Luận nói: “Vì chính lý của Thánh giáo là định lượng”. Nghĩa là Đức Phật nói rải rác trong kinh ba nghĩa tâm ý thức khác biệt. Tập khởi gọi là tâm, tư lương gọi là ý, liễu biệt gọi là thức. Ba nghĩa ấy tuy bao gồm tám thức mà mỗi thứ biểu hiện tính cách riêng. Thức thứ tám gọi là tâm, vì tập họp các chủng tử khởi các pháp. Thức thứ bảy gọi là ý, vì duyên tạng thức hằng xét nét tư lương chấp làm ngã. Sáu thức gọi là thức, vì liễu biệt chuyển từ sáu biệt cảnh thô động gián đoạn. Như Nhập Lăng Già có bài tụng.
Tạng thức gọi là tâm
Tính tư lương là ý
Phân biệt các cảnh tướng
Đây chính gọi là thức.
Giải thích: Tuy bao gồm tám thức đều gọi là tâm ý thức mà mỗi thứ đều biểu hiện tính cách riêng.
Thức thứ tám gọi là tâm, là tất cả hiện hành huân tập chủng tử các pháp, hiện hành là y, chủng tử là nhân, vì hay sinh tất cả pháp.
Thức thứ bảy gọi là ý, trong nhân hữu lậu chỉ duyên ngã cảnh, vô lậu duyên thức thứ tám và chân như; trên quả nó duyên tất cả pháp.
Sáu thức gọi là thức, vì liễu biệt chuyển từ sáu biệt cảnh, thể nó là pháp thô động có gián đoạn. Dễ liễu biệt là thô, chuyển dời là động, chẳng tương tục là gián đoạn; vì mỗi thứ đều có tính cách đặc biệt nên có tên gọi.T-C-L,tập 3,Q 52,docx trg 6,sách trg 377
BIẾN KẾ HAY KHÔNG BIẾN KẾ ?
Đáp: Cổ đức nói: “Thức thứ tám và năm thức trước không chấp, vì do nhân duyên biến hiện nên chỉ có hiện lượng. Hễ chấp thì phải suy tư tính toán. Chỉ thức thứ sáu và thức thứ bảy có biến kế phân biệt nên hai thức này có chấp.
Có bốn trường hợp:
1- Biến mà chẳng kế: Độc đầu ý thức duyên khắp tất cả mà không kế chấp.
2- Kế mà chẳng biến: Thức thứ bảy chỉ duyên a-lại-da khởi kế chấp.
3- Cũng biến cũng kế: Thức thứ sáu trong nhân có so đo tính toán khắp cả.
4- Chẳng kế chẳng biến: Năm thức trước chỉ duyên năm trần không so đo tính toán; năm thức trước hồn nhiên chứng cảnh, chẳng vướng mắc danh ngôn, vì chỉ là hiện lượng. Thức thứ tám cũng thế.T-C-L ,tập 3,Q 55,docx trg 20, sách trg 475