"Chơn vọng giao triệt, tức phàm tâm nhi kiến Phật tâm; sự lý song tu, y bổn trí nhi cầu Phật trí" (Chơn vọng giao xen lẫn nhau, nên ngay tâm phàm mà thấy được tâm Phật. Sự lý song tu nương bổn trí để cầu Phật trí ).
1. Tâm không chấp trước : Tức là không chấp trước vào nơi tâm, xem tất cả đều không, nhìn xuyên thủng, mà
chẳng chấp trước. Do đó:
"Như điểu hành không không vô tích
Như đao trảm thuỷ thuỷ vô thương".
Trong không chẳng có dấu chim bay, cho nên chim bay trong không, chẳng lưu lại dấu vết. Lại giống như dùng
đao chém nước, nhưng nước không bị thương. Đó là hiện tượng tự nhiên, không thể chấp trước.
2. Tâm không ràng buộc : Tức là không có sự trói buộc tâm. Ràng buộc tức là tự mình ràng buộc mình. Như
vậy thì không thể không, mà có chỗ nương. Tứ Tổ Đạo Tín đến bái kiến Tam Tổ Tăng Xán thiền sư, mở miệng liền cầu giải thoát.
- Tam Tổ hỏi : "Ai trói buộc ngươi ?"
- Tứ Tổ nghe xong khoát nhiên đại ngộ, liền được giải thoát, tức cũng là minh tâm kiến tánh.
3. Tâm giải thoát : Tức là tâm tự tại, tức cũng là tâm không ràng buộc. Giải thoát tức là vốn chẳng trụ vào đâu,
do đó: "Ưng vô sở trụ, nhi sinh kỷ tâm".
Luật Hiển dương Chánh giác nói:
Phật tánh tại hữu tình
Pháp tánh tại vô tri
Phật pháp bản lai vô nhị tánh
Nhất hỏa năng siêu bách vạn sài".
Luận Hiển Dương Chánh Giáo ghi :
Tâm sinh chủng chủng pháp,
Tùy duyên thủy thượng âu,
Tánh chân như bất biến,
Như thủy bổn thanh trừng,
Bất biến tùy duyên chân thử tánh,
Tùy duyên bất biến thị tha tâm,
Minh tâm, minh liễu âu bào thượng,
Kiến tánh thâm tri thúy diện trừng.
Âm:
Hành tàng hư thiệt tự gia tri,
Họa phước nhân do cánh vấn thùy?
Thiện ác đáo đầu chung hữu báo
Chỉ tranh lai tảo dữ lai trì.
Âm:
Tu tri hữu nhứt nhân,
Bất tùng nhân đắc,
Bất thụ giáo chiếu,
Bất lạc giai cấp,
Nhược thức thử nhân,
Nhất sanh tham học sự tất
Trong kinh nói :
Hoa tạng thế giới sở hữu trần,
Nhất nhất trần trung kiến pháp giới".
Kinh Hoa Nghiêm có bài kệ rằng :
Phật thân sung mãn ư pháp giới,
Phổ hiện nhất thiết quần sanh tiền,
Tùy duyên phó cảm mị bất chu,
Nhi thường xử thử Bồ Đề tòa.
Trong Kinh Hoa Nghiêm nói :
Tự tánh như hư không,
Chân vọng tại kỳ trung,
Ngộ triệt bổn lai thể,
Nhất thông nhất thiết thông".
Âm:
Pháp tánh như hư không,
Vô thủ diệc vô kiến;
Tánh không tức thị Phật,
Bất khả đắc tư lượng.
Âm:
Sát trần tâm niện khả sổ tri,
Đại hải trung thủy khả tận ẩm;
Hư không khả lượng phong khả trắc,
Vô năng tận thuyết Phật công đức.
Dịch :
Tâm sinh ra muôn pháp,
Tùy duyên sóng nước xao,
Tánh chân như bất biến,
Như nước vốn lặng trong,
Bất biến tùy duyên là tánh ấy,
Tùy duyên bất biến chính tâm này,
Minh tâm nhận rõ lao xao sóng,
Kiến tánh nhìn sâu mặt nước bằng.
Nghĩa là:
Việc làm dối thiệt tự mình hay
Họa phước do ta lại hỏi ai?
Lành dữ rốt rồi, có báo ứng,
Khác nhau là tại sớm hay chầy.
Nghĩa:
Nên biết có một người,
Không A tùng theo người khác
Không nhận lời dạy của minh sư,
Không bị ràng buộc phân biệt đẳng cấp,
Nếu biết được người đó một đời,
Thì chuyện tham thiền học đạo một đời kể như hoàn tất ) (681)
Dịch nghĩa :
Bụi trần đầy thế giới hoa tạng,
Trong mỗi hạt bụi hiện pháp giới".
Dịch nghĩa :
Thân Phật đầy khắp nơi pháp giới,
Phổ biến hiện trước mắt chúng sanh,
Tùy duyên cảm ứng chẳng thiếu sót,
Mà thường ngồi tại tòa Bồ Đề.
Nghĩa là :
Tánh mình như hư không
Chân vọng đều có hết
Thấu triệt thể vốn có,
Một thông vạn sự đều thông.
Nghĩa:
Pháp tánh như hư không
Chẳng nắm cũng chẳng thấy
Tánh không tức là Phật
Chẳng thể suy lường được.
Nghĩa:
Tâm niệm hằng sa vẫn đếm biết
Nước trong biển cả cũng uống sạch
Hư không đếm được gió buộc được
Nhưng không nói hết công đức Phật .
kinh Tư Ích dạy: “ĐẮC THUYẾT PHÁP CHÁNH TÁNH GIẢ, BẤT TÙNG NHẤT ĐỊA SANH Ư NHẤT ĐỊA” (Ðắc thuyết pháp chánh tánh là chẳng từ một địa vị này sanh lên một địa vị khác). Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Sơ Địa tức Bát Địa, nãi chí vô sở hữu hà thứ đệ” (Sơ Ðịa chính là Bát Ðịa, cho đến không có gì là thứ lớp cả).
Phẩm Diệu Nghiêm của kinh Hoa Nghiêm chép: “NHẤT THIẾT PHÁP MÔN VÔ TẬN HẢI, ĐỒNG HỘI NHẤT PHÁP ĐẠO TRÀNG TRUNG” (Biển hết thảy pháp môn vô tận cùng tụ hội trong đạo tràng của một pháp). Ðại Sớ giảng: “Như một giọt nước biển có đủ vị của cả trăm sông”. Ðó là huyền nghĩa của môn này.