vhnt, số 242
28 October 1996
Trong số này:
thư vhnt..................................................................PCL
T h ơ :
1 - Bãi phế ..............................................Trần Thái Vân
2 - Một căn nhà nho nhỏ ..................................Nguyễn Nam An
3 - Thơ trẻ Sài Gòn: .................................Nguyễn T Dũng p/t
- Tuổi thơ ........................................Nguyễn Ðức Hiển
- Trái tim quá khứ anh, em biết .............................Dạ Thảo
4 - Gửi nhau ..........................................................Chinh
5 - Vì yêu nhau .................................................Tường Vi
6 - Nhật ký cho thu .............................................Thu-Hồng
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
7 - Cái thuở ban đầu ....................................Nguyễn Khải
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
8 - Yêu đến vô cùng ...................................Hoàng Quỳnh Lan
9 - Kẻ đào ngũ ..........................................Trần Hoài Thư
10- Ma cư xá vãng lai .............................................Phú Lê
Sẽ viết ngắn cho thư vhnt số này, chỉ để nhắn với bạn một điều: Cám ơn sự hiện diện của bạn trên siêu không gian đã làm cho những khoảng cách vô hình trở thành gần gũi và ấm áp, cám ơn sự tiện dụng của internet làm phương tiện cho những liên lạc trao đổi, đã đưa tình người đến gần với nhau một cách thông cảm và giản tiện; cám ơn bạn đã đến với vhnt, hưởng ứng và đọc từng số vhnt là những góp nhặt bài vở của nhiều tác giả đã ưu ái chia sẻ, đóng góp cho nội dung thêm phần đa diện và mới lạ.
Xin hãy gửi đến những bài viết mới về những đề tài về văn hóa, văn học, dịch thuật, sáng tác thơ văn, biên luận, phê bình về văn chương, âm nhạc, sách mới, hội họa, tin tức văn học nghệ thuật, v.v... vhnt sẵn sàng đón nhận mọi bài vở có giá trị và ý nghĩa.
Gửi lời chào thân mến cho một ngày đầu tuần.
thân ái,
PCL/vhnt
Bãi Phế
Sáng bầy quạ đen
Chiều bầy quạ đen
Ði trên bãi đen
Nghĩa địa xe trăm ngàn thỏi sắt.
Nghĩa địa này không gợn mối âm u.
Không ghi dấu thiên thu.
Bầy quạ đen
Ðậu trên những dấu hiệu văn minh một thời
Sau mười năm phế thải.
Vài người di dân từ Mễ
Lục lọi những cầu chì, chiếc bóng đèn, tấm nệm
Mua giá rẻ để còn tiết kiệm.
Ai cũng thương mẹ già khốn khô
Người ta không buồn khi thỏi vàng xưa đã mất
Mà hân hoan vì mẩu sắt rỉ mới tìm.
Hạnh phúc là những điều đơn giản.
Có cặp vợ chồng trong nghĩa điạ xe quạnh quẽ
Nắm tay nhau như đang du ngoạn bờ hồ.
Ðôi mắt họ lục lọi rất kỹ
Tìm kiếm những phần hư còn xài được:
Bình điện, thùng nước, carburator.
Chồng tháo vợ đưa dụng cụ
Và khẽ chùi mồ hôi trên trán.
Chị mỉm cười nhặt lên một con búp bê
Ðôi mắt long lanh sung sướng.
Tối nay chắc có một đứa trẻ vui
Ðút miếng hamburger vào thỏi nhựa.
Bức tranh hạnh phúc không cần nền bóng láng
Rét rỉ đến rã rời hạnh phúc vẫn thăng hoa.
Nụ hôn muôn đời vẫn là thần thoại.
Thần thoại không màu.
Có bóng một người tỵ nạn
Ngã đen trên bãi nghĩa điạ màu đen.
Nghĩa địa của công cụ văn minh đến hồi phế thải.
(Như cựu quốc tịch của anh đến hồi phế thải
Hay kẻ cầm quyền phế thải một đời anh?
Không, không ai có đủ quyền, anh bảo!)
Mắt anh nhìn những chiếc máy
Tiếc thầm phải chi ngày xưa mình có mười chiếc máy
Cũ kỹ như thế này thì cả dòng họ đã cùng ra đi.
Thôi anh, số phận đâu phải chỉ đơn thuần tính toán.
Số phận cũng chẳng là sự cưu mang.
