Trong bài Niệm Phật luận, Trần Thái Tông viết “Ư niệm Phật thì chánh thân đoan toạ, bất hành tà hạnh, thị tức thân nghiệp dã. Khẩu tụng chân ngôn, bất đạo tà ngữ, thị tức khẩu nghiệp dã. Ý tồn tinh tiến, bất khởi tà niệm, thị tức ý nghiệp dã.” (Trong lúc niệm Phật thân thẳng ngồi ngay, không làm việc tà, như vậy là tắt được nghiệp thân. Miệng tụng lời chân chính, không nói điều xằng bậy, thế là tắt được nghiệp miệng. Ý chăm chú ở sự tinh tiến, không nảy sinh ý nghĩ tà, thế là tắt được nghiệp ý.).
Cách thứ nhất dành cho bậc thượng trí là những người tự thân biết tâm mình chính là tâm Phật, sống trong bụi trần mà không nhiễm trần, không cần tu niệm thêm gì cả. Chính họ là những người đã được giác ngộ, tâm không còn sự nhiễm ô, sống trong đời mà không nhiễm bụi đời, an nhiên tự tại, mà đóng góp cho đời, đúng như bài Niệm Phật luận ghi“Thượng trí giả, tâm tức thị Phật, bất giả tu thêm. Niệm tức thị trần, bất dung nhất điểm. Trần niệm bản tịnh, cố viết như như bất động, tức thị Phật thân. Phật thân tức ngã thân thị, vô hữu nhị tướng; tướng tướng vô nhị, tịch nhiên thường tồn, tồn nhi bất tri, thị vi hoạt Phật.” (Bậc thượng trí thì tâm tức Phật, không phải nhờ thêm sự tu hành. Ý nghĩ là bụi trần không vướng một mảy. Ý nghĩ bụi trần vốn tịnh, cho nên nói “như như không động là thân Phật”. Thân Phật tức là thân ta, không có hai tướng. Tướng và tướng không phải là hai, lặng lẽ tồn tại hằng thường. Tồn tại mà không biết, đó là Phật sống.).
Cách thức thứ hai dành cho đối tượng có căn trí bậc trung. Đây là thành phần thứ hai trong xã hội. Người có căn trí bậc này thì phải huy động ý chí, dùng niệm thiện để đẩy lùi các niệm ác, không cho chúng có cơ hội xuất hiện. Cuối cùng, họ cũng đạt được trình độ như người có trí tuệ cao hơn “Trung trí giả, tất tạ niệm Phật, chú ý tinh cần, niệm niệm bất vong, tự tâm thuần thiện. Thiện niệm ký hiện, ác niệm tiện tiêu. Ác niệm ký tiêu, duy tồn thiện niệm. Dĩ niệm ý niệm, niệm niệm diệt chi. Niệm diệt chi thì, tất quy chính đạo. Mệnh chung chi thì, đắc Niết bàn lạc.” (Bậc trung trí ắt nhờ niệm Phật. Chú ý tinh cần, luôn luôn niệm mà không quên thì tâm mình ắt tự thuần thiện. Ý nghĩ thiện đã hiện ra thì ý nghĩ ác sẽ bị tiêu tan. Ý nghĩ ác đã bị tiêu tan thì chỉ còn ý nghĩ thiện. Dùng ý nghĩ mà ý thức về nghĩ thì mọi ý nghĩ đều bị diệt hết. Khi ý nghĩ đã bị tiêu diệt ắt trở về chính đạo; lúc mệnh hết qua đời sẽ được niềm vui cõi Niết bàn.).
