường,
Khát uống đói ăn không việc khác,
Lạnh thì sưởi ấm nóng thừa lương.
Nghĩa:
Ở núi thư thả mặc ngâm nga,
Ma ngủ dẹp tan cậy chén trà,
Vàng nén trên đời đâu đã quí,
Một thân an lạc khó mua đa.
Nghĩa:
Ở núi dấu tích chẳng mong cầu,
Dây roi rớt mất biếng đuổi trâu,
Ném quách thảnh thơi ta vui thú,
Các ngươi sao chẳng sớm hồi đầu ?
Nghĩa:
Ở núi sãi già ý lặng nguôi,
Chống gậy nhàn xem tùng trúc vui,
Phật Tổ hãy còn chưa muốn gặp,
Không lẽ khách tìm lại bỏ lui.
Nghĩa:
Ở núi xử sự vượt tầm thường,
Chớ để thân tâm lắm chuyện vương,
Ngày trước Triệu Châu khi tiếp khách,
Vua sang còn chẳng bước khỏi giường.
Nghĩa:
Ở núi thâm ẩn đóng thiền quan,
Vui kiếp phù sinh bữa bữa nhàn,
Pháp diệu ngồi nghe tùng dậy gió,
Cơm vua thịnh soạn mặc tình xơi.
Nghĩa:
Ở núi quy ẩn giữ tiên thiên,
Thầm tỏ chân như giáo ngoại truyền,
Đạo lớn xưa nay không chỗ nhiễm,
Chớ cho vọng tưởng nhớp tâm điền.
Nghĩa:
Ở núi tỉnh lặng thật chân tu,
Học đạo gì hơn dứt niệm đầu,
Chéo áo minh châu còn sẵn đó,
Lựa là cay đắng khắp nơi cầu.
Nghĩa:
Ở núi mai danh dưỡng chân tâm,
Nhiều kẻ lầm mê rong ruỗi tầm,
Mới biết người xưa lời chẳng dối,
Không dây đờn nọ đấy tri âm.
Nghĩa:
Ở núi hồi thủ tự trầm ngâm,
Trượng sắt đâu hay đổi tấc vàng,
Biển có hồi khô rồi thấy đáy,
Người mê suốt kiếp chẳng biết tâm.
Nghĩa:
Ở núi ngồi vững tợ như si,
Tâm địa tinh thuần rõ rõ tri,
Gió dậy sóng tùng tai rộn rã,
Mặc cho bốn phía cứ ngâm thi.
Nghĩa:
Ở núi khiển hứng chợt thành thi,
Nhưng nếu mê thi cũng lại si,
Sống chết mạng căn như chửa dứt,
Chớ đem thấy biết để lòng khi.
Nghĩa:
Ở núi hiểm trở ít người lên,
Giường trúc ngồi Thiền một vị tăng,
Vắng vẻ thẹn mình không bạn lứa,
Tự lòng mình biết lạnh dường băng.
Nghĩa:
Ở núi lạnh nhạt Phật gia phong,
Ấy thật thân hèn Đạo chẳng hèn,
Của báu ma ni người ít biết,
Thương thay giáp mặt chửa từng quen.
Nghĩa:
Ở núi yên lặng thích thú thay,
Khéo giữ lương tâm dưỡng tháng ngày,
Tùng lạnh trăng soi bày ý Tổ,
Trong đây được có mấy người hay.
Nghĩa:
Ở núi phong vật vốn thiên nhiên,
Đạo lớn rành rành trước mắt liền,
Ý nhiệm Tổ tông không biết đến,
Uổng công niệm Phật với tham thiền.
Nghĩa:
Ở núi gồm chứa cả hư không,
Muôn trượng đều bày trọn ở trong,
Khắp chốn hiện thành là việc Phật,
Chẳng cần gậy hét với ra công.
Nghĩa:
Ở núi ngồi lặng tỏ chân không,
Một pháp thông rồi muôn pháp thông,
Chẳng phải riêng ta tới chỗ ấy,
Hằng sa chư Phật thể đều đồng.
Nghĩa:
Ở núi tùy thuận ấy tu hành,
Có sợ lo chi mặc phù sinh,
Sẵn có chân không đâu phải ngộ,
Thánh nhân âu cũng gượng nên danh.
