Bồ-đề Đạt-ma
Trúc Thiên dịch:
1.-
Ngã bổn cầu tâm tâm tự trì,
Cầu tâm bất đắc đãi tâm tri.
Phật tánh bất tòng tâm ngoại đắc,
Tâm sanh tiện thị tội sanh thì.
2.-
Ngã bổn cầu tâm bất cầu Phật,
Liễu tri tam giới không vô vật.
Nhược dục cầu Phật đản cầu tâm,
Chỉ giá tâm tâm tâm thị Phật.
1.-
Tâm tâm tâm,
Nan khả tầm.
Khoan thời biến pháp giới,
Trách giã bất dung châm.
NHẤT CANH đoan tọa kiết già phu,
Di thần tịch chiếu hung đồng hư.
Khoáng kiếp do lai bất sanh diệt,
Hà tu sanh diệt diệt sanh cừ?
Nhất thiết chư pháp giai như huyễn,
Bổn tánh tự không na dụng trừ!
Nhược thức tâm tánh phi hình tượng,
Trạm nhiên bất động tự như như.
NHỊ CANH ngưng thần chuyển minh tịnh,
Bất khởi ức tưởng chân như tính.
Sum la vạn tượng tịnh qui không,
Cánh chấp hữu không toàn thị bịnh.
Chư pháp bổn tự phi không hữu,
Phàm phu vọng tưởng luận tà chánh.
Nhược năng bất nhị kỳ cư hoài,
Thủy đạo tức phàm phi thị thánh,
TAM CANH tâm tịnh đẳng hư không,
Biến mãn thập phương vô bất thông.
Sơn hà thạch bích vô năng chướng,
Hà sa thế giới tại kỳ trung.
Thế giới bổn tánh chân như tánh,
Diệc vô bổn tánh tức hàm dung.
Phi đản chư Phật năng như thử,
Hữu tình chi loại phổ giai đồng.
TỨ CANH vô diệt diệc vô sinh,
Lượng dữ hư không pháp giới bình.
Vô lai vô khứ vô khởi diệt,
Phi hữu phi vô phi ám minh.
Vô khởi chư kiến Như lai kiến,
Vô danh khả danh chư Phật danh.
Duy hữu ngộ giả ưng năng thức,
Vị hội chúng sanh do nhược manh.
NGŨ CANH bát nhã chiếu vô biên,
Bất khởi nhất niệm lịch tam thiên.
Dục kiến chân như bình đẳng tánh,
Thậm vật sanh tâm tức mục tiền.
Diệu lý huyền ảo phi tâm trắc,
Bất dụng trầm trục linh bì cực.
Nhược năng vô niệm tức chân cầu,
Cánh nhược hữu cầu hoàn bất thức.
Kệ rằng:
Ngoại tức chư duyên,
Nội tâm vô đoạn.
Tâm như tường bích,
Khả dĩ nhập đạo.
Minh Phật tâm tông,
Ðẳng vô sai ngộ.
Hành giải tương ưng,
Danh chi viết tổ.
Yếu Chỉ Thiền Đạt Ma
Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải
1
Ta vốn cầu tâm tâm tự trì,
Cầu tâm chớ khá đợi tâm tri.
Tánh Phật ngoài tâm không chứng được,
Tâm sanh thì tội phát liền khi.
2
Ta vốn cầu tâm chẳng cầu Phật,
Rõ ra ba cõi không một vật.
Ví muốn cầu Phật thà cầu tâm,
Chỉ tâm tâm tâm ấy tức Phật.
1
Tâm tâm tâm,
Khó nổi tầm.
Tung ra bao trùm pháp giới,
Thâu lại chẳng đầy mũi kim.
Ðoan trang CANH MỘT tịnh ngồi tu,
Tịch chiếu tinh thần tợ thái hư.
Muôn kiếp vốn không sanh với diệt,
Học đòi sanh diệt diệt gì ư?
