biệt danh của tâm có sáu thứ:
1- Tập khởi gọi là tâm, chỉ thuộc thức thứ tám, vì tập họp các chủng tử khởi hiện hành.
2- Tích tập gọi là tâm, thuộc bảy thức trước, vì hay huân tập chủng tử các pháp. Hoặc đầu tiên tập khởi thuộc bảy thức trước, vì hiện hành cùng huân tập khởi chủng tử; sau đó tích tập gọi là tâm thuộc thức thứ tám, vì hàm chứa tích tập chủng tử các pháp. Hai cách giải thích trên tuy đều có nghĩa năng tập, sở tập, nhưng nay chỉ lấy năng tập gọi là tâm, nên suy xét như lý.
3- Duyên lự gọi là tâm, vì hay duyên lự tự phần cảnh.
4- Hoặc gọi là thức, vì liễu biệt nghĩa.
5- Hoặc gọi là ý, vì luôn luôn không gián đoạn.
6- Hoặc gọi là tâm.
Giải thích rộng:
1- Tập khởi gọi là tâm, vì thức thứ tám tập họp các chủng tử khởi hiện hành. Tập họp các chủng tử là thức thứ tám hay tập họp chủng tử các pháp hữu lậu, vô lậu, sắc tâm trời người trong ba cõi, cũng như kho tàng nơi nhân gian. Khởi hiện hành là tất cả sắc tâm hữu lậu, vô lậu trong ba cõi năm loài hiện hành đều từ thức thứ tám sinh khởi, tức là thức thứ tám là năng tập khởi, chủng tử của tất cả sắc tâm là sở tập khởi. Nay chỉ cho năng tập khởi gọi là tâm. Lấy tự chứng phần của tâm vương thứ tám gọi là tập khởi tâm, tướng phần là sắc, kiến phần là dụng, vì chứng tự chứng phần rơi vào phía sau, vì tự chứng phần hay tập họp chủng tử các pháp không để tan mất, lại còn hay khởi công năng các thứ hiện hành từ vô thỉ đến nay không gián đoạn, nên riêng có nghĩa tập khởi, tức là biết tự chứng phần thức thứ tám và chủng tử trong thức làm hai nhân, chính là hai nghĩa tập khởi trong đây: một là y trì nhân, là nghĩa tập họp, hai là sinh khởi nhân, là nghĩa sinh khởi.
2- Tích tập gọi là tâm, vì thức thứ tám gìn giữ chủng tử ba cõi năm loài, nên thức thứ tám được gọi là hàm tàng, tích tập là tự chứng phần của thức thứ tám. Hay giữ gìn chủng tử cũ gọi là tích, hay tập họp những cái mới huân gọi là tập, tức biết tích tập, tập khởi để giải thích tâm. Thức thứ tám riêng gọi là tâm, vì là nghĩa chính. Luận Duy Thức nói: “Hay khắp giữ gìn chủng tử các pháp thế gian, xuất thế gian nên gọi là tàng thức, tức là tự chứng phần là năng nhậm trì, năng tích tập, tất cả chủng tử là sở nhậm trì, sở tích tập”.
Bảy thức trước gọi là chuyển thức, chuyển là chuyển đổi, là nghĩa bất định, tức ba tính, ba lượng, ba cảnh thay đổi bất định nên gọi là chuyển thức. Thức thứ tám chỉ là một loại vô ký và chỉ có tính cảnh, chỉ có hiện lượng nên không gọi là chuyển thức.
Lại nữa, tập khởi gọi là tâm cũng thuộc chuyển thức thứ bảy. Tập là tập họp hiện hành bảy thức trước. Khởi là hiện hành của bảy thức trước đều tự có năng lực huân tập sinh khởi chủng tử mới. Như lúc nhãn thức duyên sắc hẳn phải nhờ ý thức đồng thời cộng tập họp huân chủng tử, bốn thức còn lại cũng thế.
Hỏi: Nếu minh liễu ý thức đồng duyên với các thức kia gọi là cộng tập, như lúc độc đầu ý thức duyên mười tám giới, chẳng đồng duyên với thức khác cùng huân khởi chủng tử vì sao có nghĩa cộng tập ?
Đáp: Do thức thứ bảy là sở y, thức thứ sáu mới chuyển sang huân tập chủng tử nên cũng gọi là cộng tập.
3- Duyên lự gọi là tâm, vì hay duyên lự tự phần cảnh, tức là tám thức đều riêng hay duyên lự tự phần cảnh. Duyên là duyên trì, lự là tư lự. Đem duyên lự để giải thích tâm, là tên gọi chung.
Năm thức trước chỉ duyên căn trần là tự phần cảnh, ngoại trừ quả vị Phật các căn hỗ dụng.
Thức thứ sáu duyên mười tám giới, pháp ba đời và tất cả pháp hữu lậu, vô lậu, thế và xuất thế gian, làm tự phần cảnh.
Thức thứ bảy duyên kiến phần thức thứ tám làm tự phần cảnh.