Nghĩa:
Ở núi thường khảy đờn không dây,
Một khúc vô sanh thỏa thích tâm,
Ngay đó xoay nghe nghe tự tánh,
Nhà ai không có Phật Quan Âm.
Nghĩa:
Ở núi riêng cõi Đại Hùng Phong,
Bốn mặt thênh thang chốn chốn thông,
Mây tới mây lui che chẳng kín,
Nhất thừa cao tỏ thái hư không.
Nghĩa:
Ở núi vắng lặng ngọa thiền tăng,
Hôm sớm thường gìn Bát Nhã đăng,
Mới biết chúng sanh nguyên gốc Phật,
Thế thì nước nóng ấy hàn băng.
Nghĩa:
Ở núi diệu vợi bụi không vương,
Chẳng đợi tu trì thấy bản chân,
Phật thật đâu từng rời gang tấc,
Người nay chính thật cựu thời nhân.
Nghĩa:
Ở núi thỏa thích mặc Đông Tây,
Đạo lớn đâu từng có ngộ mê,
Thịt tốt khoét hư tay chẳng nở,
Bát tô thêm cán cũng ô dề.
Nghĩa:
Ở núi nằm khểnh giữ thanh hư,
Ăn uống tùy duyên vui có dư,
Chẳng phải đem tâm trừ vọng tưởng,
Mới hay vọng tưởng ấy chân như.
Nghĩa:
Ở núi tranh cỏ một tiểu am,
Đạo lớn nêu bày có chỉ nam,
Chớ kẹt Hóa Thành quên Bảo Sở,
Càng thêm siêng gắng gấp nên tham.
Nghĩa:
Ở núi cao ẩn tận trong mây,
Nhiều kẻ mù mê chẳng biết tung,
Hướng ngoại tìm chơn chơn lánh mãi,
Ghi thuyền mò kiếm uổng ra công.
Nghĩa:
Ở núi bình địa có thâm khanh,
Chỉ quí người đi mắt sáng lanh,
Trói cọp dẹp rồng là việc mọn,
Pháp thân chẳng động rõ vô sanh.
Nghĩa:
Ở núi độc xuất đỉnh cao phong,
Bốn phía cheo leo khó tựa trông,
Nói với người đều chẳng chịu,
Rồi thôi chỉ có một mình thông.
Nghĩa:
Ở núi quạnh hiu cảnh Đạo gia,
Một tấm lòng vui ngày tháng qua,
Cơm pháp Kim Ngưu ăn đỡ đói,
Khát thôi lại uống Triệu Châu trà.
Nghĩa:
Ở núi tham học chí riêng cao,
Vì đạo quên mình chẳng nại lao,
Ngồi đến canh năm trời rựng sáng,
Tùng xanh móc nhễu ướt thiền bào.
Nghĩa:
Ở núi gởi dấu tạm nương về,
Sống thác nào ai biết được kỳ,
Xin nhắn người đời mau tỉnh giác,
Hành trang sắm sẵn kíp quay về.
Nghĩa:
Ở núi kết cỏ ở gành non,
Mừng được rời thân khỏi lối mòn,
Biết đủ là vui niềm an lạc,
Thẹn thuồng quá phận khó chu toàn.
Nghĩa:
Ở núi hạnh khó nhất đầu đà,
Bỏ ngủ quên ăn giũa mài ta,
Thấu lẽ duy tâm chân Tịnh Độ,
Mới hay Cực Lạc tại Ta Bà.
Nghĩa:
Ở núi cảnh đẹp khác tầm thường,
Khắp để người xem chẳng dấu tàng,
Chim nước cây rừng bày diệu pháp,
Non cao đất phẳng thảy Tây phương.
Nghĩa:
Ở núi ngồi vững một bồ đoàn,
Hằng dụng công phu tự phản quan,
Bổn mạng nguyên thần đà biết trước,
Lưỡi đầu khỏi bị kẻ khi man.
Nghĩa:
Ở núi khách đến hỏi công phu,
Tịch chiếu đều quên một chữ vô,
Chớ lạ Thầy già không pháp nói,
Lâu nay lười biếng có qui mô.
Nghĩa:
Ở núi chỉ để một thiền giường,
Tâm pháp cả hai thảy chẳng nương,
Lâm Tế Đức Sơn còn đánh hét,
Lão tăng lẳng lặng thấy Không Vương.
