I. Xuất xứ:
Đời nhà đường, ngài huyền trang là một vị pháp sư thông bác ba tạng kinh điển của phật giáo. Ngài dịch rất nhiều kinh luận đại thừa. Trong đó có những bộ luận thuộc về tông duy thức. Bát thức quy củ tụng ở đây chính là một trong những bộ luận của tông duy thức do ngài sáng tác bằng văn xuôi. Nghĩa lý của tông duy thức trong những bộ luận do ngài phiên dịch cũng như sáng tác thì rất sâu xa thâm diệu và khiến cho những người chưa quen thuộc với tông phái nói trên gặp phải khó khăn không ít trong việc nghiên cứu để tìm hiểu chân giá trị môn học này. Ngài khuy cơ là đệ tử của ngài huyền trang, mong muốn sự lợi ích của tông duy thức được phổ biến sâu rộng trong nhân gian, liền xin phép bổn sư toát yếu bộ luận đây thành bài tụng để cho người đọc dễ nhớ. Những bài tụng trong bát thức quy củ tụng gồm có 4 chương và mỗi chương có 12 câu tụng, nhằm mục đích trình bày rõ ràng hành tướng của tám tâm thức chính yếu với nhan đề là “bát thức quy củ tụng".
Ii. Định nghĩa:
A.- bát thức:
Thức: là hiểu biết, là phân biệt. Bát thức nghĩa là tám loại hiểu biết, tám loại phân biệt. Tám loại hiểu biết được liệt kê như sau:
1.- hiểu biết qua mắt gọi là nhãn thức.
2.- hiểu biết qua tai gọi là nhĩ thức.
3.- hiểu biết qua mũi gọi là tỷ thức.
4.- hiểu biết qua lưỡi gọi là thiệt thức.
5.- hiểu biết qua thân gọi là thân thức.
6.- hiểu biết qua ý (manas) gọi là ý thức.
7.- hiểu biết qua sự so đo, chấp trước gọi là mạt na thức.
8.- hiểu biết qua sự xây dựng, qua sự bảo trì và qua sự tàng trữ vạn pháp gọi là alaya thức.
Sáu tâm thức ở trước, từ nhãn thức cho đến ý thức đều y cứ nơi căn (giác quan) để đặt tên cho chúng. Thức mạt na thứ bảy thường duyên đến và chấp trước nơi kiến phần tư lương của thức alaya thứ tám để chọn làm ngã pháp (ngã tướng và pháp tướng), nên được đặt tên là thức mạt na. Kiến phần tư lương nghĩa là phần tác dụng (activity) của thức thể alaya trong công việc tính toán so lường để xây dựng và bảo trì vạn pháp đúng theo giá trị luật nhân quả nghiệp báo của mỗi pháp nên gọi là kiến phần tư lương, còn thức alaya thứ tám chính là chỉ cho thức thể alaya (thức thể là tâm thức thuộc loại dynamic-state). Thức thể alaya dịch là vô một, nghĩa là tâm thức này thường hay dung chứa và bảo trì hạt giống của tất cả sự vật không cho tiêu diệt, nên tâm thức này gọi là vô một.
B.- quy củ:
Quy: là dụng cụ để đo hình tròn. Củ: là dụng cụ để đo hình vuông. Quy củ: nghĩa là những dụng cụ để đo hình tròn và hình vuông của thợ mộc. Người thợ mộc, nếu không có quy-củ thì không thể nào xây dựng sự vật đúng theo kiểu mẫu. Quy củ ở đây nghĩa bóng là phương thức, là khuôn mẫu cho việc xây dựng cũng như sáng tạo các pháp và con người.
C.- tụng:
Tụng: là những bài tụng gồm những lời văn ngắn gọn, dễ đọc, mà khi đọc thì có âm, có điệu dễ nghe. Nói cách khác, những bài tụng giảng giải về tám tâm thức và thuyết minh hành tướng của mỗi tâm thức một cách rõ ràng, thiết thực, chính xác, có đường lối giống như quy củ, nên gọi là bát thức quy củ tụng.
Nguyên văn chữ hán của bát thức quy củ tụng
ÂM
TIỀN NGŨ THỨC TỤNG:
Tánh cảnh, hiện lượng, thông tam tánh
Nhãn, nhĩ, thân tam nhị địa cư
Biến hành, biệt cảnh, thiện thập nhất
Trung nhị, đại bát, tham, sân, si.
