Thật ra hạnh nguyện Ba-la-mật của Bồ-tát là đúng, là chơn chánh, là cần thiết. Trước khi thành Phật, vị Bồ-tát nào cũng cần phải trải qua giai đoạn tu tập công hạnh pāramī. Như đức Phật Thích Ca, ngài phải tạo trữ pāramī trải qua 24 vị Phật tổ – từ Phật Nhiên Đăng đến Phật Ca Diếp – cả bậc hạ, bậc trung và bậc thượng, gồm 10 pháp: Bố thí, trì giới, xuất gia, trí tuệ, tinh tấn, nhẫn nại, chân thật, quyết định, tâm từ, tâm xả. Trọn vẹn và toàn mãn 10 pāramī ấy mới đủ khả năng, trình độ tâm, trình độ trí để chứng đắc Phật quả. Như cái cây muốn ra hoa, kết trái sum sê, thịnh mãn phải đầy đủ 10 yếu tố: Hạt giống tốt, đất màu mỡ, cách gieo ươm, nước tưới tiêu, phân bón, ánh sáng, thời tiết, khí hậu, công chăm sóc và thời gian. Khâu nào cũng quan trọng, cần hiệu quả và tốt tối đa. Cũng vậy, toàn mãn Ba-la-mật thì sẽ thành Phật Toàn Giác. Ba-la-mật yếu hơn thì thành Phật Độc Giác. Khiếm khuyết hơn nữa – ví dụ như chỉ toàn vẹn bậc hạ, thì thành Phật Thanh Văn. Cấp độ nào cũng Phật, cũng A-la-hán cả. Theo nghĩa ấy thì Phật, Độc Giác hay Thinh Văn… trên con đường tích lũy Ba-la-mật, quý ngài đều là Bồ-tát cả, chỉ khác rộng hẹp, sâu cạn mà thôi. Pāramī rõ ràng là cần thiết và tất yếu. Họ âm thầm và lặng lẽ tạo trữ, tích lũy, bổ sung 10 năng lực ấy từ đời này sang kiếp kia, tự mình mình biết, tự mình mình hay. Cũng có thể họ không tự biết do nghiệp lực ngăn che, nhưng sức mạnh Ba-la-mật vẫn đẩy họ vào dòng chảy theo ước nguyện cũ. Bồ-tát theo nghĩa ấy, vị nào cũng còn phiền não nhiều hoặc ít. Họ không cần ai đeo lon, gắn nhãn hiệu, không cần ở trong bất cứ hội đoàn, tập thể nào. Họ cô đơn trên lộ trình của chính mình. Chỉ mỗi người mới biết mình thiếu từ, thiếu xả, hay thiếu nhẫn… để bổ sung thêm… Từ ý nghĩa nguyên thủy của Bồ-tát là vậy, nhưng Mahāyāna đã canh cải “lý tưởng Bồ-tát” có khác đi. - Chỉ có 6 ba-la-mật là bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nại, thiền định, trí tuệ. Họ thiếu xuất gia, chân thật, quyết định, tâm từ, tâm xả – nhưng lại có thêm thiền định. Để bổ túc cho mấy ba-la-mật thiếu sót, họ lý luận cũng rất tốt. “Xuất gia” không cần thiết, vì sống với những công hạnh như vậy, họ “thường trực xuất gia” rồi. “Quyết định” không cần thiết, vì họ có thêm cả bốn đại nguyện “Tâm từ, tâm xả” không cần thiết vì họ đã có ba bổn hạnh có thiền 123 định và cả tứ vô lượng tâm trg 122 LỊCH SỬ PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ Tác giả: MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNH https://docs.google.com/viewera=v&pid=sites&srcid=ZGVmYXVsdGRvbWFpbnxwaGF0Z2lhb3RoZXJhdmFkYW5ld3xneDoyMmNlZTZhZTdlODc3NWMx
TÓM LƯỢC THẬP BA LA MẬT :
Thập Ba la mật là mười điều đại hạnh của Bồ Tát là mười pháp tu rốt ráo để đạt đến quả Phật.
1. Bố thí ba la mật: cho của cải, thân mạng và thí pháp xuất thế cho chúng sanh
2. Trì giới ba la mật: giữ giới tinh nghiêm, không tiếc mình vì giữ giới, khuyên người giữ giới và phát tâm Bồ Đề
3. Nhẫn nhục ba la mật: nhẫn nhục tất cả mọi chướng nghiệp, mọi nghịch cảnh lòng không giận hờn được từ tâm tam muội không hủy nhục chúng sanh mà khuyên người phát tâm Bồ Đề
4. Tinh tấn ba la mật: luôn tiến bước chẳng ngừng trên đường tu đạo, liều bỏ thân mạng vì đạo, nói pháp tối thắng khiến người nghe được tới cõi chánh giác giải thoát
5. Thiền định ba la mật: hằng giữ chánh định nhập chơn pháp giới, chẳng tiếc thân mạng giáo hóa chúng sanh thuyết pháp vi diệu khiến đắc vô lượng Bồ Đề
6. Bát nhã ba la mật: hiểu rõ chân lý không tiếc thân mạng để cầu pháp, quán thấu diệu lý bình đẳng, đây là huệ tư tánh
7. Phương tiện thiện xảo ba la mật: hiểu rõ cách giúp đỡ lợi ích cho chúng sanh không tiếc thân mạng, coi chúng sanh bình đẳng, nói pháp vi diệu độ chúng sanh.