Gẫm xem các pháp trò ma ảo,
Tánh vốn là không uổng sức trừ!
Ví biết tâm mình không tướng mạo,
Lặng im chẳng động tự như như.
CANH HAI ngưng thần chuyển minh tịnh,
Chẳng tưởng chẳng nhớ nhân như tính.
Um tùm muôn tượng trở về không,
Chấp có chấp không lại vẫn bệnh.
Các pháp như nhiên chẳng có không,
Phàm phu tưởng quấy bàn tà chánh.
Ví biết gìn lòng lẽ "chẳng hai".
Ai nói tức phàm chẳng phải thánh.
CANH BA tâm tịnh sáng hư không,
Rộng khắp mười phương đâu chẳng thông.
Tường vách núi sông không ngăn ngại,
Bao la vũ trụ tự nơi trong.
Tánh của càn không là Phật tánh,
Cũng không bổn tánh tức hàm dung.
Nào phải riêng đâu chư Phật được,
Hữu tình muôn loại vẫn chung đồng.
CANH TƯ không diệt cũng không sanh,
Rộng ví hư không pháp giới bình.
Không qua không lại không còn mất,
Chẳng có chẳng không chẳng ám minh.
Không vọng thấy gì: Như lai thấy,
Không gọi danh gì: chân Phật danh.
Ai có ngộ qua rồi mới hiểu,
Chúng sanh chưa rõ bởi thong manh.
CANH NĂM bát nhã chiếu vô biên,
Chẳng khởi một niệm suốt tam thiên.
Muốn thấy chơn như bình đẳng tánh,
Khéo chớ sanh tâm trước mắt tiền.
Lẽ ấy diệu huyền không lượng được,
Dụng công đuổi bắt thêm nhọc sức.
Nếu không một niệm tức chân cầu,
Còn có tâm cầu chưa tỉnh thức.
Nghĩa:
Ngoài bứt muôn duyên,
Trong bặt nghĩ tưởng.
Tâm như tường vách,
Mới là vào đạo.
Sáng Phật tâm tông, (4)
Thảy không sai ngộ.
Lấy hiểu hợp nhau,
Ấy gọi là Tổ.
CỬA THỨ BA NHỊ CHỦNG NHẬP
Phàm vào đạo có nhiều đường nhưng nói cho cùng thì không ngoài hai đường này:
Một là lý nhập.
Hai là hạnh nhập.
- I -
LÝ NHẬP là mượn "giáo" để ngộ vào "tông", tin sâu rằng tất cả sanh linh đều chung đồng một chân tánh, chỉ vì khách trần bên ngoài và vọng tưởng bên trong che lấp nên chân tánh không hiển lộ được.
Nếu bỏ vọng về chân, tinh thần ngưng trụ như vách đá (1) thì không thấy có ta có người, thánh phàm một bực như nhau; nếu một bực kiên cố không lay chuyển, rốt cùng không lệ thuộc vào văn giáo, được như thế tức ngầm hợp với lý, hết ý niệm phân biệt.
Vô vi một cách vắng lặng và hồn nhiên gọi là lý nhập</div>
- II -
HẠNH NHẬP là nói về bốn hạnh, ngoài ra các hạnh khác đều bao gồm trong ấy.
Bốn hạnh là gì?
- Một là báo oán hạnh.
- Hai là tùy duyên hạnh.
- Ba là vô sở cầu hạnh.
- Bốn là xứng pháp hạnh.
1.- Sao gọi là BÁO OÁN HẠNH?
Người tu hành khi gặp cảnh khổ nên tự nghĩ như vầy:
"Ta từ bao kiếp trước buông lung không học, bỏ gốc theo ngọn, trôi dạt theo vật chất, nặng lòng thương ghét, gây hại không cùng. Ðời nay tuy ta không phạm lỗi, nhưng nghiệp dữ đã gieo từ trước tới nay kết trái chín, điều ấy nào phải do trời hoặc người tạo ra đâu, vậy ta đành nhẫn nhục chịu khổ đừng nên oán trách".