Ngũ thức đồng y tịnh sắc căn
Cửu duyên, bát, thất hảo tương lân
Hiệp tam, ly nhị, quán trần thế
Ngu giả nan phân thức dữ căn.
Biến tướng, quán không duy hậu đắc
Quả trung du tự bất thuyên chơn
Viên minh sơ phát thành vô lậu
Tam loại phân thân dứt khổ luân.
ĐỆ LỤC THỨC TỤNG:
Tam tánh, tam lượng, thông tam cảnh
Tam giới luân hồi dị khả tri
Tương ưng tâm sở ngũ thập nhất
Thiện, ác lâm thời biệt phối chi.
Tánh, giới, thọ kia hằng chuyển dịch
Căn, tùy, tín đẳng tổng tương liên
Động thân, phát ngữ độc vi tối
Dẫn, mãn năng chiêu nghiệp lực khiên.
Phát khởi sơ tâm hoan hỷ địa
Câu sanh du tự hiện triền miên
Viễn hành địa hậu thuần vô lậu
Quán sát viên minh chiếu đại thiên
ĐỆ THẤT THỨC TỤNG
Đới chất hữu phú thông tình, bản
Tùy duyên chấp ngã, lượng vi phi
Bát đại, biến hành, biệt cảnh huệ
Tham, si, ngã kiến, mạn tương tùy.
Hằng thẩm tư lương ngã tương tùy
Hữu tình nhật dạ trấn hôn mê
Tứ hoặc bát đại tương ưng khởi
Lục chuyển hô vi "nhiễm tịnh y".
Cực hỷ sơ tâm, bình đẳng tánh
Vô công dụng hạnh ngã hằng thôi
Như Lai hiện khởi tha thọ dụng
Thập địa Bồ-Tát sở bị côi.
ĐỆ BÁT THÚC TỤNG :
Tánh duy vô phú ngũ biến hành
Giới, địa tùy tha nghiệp lực sinh
Nhị thừa bất liễu nhơn mê chấp
Do thử năng huân luận chủ tranh.
Hạo hạo tam tàng bất khả cùng
Uyên thâm thất lãng cảnh vi phong
Thọ huân trì chủng căn thân khí
Khứ hậu lai tiên tác chủ công.
Bất động địa tiền tài xả tạng
Kim cang đạo hậu Dị thục không
Đại viên vô cấu đồng thời hiện
Phổ chiếu thập phương trần sát trung.
ÂM
TIỀN NGŨ THỨC TỤNG:
Tánh cảnh, hiện lượng, thông tam tánh
Nhãn, nhĩ, thân tam nhị địa cư
Biến hành, biệt cảnh, thiện thập nhất
Trung nhị, đại bát, tham, sân, si.
Ngũ thức đồng y tịnh sắc căn
Cửu duyên, bát, thất hảo tương lân
Hiệp tam, ly nhị, quán trần thế
Ngu giả nan phân thức dữ căn.
Biến tướng, quán không duy hậu đắc
Quả trung du tự bất thuyên chơn
Viên minh sơ phát thành vô lậu ****
Tam loại phân thân dứt khổ luân.
ĐỆ LỤC THỨC TỤNG:
Tam tánh, tam lượng, thông tam cảnh
Tam giới luân hồi dị khả tri
Tương ưng tâm sở ngũ thập nhất
Thiện, ác lâm thời biệt phối chi.
Tánh, giới, thọ kia hằng chuyển dịch
Căn, tùy, tín đẳng tổng tương liên
Động thân, phát ngữ độc vi tối
Dẫn, mãn năng chiêu nghiệp lực khiên.
Phát khởi sơ tâm hoan hỷ địa
Cu sanh du tự hiện triền miên
Viễn hành địa hậu thuần vô lậu
Quán sát viên minh chiếu đại thiên.
ĐỆ THẤT THỨC TỤNG:
Đới chất hữu phú thông tình, bản
Tùy duyên chấp ngã, lượng vi phi
Bát đại, biến hành, biệt cảnh huệ
Tham, si, ngã kiến, mạn tương tùy.
Hằng thẩm tư lương ngã tương tùy
Hữu tình nhật dạ trấn hôn mê
Tứ hoặc bát đại tương ưng khởi
Lục chuyển hô vi "nhiễm tịnh y".