Nghĩa:
Ở núi thư thả để tàng thân,
Thiên hạ biết tâm có mấy người,
Trừ có nhà ta con ruột thịt,
Người đời đều giả chớ chẳng chân.
Nghĩa:
Ở núi bụi nhớp chẳng vào mình,
Lòng đạo tiêu dao một cõi xinh,
Việc ấy mọi người có thể học,
Vốn không kim cổ cũng nghiêng chinh.
Nghĩa:
Ở núi tột lý tự mình vui,
Chẳng bị danh hư tướng huyễn thu,
Ba giáo vốn là đồng một thể,
Không Tăng không Đạo cũng không Nhu.
Nghĩa:
Ở núi đất vắng lặng than thầm,
Hồng tía đua nhau trái loạn chu,
Phải biết tiên thiên đều lý đó,
Cốc thần thái cực ấy chân như.
Nghĩa:
Ở núi nhàn nhã chốn thanh u,
Quẳng hết dong chơi tự do thôi,
Thầm lặng vắng tanh tình niệm sạch,
Đêm nằm ngày ngủ trăm việc rồi.
Nghĩa:
Ở núi trống lặng học vô vi,
Những việc qua rồi chớ nghĩ chi,
Hiện tại hãy còn vô sở trú,
Vị lai há dễ nghĩ cùng suy.
Nghĩa:
Ở núi ngồi lặng dưỡng tâm linh,
Hạt châu trên trán khéo giữ gìn,
Mở miệng với người lời chẳng có,
Gật đầu chỉ để tấc lòng tin.
Nghĩa:
Ở núi vui thích một mình hay,
Bốn phía đều như mặc đó đây,
Nếu được cõi lòng không khuất lấp,
Mặc tình ngâm vịnh sống qua ngày
Nghĩa:
Ở núi xa tít tận gành cao,
Ngâm gió gào trăng thỏa chí ta,
Than thở người đời sao chẳng tỉnh,
Một vầng chân tánh mãi chìm xa.
Nghĩa:
Ở núi rãnh việc cửa không gài,
Ngồi lặng im lòng bặt thấy nghe,
Màn giấy tùng mai trăng rọi sáng,
Đất trời cảnh ấy một không hai.
Nghĩa:
Ở núi thăm thẳm lộ xa trông,
Đạo lớn không hình vốn trống không,
Mặt đất ngày lau cơn gió mát,
Ngọn tùng đêm máng chiếc trăng trong.
Nghĩa:
Ở núi chót vót thế riêng mình,
Gió mát trăng trong một gánh xinh,
Ý Tổ Tây lai nào có biết,
Trước sao sau vậy vững niềm tin.
Nghĩa:
Ở núi cửa lớn chẳng từng gài,
Đạo cả nhằm cơ mặc khách lai,
Nếu được lão Tăng thân xét đến,
Người người rường cột khá nên tài.
Nghĩa:
Ở núi muốn đến kiếm thiên chân,
Trước đọc vỡ lòng, thượng đại nhân,
Đọc đến “cửa lao” nơi biết lễ,
Mười phương thế giới hiện toàn thân.
Nghĩa:
Ở núi mây trắng ẩn bên gành,
Gió nhập rừng tùng sấm pháp sanh,
Dục tỉnh thế gian người ngáy ngủ,
Mở bừng đôi mắt chớ loanh quanh.
Nghĩa:
Ở núi ánh nắng rọi đầu tiên,
Chính đó thừa đương mắt mở liền,
Nhận rõ nhất thừa đường thẳng tắt,
Cần gì phải nhọc đến non thiên.
Nghĩa:
Ở núi bốn phía dậy yên hà,
Đảnh đá phần hương tụng Pháp Hoa,
Ba cõi không yên như lửa đốt,
Gác xe trâu trắng lão tăng ra.
Nghĩa:
Ở núi tiếng quốc nửa đêm kêu,
Gành trước khe xanh thác đẹp kề,
Chưa đến phập phồng non hiểm trở,
Qua rồi mới biết lối cao đê.
Nghĩa:
Ở núi chớ gạt cõi lòng ta,
Mới biết lên cao mắt thấy xa,
Buông đó cõi trời che chẳng khắp,
Gom về chỉ gọn mảy lông mà.
