DAO TẦN TAM TẠNG PHÁP SƯ CƯU-MA-LA-THẬP DỊCH
ĐOÀN TRUNG CÒN - NGUYỄN MINH TIẾN Việt dịch và chú giải
NGUYỄN MINH HIỂN hiệu đính
Một niệm ngu tức bát nhã bặt ,một niệm trí tức bát nhã sanh”./vọng theo cảnh trần thì bát nhã bặt, không theo vọng trần thì bát nhã sanh.
Chư pháp như nghĩa ,vô thực vô hư nhất thiết pháp dai thị phật pháp, thị pháp bình đẳng. “ đều là nghĩa như như .”
Phật cáo tu-bồ-đề: nhĩ sở quốc độ trung, sở hữu chúng sanh, nhược can chủng tâm, như lai tất tri. Hà dĩ cố? Như lai thuyết chư tâm giai vi phi tâm, thị danh vi tâm. Sở dĩ giả hà? Tu-bồ-đề! Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc./nghĩa: phật bảo tu-bồ-đề: trong các cõi nước đầy dẫy như thế, có tất cả chúng sanh có bao nhiêu thứ tâm, như lai thảy đều biết. Vì cớ sao? Như lai nói các tâm đều không phảitâm, ấy gọi là tâm. Vì cớ sao? Này tu-bồ-đề, tâm quá khứ không thể được, tâm hiện tại không thể được, tâm vị lai không thể được.
“như lai giả, chư pháp như nghĩa.” Nghĩa như của các pháp, đó là như lai.“ai thấy duyên khởi là thấy pháp, thấy pháp là thấy ta ”!
Tu-bồ-đề! Nhược hữu nhân ngôn: như lai nhược lai, nhược khứ, nhược tọa, nhược ngọa, thị nhân bất giải ngã sở thuyết nghĩa. Hà dĩ cố? Như lai giả, vô sở tùng lai diệc vô sở khứ, cố danh như lai.dịch này tu-bồ-đề, nếu có người nói như lai hoặc đến, hoặc đi, hoặc ngồi, hoặc nằm, người ấy không hiểu nghĩa của ta nói. Vì cớ sao? Như lai đó không từ đến cũng không đi đâu nên gọi là như lai.
Âm “ phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng nhược kiến chư tướng phi tướng,tức kiến như lai.”Nghĩa : phàm việc chi có hình tướng đều là sự huyễn sự dối.nếu thấy cái tướng nào không phải tướng,thì là thấy phật như lai.
Âm; “ bồ tát hữu ngã tướng,nhơn tướng,chúng sanh tướng,thọ giả tướng tức phi bồ tát”. Nghĩa;“ tướng ngã ;thấy có mình thật” “tướng nhơn ;thấy có người thật” “tướng chúng sanh;thây tất cả loài có thật” “tướng thọ giả;thấy có mạng sống tiếp nối trong một thời gian,thì không phải là bồ tát.(không trụ bốn tướng là bồ tác .
Âm “ngã sổ thuyết pháp như phiệt dụ giã,pháp thượng ưng xã hà huống phi pháp”.nghĩa; pháp ta nói như chiếc bè qua sôngchân pháp còn phải bỏ huống chi là không phải pháp.) “kim cang kinh”trung bộ kinh.cũng có chủ đề này”.
Âm “nhược dĩ sắc kiến ngã,dĩ âm thinh cầu ngã . Thị nhơn hành tà đạo, bất năng kiến như lai”. Nghĩa: nếu dùng sắc thấy ta,dùng âm thanh cầu ta.là người hành tà đạo,chẳng thể thấy như lai.
“phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng. Nhược kiến chư tướng phi tướng, tức kiến như lai” (phàm cái gì có tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng chẳng phải là tướng thì thấy như lai).nghĩa: ngay nơi tướng lìa tướng, lìa sạch tướng hư vọng thì thấy thật tướng, nên nói là thấy như lai, đấy là chỉ cho pháp thân như lai.
“nhất thiết chư pháp tùng bản dĩ lai, ly văn tự tướng, ly ngôn thuyết tướng, ly tâm duyên tướng ,tất cánh bình đẳng ,bất khả phá hoại ,duy thị nhất tâm, cố danh chơn như”.luận đại thừa khởi tín có câu: "đứng về phương diện bản thể, tất cả các pháp từ xưa đến nay, lìa các tướng nơi lời nói, nơi chữ nghĩa, nơi tưởng tượng, tuyệt đối bình đẳng, không có thay đổi, không có hư hoại, cùng chung một bản thể sáng suốt của nhất tâm, nên gọi là chân như"
thời trưởng lão tu bồ ðề, tại đại chúng trung, tức tùng tòa khởi, thiên đản hữu kiên, hữu tất trước địa, hiệp chưởng cung kính nhi bạch phật ngôn: hy hữu thế tôn! Như lai thiện hộ niệm chư bồ tát, thiện phó chúc chư bồ tát. Thế tôn, thiện nam tử thiện nữ nhân, phát a nậu đa la tam miệu tam bồ đề tâm, ưng vân hà trụ, vân hà hàng phục kỳ tâm? Phật ngôn: thiện tai! Thiện tai! Tu bồ ðề! Như nhữ sở thuyết, như lai thiện hộ niệm chư bồ tát, thiện phó chúc chư bồ tát. Nhữ kim đế thính, đương vị nhữ thuyết. Thiện nam tử, thiện nữ nhân, phát a nậu đa la tam miệu tam bồ đề tâm, ưng như thị trụ, như thị hàng phục kỳ tâm. Duy nhiên, thế tôn! Nguyện nhạo dục văn.