Cực hỷ sơ tâm, bình đẳng tánh
Vô công dụng hạnh ngã hằng thôi
Như Lai hiện khởi tha thọ dụng
Thập địa Bồ-Tát sở bị côi.
ĐỆ BÁT THÚC TỤNG :
Tánh duy vô phú ngũ biến hành
Giới, địa tùy tha nghiệp lực sinh
Nhị thừa bất liễu nhơn mê chấp
Do thử năng huân luận chủ tranh.
Hạo hạo tam tàng bất khả cùng
Uyên thâm thất lãng cảnh vi phong
Thọ huân trì chủng căn thân khí
Khứ hậu lai tiên tác chủ ông.
Bất động địa tiền tài xả tạng
Kim cang đạo hậu Dị thục không
Đại viên vô cấu đồng thời hiện
Phổ chiếu thập phương trần sát trung.
NGHĨA
BÀI TỤNG VỀ NĂM THỨC ĐẦU
Chỉ một tánh cảnh, Một hiện hiện lượng, Đủ ba tánh thiện,ác ,vô ký.
Nơi địa thứ hai cỏi sơ thiền chỉ còn thân, nhĩ và thân thức.
Tạm sở có biến hành, biệt cảnh cùng với 11thiện tâm sở.
Và hai trung tuỳ, tám đại tuỳ, căn bản phiền não tham, sân, si.
Năm thức đều nương tịnh sắc căn,
Chín, bảy ,tám duyên hoà hợp sinh ,
Ba hợp, hai ly, nhận trần thế,
Người ngu hay lầm thúc với căn.
Bién tướng,quán không,chỉ hậu đắc,
Quả vị còn tự không gọi chân,
Thức thứ tám pháp trí viên minh,
Cả năm thức trước thành vô lậu.
BÀI TỤNG VỀ THỨC THỨ SÁU:
Đủ cả Ba tánh, ba lượng, ba cảnh
Chúng sanh Ba cõi dễ nhận biết,
Tâm sở Số đếm năm mươi mốt
Thiện, ác tùy lúc mà kết hợp .
Tánh, giới, và thọ thường thay đổi
Căn, tùy, tín.thảy nối liền sau
Trùm sai khiến thân động miệng nói,
Chuốc láy quả dẫn nghiệp,mãn nghiệp.
Tâm mới Phát khởi Hoan hỷ địa,
Câu sinh vẫn dây dưa ẩn núp,
Sau Viễn hành địa toàn vô lậu
Quan sát tròn sáng khắp đại thiên.
BÀI TỤNG VỀ THỨC THỨ BẢY
Chân đới chất,hữu phú vô ký,
Phi lượngchấp bát thức là ngã,
Biến hành,huệ và tám đại tuỳ,
Tham,si,kiến,mạn quanh ngã tưởng.
Thường xét nghiền ngẫm cái ngã tướng
Hữu tình Ngày đêm cứ mê lầm,
Bốn căn bản,tám đại tuỳ,kết đồng.
Sáu thức gọi là nhiễm tịnh y.
Sơ địa được sơ tâm Bình Đẳng,
Đạo Vô Công dụng trừ ngã chấp,
Như lai hiện tha thọ dụng thân,
Gia bị cho thập địa bồ tát.
BÀI TỤNG VỀ THỨC THỨ TÁM
vô phú,vô ký, năm biến hành
Nghiệp lực dẫn vào các Giới, Địa ,
Nhị thừa không rỏ vì mê chấp,
Do đó luận chủ mới tranh luận.
Lồng lộng ba tạng không thể cùng,
Gió cảnh nguồn sâu nổi bảy sóng,
Chịu huân, giữ chủng tử, căn, khí,
Đi sau đến trước làm ông chủ.
Tước bất đông địa bỏ chấp tàng,
Sau kim cang đạo không dị thục
Đại Viên Vô lậu phát đồng thời .
Soi khắp cả trần sát mười phương .
DỊCH VĂN VẦN
BÀI TỤNG VỀ NĂM THỨC ĐẦU:
Tánh cảnh, hiện lượng, thông ba tánh
Địa hai có nhãn, nhĩ và thân
Biến hành, biệt cảnh, mười một thiện
Trung hai, đại tám, si, tham, sân.
Chín, tám, bảy duyên cùng phối hợp
Năm thức đều nương tịnh sắc căn
Hai lìa, ba hợp ngắm trần thế
Kẻ dại hay lầm thức với căn.