Thức thứ tám duyên ba cảnh làm tự phần cảnh, là thường chợt duyên ba cảnh, vì thức thứ tám luôn biết cảnh thường có, không giống sáu thức trước có gián đoạn, cảnh sở duyên lại chẳng phải thường có, đây là nghĩa chính của thức thứ tám.
Nếu bị ràng buộc nơi cõi Dục, tức là duyên căn thân, khí thế gian nơi cõi Dục làm tự phần cảnh. Nếu chủng tử duyên cả ba cõi làm tự phần cảnh, hai cõi sắc vô sắc cũng như thế, chỉ trừ chủng tử vô lậu không thể duyên, vì chủng tử hữu lậu và vô lậu chẳng thuận nhau. Do đây chỉ hay trì mà chẳng hay duyên, vì nghĩa trì thì rộng, nghĩa duyên thì hẹp, dụ như người mắt đỏ cầm lửa, như đội vật trên đầu, chỉ giữ lấy mà không thể tựa, chỉ gìn giữ khiến chẳng mất vì chẳng lìa thức.
4- Hoặc gọi là liễu biệt thức, tức là kiến phần của tám thức đều hay liễu biệt cảnh sở duyên của chính nó, đó là nhãn thức hay liễu biệt sắc, cho đến thức thứ tám hay liễu biệt chủng tử căn thân, khí thế gian. Nếu đem liễu biệt để giải thích thức thì tám thức gọi chung là thức; nếu đem liễu biệt cảnh thô để giải thích thức thì sáu chuyển thức gọi là thức.
5- Hoặc gọi là ý, vì luôn không gián đoạn, tức là tám thức niệm trước cùng tám thức niệm sau nương tựa. Nay nắm lấy niệm trước tám thức gọi là ý. Nếu niệm trước chẳng diệt thì niệm sau không do đâu được sinh, bởi niệm trước diệt, niệm sau mới sinh được. Sinh diệt giống nhau tương tục như vậy, tự loại tâm chẳng gián cách gọi là đẳng vô gián.
Theo đại thừa, ý có hai thứ: một là tư lượng ý gồm bảy thức, hai là vô gián ý gồm cả tám thức.
Ý là nghĩa y chỉ, như thức thứ bảy nương tựa thức thứ sáu nên gọi là ý. Nếu đem đẳng vô gián để giải thích ý thì tám thức gọi chung là ý. Nếu lấy tư lương để giải thích ý thì thức thứ bảy riêng gọi là ý.
6- Hoặc gọi là tâm, thức thứ tám gọi là tâm, thức thứ bảy gọi là ý, thức thứ sáu gọi là thức. Nghĩa thứ sáu này là căn cứ vào tên gọi nổi bật, nghĩa là đem tích tập, tập khởi để giải thích tâm thì thức thứ tám riêng gọi là tâm. Nếu đem tư lương để giải thích ý thì thức thứ bảy riêng gọi là ý. Nếu đem liễu biệt cảnh thô để giải thích thức thì sáu thức trước riêng gọi là thức. Tức là nơi tám thức đều riêng có đủ hai tên chung và riêng, nghĩa là thức thứ tám gọi là tâm có đủ hai nghĩa: một là nghĩa tích tập tập khởi, hai là nghĩa duyên lự. Thức thứ bảy gọi là ý cũng có hai nghĩa: một là nghĩa tư lương, hai là nghĩa đẳng vô gián. Sáu thức trước gọi là thức cũng có hai nghĩa: một là nghĩa liễu biệt, hai là nghĩa liễu biệt cảnh thô. Cảnh thô có đầy đủ bốn nghĩa:
1- Dễ hiểu cho đến trẻ con cũng biết.
2- Cùng cho là có, tức ba thừa đều chấp nhận.
3- Hành tướng thô, vì liễu biệt hành tướng rõ ràng.
4- Sở duyên thô, tức năm trần là cảnh thô.
Lại trong chín thức chia tổng quát làm bốn đoạn, mỗi thức riêng lập mười tên:
I. Mười tên của thức thứ sáu:
1- Đối căn được tên gọi là lục thức.
2- Hay so lường thị phi gọi là ý thức.
3- Hay giao tiếp trần cảnh gọi là phan duyên thức.
4- Hay duyên khắp năm trần gọi là tuần cựu thức.
5- Niệm niệm lưu tán gọi là ba lãng thức.
6- Hay phân biệt tiền cảnh gọi là phân biệt sự thức.
7- Làm tổn hoại người gọi là nhân ngã thức.
8- Ái nghiệp đưa đẩy thụ sinh gọi là tứ trụ thức.
9- Chẳng sinh chính giải gọi là phiền não chướng thức.
10- Cảm báo đã hết, tâm cảnh sai biệt gọi là phần đoạn tử thức.
II. Mười tên của thức thứ bảy:
1- Sau sáu thức được tên gọi là thất thức.
2- Căn trần không gá họp gọi là chuyển thức.