Kinh nói: "Gặp khổ không buồn.
Vì sao vậy? Vì thấu suốt (luật nhân quả) vậy.
Khi tâm ấy đã sanh (2) ấy là ứng hợp với lý.
Mượn oán mà hành đạo nên nói là hạnh trả oán.
2.- Hai là TÙY DUYÊN HẠNH
Chúng sanh đều do duyên nghiệp chuyển thành, chẳng có cái tôi. Mọi nỗi khổ vui đều do nhân duyên sanh. Nếu nay được quả báo tốt, hưởng đủ vinh dự, ấy là do nhân lành thuở trước cảm nên, nay mới được vậy. Hễ hết duyên thì lại hoàn không, mừng vui nỗi gì? Ðược mất đều tùy theo duyên, nhưng tâm người không vì vậy được thêm hoặc bớt mất.
Nếu thấu đáo được vậy thì gió vui chẳng động, lặng lẽ mà thuận đạo, nên nói là hạnh tùy thuận theo duyên nghiệp.
3.- Ba là VÔ SỞ CẦU HẠNH
Người đời mãi đắm mê, việc gì cũng tham trước thế gọi là cầu.
Bậc trí ngộ được lẽ chân, chuyển ngược thế tục, nên tâm an trụ ở vô vi, thân hình tùy nghi vận chuyển.
Muôn vật đều là không, có gì vui mà cầu được.
Hể có công đức thì liền có hắc ám đuổi theo.
Có thân ắt khổ, được gì mà vui?
Ở lâu trong ba cõi khác nào như trong nhà lửa.
Có thân ắt khổ, được gì mà vui?
Thông suốt được như vậy, ắt buông hết sự vật, dứt tưởng chẳng cầu.
Kinh nói: "Còn cầu còn khổ. Hết cầu mới được vui".
Xét biết không cầu mới thực là đạo hạnh, nên nói là hạnh không cầu mong.
4.- Bốn là XỨNG PHÁP HẠNH
Cái lý thanh tịnh của tự tánh gọi là pháp.
Tin hiểu lý ấy thì mọi hình tướng hóa thành không, không nhiễm không trước, không bỉ, không thử.
Kinh nói: Pháp không có chúng sanh, hãy lìa chúng sanh cấu. Pháp không có tướng ngã, hãy lìa ngã cấu.
Bậc trí tin hiểu được vậy thì tùy xứng theo pháp mà hành.
Bổn thể của Pháp vốn không tham lẫn, cho nên dù đem thân mạng và của cải ra bố thí vẫn không hối tiếc. Thấu rõ ba cái không (3) thì không còn ỷ lại và chấp trước. Chỉ cần gạn trừ trần cấu, tùy nghi giáo hóa chúng sanh, nhưng không mắc phải hình tướng, thế là tự hành, đã lợi người lại thêm trang nghiêm đạo Bồ đề. Bố thí đã vậy thì năm độ (Bát nhã) khác cũng thế. Vì dứt trừ vọng tưởng mà hành phép tu sáu độ, nhưng thật không có gì gọi là hành cả nên nói là hành tùy xứng theo pháp.
GHI CHÚ:
(1) Nguyên văn: ngưng trụ bích quán có nghĩa là lắng đọng trong cái định bích quán, cái định ấy không khác gì hơn là Tổ sư Thiền.
(2) Khi có được tư tưởng ấy.
(3) Ba không: không người cho, không người nhận, không vật bị cho; nói chung thì không ngã, không nhân, không vật mà chỉ có hành động.
(4) Lấy tâm Phật làm tông chỉ, tức là Thiền, đối với các pháp môn khác lấy lời nói của Phật làm tông chỉ gọi là Phật ngữ tông.