Biến tướng, quán Không nhờ hậu đắc
Chứng rồi chưa hẳn đã như chân
Đại viên vừa hiện thành vô lậu
Vòng khổ dứt rồi chia ba thân.
BÀI TỤNG VỀ THỨC THỨ SÁU:
Ba tánh, ba lượng, thông ba cảnh
Ba cõi đi vòng dễ biết nhau
Tâm sở tương ứng năm mươi mốt
Thiện ác tùy thời phối hợp mau.
Tánh, giới, thọ kia thường biến đổi
Căn, tùy, tín... vẫn nối theo sau
Động thân, phát ngữ là chủ lực
Kéo về dẫn, mãn nghiệp mai sau.
Phát được sơ tâm địa Hoan hỷ
Câu sinh ngã chấp vẫn nằm sâu
Sau địa Viễn hành thành vô lậu
Quán sát tam thiên chiếu nhiện mầu.
BÀI TỤNG VỀ THỨC THỨ BẢY:
Đới chất, hữu phú, thông tình, bản
Nương theo chấp ngã, lượng là phi
Biến hành, đại tám, tuệ biệt cảnh
Tham, si, ngã, mạn cứ tương tùy.
Tư lương, hằng, thẩm, đi theo ngã
Ngày đêm bằn bặt giấc hôn mê
Bốn hoặc, tám đại, cùng tương ứng
Sáu chuyển nương làm nhiễm tịnh y.
Trí Bình Đẳng sinh địa Hoan hỷ
Tới Vô Công Dụng ngã liền đi
Đến lúc hiện thân tha thọ dụng
Mười địa muôn phương độ khó gì?
BÀI TỤNG VỀ THỨC THỨ TÁM:
Tánh kia vô phú, năm biến hành
Giới, Địa tùy theo nghiệp lực sinh
Nhị thừa chưa hiểu nên còn kẹt
Nên mãi còn đang bận luận tranh.
Mênh mông ba Tàng thật không cùng
Sông sâu gió cảnh sóng trào dâng
Nhận huân, giữ chủng, căn, thân, khí
Tới trước đi sau vai chủ nhân.
Địa tám từ đây rời bỏ Tạng
Tới Kim cương đạo Thục là không
Đại Viên Vô Cấu đồng thời hiện
Muôn cõi mười phương chiếu tận cùng.
TỔNG LUẬN BÁT THỨC QUY CỦ TỤNG:
Năm thức trước là tướng phần tự chứng của A-LẠI-DA thức (thức thứ tám).
Thức thứ sáu và thứ bảy là kiến phần tự chứng của A-LẠI-DA .
“Phạm vi của năm thức trước nương vào đoạn thực (đoàn thực )
Thức thứ sáu phân biệt nương vào xúc thực.
Thứ thứ bảy nương vào tư thực.
Cho nên thức thực nương vào ba loại ăn trước mà tồn tại”.
Y cứ kinh luận, lược nói về chỗ thoát ra của A lại da nơi cái thân sở y có thể tóm gọn trong bài tụng sau:
THIỆN NGHIỆP TÙNG HẠ LÃNH
ÁC NGHIỆP TÙNG THƯỢNG LÃNH
NHỊ GIAI CHÍ Ư TÂM
NHẤT XỨ ĐỒNG THỜI XẢ.
ÐẢNH THÁNH, NHÃN SANH THIÊN
NHÂN TÂM, NGẠ QỦY PHÚC
BÀNG SANH TẤT CÁI LY
ÐỊA NGỤC CƯỚC BẢN XUẤT.
(Nghiệp thiện thì thân thể dần dần phát lạnh từ dưới trở lên, nghiệp ác thì thân thể dần dần phát lạnh từ trên sắp xuống, nghiệp thiện ác đều không ngoài cái tâm khi sanh khi tử, đến một chỗ nào đó trên thân thể thì nghiệp thiện ác cùng tâm ấy rời bỏ thân thể. Nóng ở nơi đỉnh đầu là về cõi thánh, nơi mắt là sanh về cõi trời, nơi tim (ngực) là tái sanh làm người, nơi bụng thì làm ngạ qủy, từ đầu gối trở xuống là làm súc sanh, nơi hai bàn chân thì đọa địa ngục.)
B.S:Dương Văn Lộc