8. Nguyện ba la mật: Quán Trung đạo tu từ bi để hóa độ chúng sanh không thối chuyển nơi quả Phật.
9. Lực ba la mật: dùng sức trí tuệ làm cho chúng sanh đắc nhập pháp Đại thừa, bỏ thân mạng để làm lợi ích cho chúng sanh khiến bỏ tà kiến hồi tâm quay về theo Niết Bàn.
10. Trí huệ ba la mật: thấu triệt các pháp giữ vững tâm trung đạo, không chán sanh tử không ham cầu Niết Bàn có đại xả tâm thương xót chúng sanh, nói pháp Nhất thừa khiến chúng sanh đắc Phật đạo.
«
Mười Ba-la-mật-đa, Là thí, giới, nhẫn, Tinh tiến, định, Bát-nhã, Phương tiện, nguyện, lực, trí.
Luận nói : Đây là hiển thị thí v.v… biệt danh của 10 độ. Thí v.v… tác nghiệp riêng rẽ như thế nào ?LUẬN BIỆN TRUNG BIÊN quyển hạ Pdf trg 31
«
TÓM LƯỢC CÒN SÁU ĐỘ
Liên hệ giữa sáu Ba La Mật Đa (lục độ),và của 4 độ hỗ trợ, thành cái gọi là 10 độ.
Đại bồ tát Quan tự tại lại thưa Phật: Bạch đức Thế tôn, vì lý do nào mà qui định các độ khác chỉ có bốn số? Đức Thế tôn dạy đại bồ tát Quan tự tại : Thiện nam tử, vì lý do làm sự hỗ trợ cho sáu độ.
(Một), Bồ tát lợi ích chúng sinh bằng ba độ trước là dùng các nhiếp pháp làm phương tiện mà thu nhận họ, đặt họ vào thiện pháp, nên Như lai nói phương tiện độ làm sự hỗ trợ của ba độ trước.
(Hai), Bồ tát nếu vì hiện tại nhiều phiền não nên không thể tu hành một cách liên tục; vì ý lạc hèn kém và vì thắng giải (xao động) của cõi Dục nên không thể nội tâm an trú; vì không thể lắng nghe, vin theo và khéo tu giáo pháp Bồ tát tạng nên sự tịnh lự không thể dẫn ra cái tuệ xuất thế; (vì ba lý do như vậy), vị Bồ tát ấy thu thập phước đức tư lương đang ít và kém mà phát thệ nguyện chính yếu, để đời sau phiền não được nhẹ và nhỏ đi, như thế đó là nguyện độ; do nguyện này mà phiền não nhỏ và mỏng, có thể thực hành tinh tiến, nên Như lai nói nguyện độ làm sự hỗ trợ của tiến độ.
(Ba), Bồ tát nếu thân gần các bậc thiện sĩ để lắng nghe chánh pháp và tác ý đúng lý, do nhân tố này mà xoay ý lạc hèn kém thành ý lạc siêu việt, lại được thắng giải (bình lặng) của cõi trên, như thế đó là lực độ; do lực này mà có thể nội tâm an trú, nên Như lai nói lực độ làm sự hỗ trợ của định độ.
(Bốn), Bồ tát nếu đã lắng nghe, vin theo và khéo tu giáo pháp Bồ tát tạng thì có thể phát ra tịnh lự, như thế đó là trí độ;do trí này mà có thể dẫn ra cái tuệ xuất thế, nên Như lai nói trí độ làm sự hỗ trợ của tuệ độ. pdf trg 66 >67 KINH GIẢI THÂM MẬTHT. Thích Trí Quang dịch giải
Liên hệ giữa sáu Ba La Mật Đa (lục độ),và Giới, Ðịnh, Tuệ:
Đại bồ tát Quan tự tại tại thưa Phật: Bạch đức Thế tôn, sáu sự phải tu học như vậy, mấy sự thuộc về giới học tăng thượng? mấy sự thuộc về tâm học tăng thượng? mấy sự thuộc về tuệ học tăng thượng?
Đức Thế tôn dạy đại bồ tát Quan tự tại: Thiện nam tử, nên biết (thí độ giới độ nhẫn độ) ba sự đầu ấy chỉ thuộc về giới học tăng thượng, định độ một sự chỉ thuộc về tâm học tăng thượng, tuệ độ một sự chỉ thuộc về tuệ học tăng thượng, và Như lai nói rằng tiến độ thì khắp trong tất cả.( Đây là nói 6 độ thuộc 3 học. pdf trg 65 https://www.niemphat.vn/downloads/dai-tang-kinh/kinh-bac-tong/kinh-giai-tham-mat-ht-tri-quangdich.pdf )
«
Mười ba la mật phật giáo nam truyền:
1 bố thí
2 trì giới
3 xuất ly (xuất gia)
4 trí tuệ
5 tinh tấn
6 nhẫn nhục
7 chân thật
8 quyết định
9 tâm từ
10 tâm xã.
( do đại đức giác hoàng giảng tại học viện khóa 5)