Nghĩa:
Ở núi quen biết chẳng ngại ngần,
Gương sáng đài cao nghiệm lựa nhân,
Tốt xấu khó che đều rọi suốt,
Xưa nay gương sáng chẳng sơ thân.
Nghĩa:
Ở núi đá dựng lạnh vô vàn,
Kiếm báu treo hiên loé nhãn quang,
Chẻ óc tà ma phường ngoại đạo,
Thầy già thiền định vẫn vui an.
Nghĩa:
Ở núi riêng dựng một gia phong,
Chẳng với người đời thú vị đồng,
Ngựa gỗ trông mây dong ruỗi hí,
Bặt không âm tín dứt hành tung.
Nghĩa:
Ở núi đường hiểm khó thông nơi,
Mù mắt làm sao đến thảnh thơi,
Chỉ bậc tác gia tung thủ đoạn,
Gặp nhau ngay chỗ trọn không lời.
Nghĩa:
Ở núi khách đến hỏi thiền tông,
Mới biết từ xưa lỗi dụng công,
Mở miệng đã thông nơi gốc rễ,
Thương thay chẳng biết rõ chân không.
Nghĩa:
Ở núi rõ được lẽ chân không,
Sao hỏi Nam tông với Bắc tông,
Như ý Bửu Châu tay nắm giữ,
Chốn nào soi sáng chẳng tròn thông.
Nghĩa:
Ở núi học Đạo chửa gian nan,
Chỉ khó gìn sao Đạo vẹn toàn,
Trăm thước đầu sào thêm bước tiến,
Một chùy cửa Tổ đập tan hoang.
Nghĩa:
Ở núi quay lại muốn về ư?
Biết rõ nguyên lai cả thảy hư,
Lần cửa xin ăn đừng thế ấy,
Minh châu trong áo giàu có dư.
Nghĩa:
Ở núi nghèo sạch chẳng xa hoa,
Nước lá thay trà đãi khách xa,
Mắt sáng lưỡi kề biết vị tốt,
Toàn thân nhẹ nhỏm sớm về nhà.
Nghĩa:
Ở núi mây trắng ẩn trong đây,
Đạo ở bên trong ý tự hay,
Công án hiện thành người chẳng biết,
Tìm ngoài cành lá để leo cây.
Nghĩa:
Ở núi phất phới lá vàng rơi,
Một nắm tay không thông khắp nơi,
Phật Tổ chỉ truyền trong việc Đạo,
Gặp người trễ biếng miệng nhiều lời.
Nghĩa:
Ở núi lá rụng thảy về căn,
Bày hiện chân thường tỏ pháp thân,
Việc đó chẳng rành hao sức lắm,
Trăm thành nước lửa rộng không ngần.
Nghĩa:
Ở núi nhà đạo tài chi hơn,
Mỗi pháp toàn bày tối thượng thừa,
Chớp mắt nhướng mày đều ý Tổ,
Niêm chùy dựng phất cũng tình chân.
Nghĩa:
Ở núi nhà lợp chỉ bằng tranh,
Dứt hết giao tình giữ đạm thanh,
Mây trắng dừng ngang che cửa động,
Chim chiều quên ổ lượng chung quanh
Nghĩa:
Ở núi chẳng chán cảnh núi non,
Tranh lá sơ sài am cỏn con,
Chỉ một lão tăng còn chật hẹp,
Khách trần tá túc chỗ đâu còn.
Nghĩa:
Ở núi thấy đạo đã quên non,
Muôn pháp đều như tự vuông tròn,
Bốn hướng như nhau phân chẳng được,
Thái hư chốn ấy dưỡng thân toàn.
Nghĩa:
Ở núi đầy mắt ấy non xanh,
Cao thấp quanh co đá chập chồng,
Đi đến nước cùng non tận chỗ,
Tự nhiên được báu chẳng về không.
Nghĩa:
Ở núi vẫn ở cõi Ta Bà,
Trăm tuổi nhanh như một sát na,
Ngay báo thân này tròn vóc Phật,
Trước đầu lối thẳm đã gần qua.
Nghĩa:
Ở núi riêng cõi giữ thiên chơn,
Gió mát trăng thanh chuyển pháp xong,
Một đại tạng kinh đều nói hết,
Biết ai là kẻ ở bên trong