Thích Kế Châu Dịch
1 TẦM NGƯU
Mang mang bát thảo khứ truy tầm,
Thủy khoátt sơn diêu lộ cánh thâm.
Lực tận thần bì vô mích xứ,
Đãn văn phong thọ vãn thiền ngâm.
2 KIẾN TÍCH
Thủy biên lâm hạ tích thiên đa,
Phương thảo li phi kiến dã ma.
Túng thị sơn thâm cánh thâm xứ,
Liêu thiên tỷ khổng tạc tàng tha.
3 KIẾN NGƯU
Hoàng oanh chi thượng nhất thanh thanh,
Nhật noãn phong hòa ngạn liểu thanh.
Chỉ thử cánh vô hồi tị xứ,
Sâm sâm đầu giác họa nan thành.
4 - ĐẮC NGƯU
Kiệt tận thần thông họach đắc cừ ,
Tâm cường lực tráng tốt nan trừ.
Hữu thời tài đáo cao nguyên thượng,
Hựu nhập vân yên thâm xứ cư.
5 - MỤC NGƯU
Tiên sách thời thời bất lị thân,
Khủng y túng bộ nhập ai trần.
Tương tương mục đắc thuần hòa dã,
Cơ tỏa vô ức tự trục nhân
6 - KỴ NGƯU QUY GIA
Kỵ ngưu dĩ lý dục hoàn gia,
Khương địch thanh thanh tống vãng hà.
Nhất phách nhất ca vô hạn ý,
Tri âm hà tất cổ thần nha.
7 - VONG NGƯU TỒN NHƠN
Kỵ ngưu dĩ đắc đáo gia san,
Ngưu dã khổng hề nhân dã nhàn.
Hồng nhật tam can do tác mộng,
Tiên thằng không đốn thảo đường gian.
8 - NHƠN NGƯU CÂU VONG
Tiên sách nhân ngưu tận thuộc không,
Bích thiên liêu quách tín nan thông.
Hồng lô diệm thượng tranh dung tuyết,
Đáo thử phương năng hợp tổ tông.
9 - PHẢN BẢN HOÀN NGUYÊN
Phản bản hoàn nguyên dĩ phí công,
Tịnh như trực hạ nhược manh lung.
Am trung bất kiến am tiền vật,
Thủy tự mang mang hoa tự hồng.
10 - NHẬP TRIỀN THÙY THỦ
Lộ hung tiễn túc nhập triền lai,
Phò thổ đồ khôi tiếu mãng tai.
Bất dụng thần tiên chân bí quyết,
Trực giao khô mộc phóng hoa khai
TÌM TRÂU:
Bôn chôn vạch lá dõi tìm trâu,
Nước rộng non xa nẻo mịt mù.
Dạ mỏi sức mòn không thấy dấu,
Rừng bàng ve réo bóng chiều sâu.
THẤY DẤU:
Mé nước ven rừng thấy dấu chân,
Cỏ non rài rạt rõ mười phân.
Non sâu dẫu cứ sâu sâu thẳm,
Mũi đụng trời sâu trốn được chăng?
THẤY TRÂU:
Trên cành nghe tiếng, tiếng vàng anh,
Nắng ấm gió vèo rặng liểu xanh.
Chổ ấy trâu ơi! không trốn tránh,
Đầu sừng rậm rịt vẽ sao thành.
BẮT TRÂU:
Được trâu chừng muốn cạn thần thông,
Trừ nết ngoan cuồng thật khó mong.
Thỉnh thoảng dắt lên gò nổng rộng,
Khói mây vời vợi lại buông lung
CHĂN TRÂU
Roi dây mỗi lúc chẳng xa rời,
Cát bụi còn e chạy dập vùi.
Muốn được cho trâu thuần tánh xấu,
Khóa xiềng không ép cũng theo người.
CỞI TRÂU VỀ NHÀ:
Cưỡi trâu về lại nẻo đường quen,
Tiếng sáo đưa chiều ráng nhá nhem.
Mỗi phách mỗi ca vô hạn ý,
Tri âm hà tất nức lời khen.
QUYÊN TRÂU CÒN NGƯỜI:
Chân núi lưng trâu thoắt đến nhà,
Buôn trâu mất hút, chỉ còn ta.
Ba sào nắng chói còn ươm giấc,
Ném phứt roi thừng túp cổ xa.
NGƯỜI TRÂU ĐỀU QUÊN:
Người, trâu, roi vọt thuộc không không,
Lặng lẽ trời xanh, tin khó thông.
Tuyết trắng đâu dung qua lửa đỏ,
Đến đây mới hợp cội nguồn chung.
TRỞ VỀ NGUỒN CỘI:
Về nguồn lại cội uổng công thôi,
Nguồn cội trong ngần tựa điếc đui.
Trong viện ngoài am gì thấy nữa,
Hoa cười tươi thắm nước chơi vơi.
THỎNG TAY VÀO CHỢ;
Ngực trống chân truồng dạo chợ đời,
Bùn nhơ tro nhớp vẫn cười vui.
Thần tiên bí quyết ai cần hỏi,
Hoa nở chồi khô hỏi thử chơi.
Lúc còn trụ tại quy sơn, thiền sư trường khánh đại an dạy chúng: "... Sở dĩ, đại an này ở tại quy sơn ba mươi năm, ăn cơm quy sơn, đại tiện quy sơn mà không học thiền quy sơn, chỉ coi chừng con trâu. Nếu nó lạc đường hay vào trong cỏ liền lôi nó lại. Nếu nó ăn lúa mạ của người liền đánh đập điều phục nó… bây giờ nó đã trở thành con trâu trắng đứng trước mặt, trọn ngày hiện sờ sờ đuổi cũng chẳng đi...".
Mã tổ hỏi đệ tử mình là thạch củng huệ tạng: "làm việc gì?" thạch củng thưa: "chăn trâu." tổ hỏi: "làm sao chăn?" thạch củng đáp: "một khi vào cỏ thì nắm mũi kéo lại." tổ nghe bảo: "con thật là khéo chăn trâu."