Âm:thị cố tu-bồ-đề, chư bồ-tát ma-ha tát ưng như thị sanh thanh tịnh tâm, bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm"
Nghĩa: thế nên tu-bồ-đề, các bồ-tát lớn nên như thế mà sanh tâm thanh tịnh, không nên trụ nơi sắc sanh tâm, không nên trụ nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, nên không có chỗ trụ mà sanh tâm kia.
“nhất đao triệt đoạn,nhất cú liễu nhiên sanh bách ức”
(dịch ý: chỉ cần một đao là cắt đứt sạch bòng bong mọi thứ trêm đời, chỉ một câu tỏ ngộ thì thoát vòng sanh tử trầm luân). .
“sắc tức là không, không tức là sắc”, hay “phiền não tức bồ-đề”, hoặc “sanh tử tức niết-bàn”. Chỉ một chữ“tức” làm sáng tỏ nghĩa không cố định, không ngoài nhau của các pháp.”
“sắc tức thị không ,không tức thị sắc” :?
Luận nghĩa:
I. “sắc chính lá không “thật”, chứ không phải không có sắc. Vì sắc pháp xưa nay vốn là huyễn có ,nhưng sắc pháp huyễn ấy cũng là pháp.nếu chấp là thật có sắc tức thường kiến,nếu chấp lả thật không sắc tức đoạn kiến”
II.“ câu này xuất phát từ kinh bát-nhã. Chữ sắc ở đây là chỉ cho sắc uẩn. Dưới con mắt đức phật, thân này do năm uẩn kết hợp thành. Sắc uẩn là phần vật chất; thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn là phần tinh thần. Chẳng riêng gì sắc uẩn tức là không, mà thọ, tưởng, hành, thức cũng như thế. Bởi vì bản chất mọi uẩn không tự có, do duyên hòa hợp thành. Đã do nhân duyên hòa hợp thì làm sao cố định được. Trước khi nhân duyên hòa hợp nó không có, sau khi nhân duyên ly tán, nó cũng không, chính khi duyên đang hợp phân tích ra cũng không có thực thể của nó.”
III. "vọng tưởng là sắc, không vọng tưởng là không sắc"
Vậy sắc có nhiều mà đây tôi đơn cử ba loại sắc cốt yếu cho các hành giã tu thiền ;
1-cực lược sắc :sắc nhỏ như trần.
2-cực hánh sắc: sắc rất xa, như thấy tăm tăm, mù mù.
3-định quả sắc: những sắc tướng do tu khi nhập định hiện ra , nước lửa , thế giới vạn vật.mà đúc phật nói trong kinh lăng nghiêm; khi hành giả nhập định,hành ấm nổi lên, nước ,lửa, thế giới vạn vật , biết nó không thật thì nó mất , còn cho là mình đã chứng đắc thì bị ma nó nhiếp trì .
4- vô biểu sắc; (sắc không nêu bày ra được , như khi thọ giới , ý thức lãnh thọ mà có , nên cũng gọi là “thọ sở dẩn sắc”( sắc do thọ giới dẩn sanh).
5- biến kế sở chấp sắc;( sắc do ý thức vọng tưởng phân biệt sanh , chẳngthật .
Âm:“nhất thiết hữu vi pháp, như mộng, huyễn, bào, ảnh. Như lộ diệc như điện, ưng tác như thị quán”.nghĩa:tất cả pháp hữu vi,như mộng huyễn bào ảnh,như sương cũng như điện,nên như thế mà quán.
"không có pháp nào nhất định có tên là a-nậu-đa-la tam miệu tam bồ đề". Muốn một cái gì cố định tức là tạo thành vấn đề.
Phụ lục :
Bát-nhã và duyên khởi các nhà nghiên cứu phật học thường cho rằng bát-nhã là yếu lý của ðại thừa, là nền tảng của các kinh bắc tạng. Nó là "chân không diệu hữu" mà không phải chỉ là "chân không" như một số ý kiến phân biệt.
Bát-nhã tâm kinh chép: "thấy năm uẩn là không (vô ngã) thì liền thoát ly hết khổ ách" (chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thế khổ ách). Ngũ uẩn ấy là con người và pháp giới. Thấy pháp giới vô ngã thì sẽ lìa xa mọi chấp thủ mà đoạn tận khổ đau. Ðây là nội dung của bát-nhã tâm kinh, cũng là nội dung kinh kim cương và của tạng bát-nhã.
Kim cương chỉ bày trí bát-nhã rời hẳn tất cả ngã tướng. Chấp thủ các ngã tướng là gốc của vọng tưởng phân biệt, của vô minh; nên rời hẳn các ngã tướng là đoạn diệt vô minh. Ý nghĩa này là hệt với những gì được trình bày ở duyên khởi.
Phương cách để thể nhập không tánh (kim cang tánh hay bát-nhã tánh, hoặc không tướng, cũng thế) là quán sát các pháp hữu vi là mong manh, vô thường, để từ đó tâm ly tham, giải thoát sinh. Trong giải thoát này, một tuệ giác giải thoát khởi lên, biết rằng mình giải thoát, gọi là "giải thoát tri kiến". Ðây là trí tuệ bát-nhã mà nội dung chỉ là ái diệt, thủ diệt hay vô minh diệt của duyên khởi.
B,S:Dương Văn Lộc