3- Chẳng biết tập khí bỗng nhiên niệm khởi gọi là vọng tưởng thức.
4- Sinh diệt không ngừng gọi là tương tục thức.
5- Chướng lý không biết gọi là vô minh thức.
6- Trái mê theo chính, hay đoạn tứ trụ phiền não gọi là giải thức.
7- Cùng vào lối huyền, thuận lý sinh thiện gọi là hành thức.
8- Hiểu ba cõi sinh tử đều là tâm ta, không còn pháp bên ngoài gọi là vô úy thức.
9- Chiếu liễu rõ ràng như gương hiện bóng gọi là hiện thức.
10- Pháp đã vọng khởi, nương trí làm chỗ quay về khiến chân tính chẳng hiển gọi là trí chướng thức.
III. Mười tên của thức thứ tám:
1- Sau bảy thức được tên gọi là bát thức.
2- Chân ngụy lẫn lộn gọi là hòa hợp thức.
3- Chứa nhóm các pháp gọi là tàng thức.
4- Trụ trì khởi phát gọi là huân biến thức.
5- Phàm trở thành Thánh gọi là xuất sinh thức.
6- Tạng thể không gián đoạn gọi là kim cang trí thức.
7- Thể chẳng phải tĩnh, loạn gọi là tịch diệt thức.
8- Trung thật không giả gọi là thể thức.
9- Tạng thể chẳng mê gọi là bản giác thức.
10- Công đức viên mãn gọi là nhất thiết chủng trí thức.
IV. Mười tên của thức thứ chín:
1- Tự thể chẳng ngụy gọi là chân thức.
2- Thể chẳng hữu vô gọi là vô tướng thức.
3- Phạm vi tác dụng chẳng đổi gọi là pháp tính thức.
4- Chân giác thường còn, thể chẳng ẩn hiển gọi là Phật tính chân thức.
5- Tính bặt hư giả gọi là thực tế thức.
6- Đại dụng vô biên gọi là pháp thân thức.
7- Theo dòng chẳng nhiễm gọi là tự tính thanh tịnh thức.
8- A-ma-la thức, Trung Hoa dịch là vô cấu thức.
9- Thể chẳng một chẳng khác gọi là chân như thức.
10- Thù thắng vi diệu bặt đối đãi gọi là bất khả danh mục thức.
Kinh Giải Tiết ghi: “Phật bảo Bồ-tát Quảng Huệ: Vì sao có người gọi thức này là a-đà-na ? Vì bản thức này hay gìn giữ thân. Vì sao có người gọi nó là a-lại-da ? Vì bản thức này nơi thân đều ẩn chứa thành hoại. Vì sao có người gọi nó là chất-đa ? Vì thức này sinh trưởng các pháp sắc, thinh, hương, vị, xúc. Này Quảng Huệ, bản thức này là thức tụ được sinh, nghĩa là nhãn thức cho đến ý thức, nương nơi thức này nhãn căn duyên sắc trần sinh ra nhãn thức. Cùng một lúc chung cảnh với nhãn thức có phân biệt ý thức khởi. Nếu một nhãn thức sinh, khi ấy một phân biệt ý thức cùng nhãn thức đồng duyên cảnh sinh. Nhãn thức này hoặc cùng hai thức, hoặc ba, bốn, năm thức cùng khởi, khi ấy một phân biệt ý thức cùng năm thức đồng duyên cảnh sinh. Như dòng nước lớn nếu có một nguyên do làm khởi sóng thì một làn sóng nổi lên; nếu có nhiều nguyên do làm khởi sóng thì nhiều đợt sóng khởi, nước luôn trôi chảy không ngừng. Lại như trong mặt gương tròn sáng nếu có một nguyên do làm hiện ảnh đến thì một ảnh tượng hiện ra; nếu có nhiều nguyên do làm hiện ảnh đến thì nhiều ảnh tượng hiện ra, mặt gương tròn chẳng chuyển đổi thành ảnh tượng, cũng không tổn hoại. Bản thức cũng như dòng nước và mặt gương.
Luận Thành Nghiệp nói: “Tâm có hai thứ:
1- Tập khởi tâm, vì là nơi tập khởi vô lượng chủng tử.
2- Chủng chủng tâm, vì hành tướng sở duyên sai biệt chuyển”.
Thiên Thai Tịnh Danh Sớ ghi: “Một pháp khác tên, các kinh nói tên khác nhau; hoặc nói chân tính, hoặc nói thật tướng, hoặc nói nhất thật đế, hoặc nói tự tính thanh tịnh tâm, hoặc nói Như Lai tạng, hoặc nói như như, hoặc nói thật tế, hoặc nói thật tướng bát-nhã, hoặc nói nhất thừa, hoặc nói tức thị Thủ lăng nghiêm, hoặc nói pháp tính, hoặc nói pháp thân, hoặc nói trung đạo, hoặc nói tất cánh không, hoặc nói chính nhân Phật tính tính tịnh niết-bàn. T-C-L,Tập 3,Q50,docx trg 15>21,sách trg 324>333