Cách thức thứ ba dành cho người có căn cơ hạ trí, đông nhất trong xã hội. Đối với những người này, tâm họ chỉ hướng về nước Phật, mong sao thoát khỏi những bụi bặm ở đời này. Khi lâm chung lòng thanh tịnh, thác sinh về Phật quốc “Hạ trí giả, khẩu cần niệm Phật ngữ, tâm dục kiến Phật tướng, thân nguyện sinh Phật quốc; trú dạ cần tu, vô hữu thoái chuyển. Mệnh chung chi hậu, tuỳ kỳ thiện niệm đắc sinh Phật quốc; hậu đắc chư Phật sở tuyên chính Pháp, chứng đắc bồ đề, diệc nhập Phật quả” (Kẻ hạ trí miệng chuyên cần niệm lời Phật, lòng mong thấy hình tướng Phật, thân nguyện sinh ở nước Phật, ngày đêm tu hành chăm chỉ, không thối chí thay đổi, như vậy đến khi mệnh hết qua đời sẽ theo ý nghĩ thiện mà được sinh ở nước Phật; sau đó lĩnh hội chính pháp mà chư Phật nêu ra và chứng được Bồ đề cũng được Phật quả).
Tuy căn trí mỗi hạng người khác nhau nhưng sở đắc giải thoát phải là một. Trong ba cách thức niệm Phật, Trần Thái Tông đánh giá cao phương thức hành trì niệm Phật sau cùng vì nó được xây dựng trên một nền tảng vững chắc, thích hợp với quần chúng số đông. Ông khuyến cáo mọi người hãy bắt đầu tẩy rửa thân tâm từ cách thức này, hai cách kia nói thì dễ nhưng thực sự đòi hỏi căn duyên cao, không phải ai cũng thực hiện được: “Ba hạng trí ấy nông sâu khác nhau, nhưng cái nhận được là một…Kẻ hạ trí lấy niệm làm bậc, lấy sự tinh tiến làm thang, chú ý đến thiện duyên, nguyện sinh vào nước Phật. Nếu chuyên cần không nhác, tâm tính thuần thục thì sau khi chết sinh vào nước Phật. Kẻ học ngày nay đã nhận thân người, ắt ba nghiệp đều có. Thế không dùng niệm Phật để cầu sinh vào nước Phật, chẳng cũng khó sao! Như muốn niệm Phật hãy lấy cách của hạ trí làm đầu”, đúng như tinh thần mà Trần Thái Tông viết trong Khóa hư lục.(1)
“Tâm nội Di Đà tử má khu,
Đông tây nam bắc pháp thân chu.
Trường không chỉ kiến cô luân nguyệt
Sát hải trừng trừng dạ man thu”
(Thân báu Di Đà tại đáy lòng,
Bốn phương thân pháp tỏa mênh mông
Cả trời chỉ thấy vừng trăng quạnh .
Đêm lắng vào thu vũ trụ trong)
Trong bài phú Cư Trần Lạc Đạo bằng chữ Nôm, ngài đã nói rằng:
Tịnh độ là lòng trong sạch,
Chớ còn ngờ hỏi đến Tây Phương,
Di Đà là tính sáng soi,
Mựa phải nhọc tìm về Cực lạc.
Trong bài phú trên đây, Trúc Lâm Thượng Sĩ đã định nghĩa:
Trong một bài kệ khác, Tuệ Trung Thượng sĩ còn nói:
Tâm nội Di Đà tử mã khô,
Đông, Tây, Nam, Bắc Pháp thân chu,
Trường không chỉ kiến cô luân nguyệt,
Sát hải trừng trừng dạ mạn thu
(Di Đà vốn thực pháp thân ta,
Nam Bắc Đông Tây khắp chói lòa.
Trăng thu ngự giữa trời cao rộng,
Đêm lặng trùng dương rạng chiếu xa).
Dù cách thức là vậy nhưng căn cơ mỗi người mỗi khác tùy theo sức của mình :
Dù ai nói ngã nói nghiêng,
Thì ta cũng vững như kiềng ba chân.
Trong bài Phú Cư Trần Lạc Đạo, Ngài có biểu lộ:
"Chơi nước biếc, ẩn non xanh,
nhân gian có nhiều người thích ý.
Biết đào hồng, hay liễu lục,
thiên hạ năng mấy chủ tri âm."
Ghi chú:
(1) đoạn văn trên của TT Thích Phước Đạt giảng tại học viện khóa 3.
( xem khóa hư lục )