Chiếc bóng đen - đen thành số phận.
Những toan tính khôn qua.
Ðời như thanh thép rỉ.
Máu nhỏ giọt lưu đày.
Ngũ hành tạo đường sinh tử.
Có một bầy quạ đen
Ðậu trên những chiếc xe phế thải.
Ðường sỏi đá lau nhau
Gọi mừng người bạn không hẹn.
Trăm năm, trăm năm có còn nhớ nhau?
Còn có nhớ nhau?
Mặt đất sần sùi
Hôi nồng mùi ẩm mốc.
Tiếng chim kêu hay tiếng khóc?
Khóc đói lòng hay khóc thuở hoàng kim?
Trên nghĩa địa xe im lìm chiều nay
Người và quạ hoạt động đều đều không suy nghĩ
Mây trên trời vẫn bay, vẫn bay
Những ân tình mọc trên rét rỉ, rét rỉ...
trần thái vân
một căn nhà nhỏ
Một căn nhà nho nhỏ
Anh làm tổ sâu đo
Hôm nay tình đứng ngó
Hôm nay anh buồn so
Ngày đi lên đi xuống
Ngày đi qua con sông
Con sông giờ đã cạn
Con sông cát khô lòng
Một căn nhà nho nhỏ
Một cuộc sống mong manh
Một thành phố đi quanh
Bước chân tình em, nhớ
Mùa lan chi vời vợi
Mùa hoang man tiếng cười
Trên vai thon tạm bợ
Theo người
Một căn nhà nho nhỏ
Một nếp áo nhăn sầu
Một bàn chân lối gió
Một hồn bước chân mây
Em này em độ lượng
Anh này anh phiêu bồng
Như tình ngày mới lớn
Vui buồn nương nhánh sông
Nguyễn Nam An
6/10/96
Tuổi Thơ
Góc vườn cũ râm ran tiếng dế
Cánh đồng xanh ngỡ trải đến chân trời
Ngọn núi đá dựng trong chiều cao ngất
Tiếng sáo diều - mơ ước tuổi thơ tôi
Gió Lào thổi bạc cả màu áo mẹ
Giấc mơ trưa tiếng mọt đẽo kèo nhà
Hoa cỏ may sương ướt đường đi học
Ong chập chờn bên dàn mướp chưa hoa
Trang sách mở ước mơ gần đến thế
Tiền lá khoai tiêu mãi vẫn giàu
Cô dâu thương chú rể hàng xóm
Sính lễ cưới nàng đựng đủ một mo cau
Rồi dãy núi không dưng mà thấp lại
Cỏ may không còn, nhà mới chen nhau
Hai mươi tuổi - ước mơ còn xa lắc
Tìm tuổi thơ thương áo mẹ bạc màu.
Nguyễn Đức Hiển
(Giải khuyến khích thơ Bút mới II)
Quá Khứ Trái Tim Anh, Em Biết
Người đàn bà ấy là một ánh sao
Xa thẳm...
lung linh...
và ánh biếc...
Ðã bao tháng năm rồi, em biết
Anh vẫn dõi tìm ánh xanh lạnh trên cao.
Người đàn bà ấy
Khứa vào quá khứ anh một nhát dao
Rồi dửng dưng đi mất
Bỏ lại anh với niềm đau thương nhỏ giọt
Và bỏ lại em..
...với nỗi buồn giấy mực ngàn đời ...
Ðến sau người ta, em là kẻ thiệt thòi
Chỉ thấy trong trái tim anh còn một
mảnh pha lê sắc lạnh.
Em muốn vò nát quá khứ anh
để gạn đi mảnh pha lê tàn nhẫn.
Nhưng...vẫn phải ngậm ngùi
nhìn anh...
thi thoảng vật vã đâu ...
Kém thua người ta, em là kẻ đến sau ...
Dạ Thảo
(Giải khuyến khích)
Gửi Nhau
Gửi nhau
mười ngón
tay suông
Mười sợi tóc
Mười nỗi buồn
chẻ hai
Gửi lên
lưng
vết xước
dài
Nghe đời
xê dịch
hình hài
thịnh,
suy.
Chinh
Vì yêu nhau...
tặng N.
Vì khi xa em không xây thành lũy
Nên hồn tôi vẫn cứ muốn về gần
- ttv -
Vì yêu nhau, không ai xây thành lũy
Nên không là từng năm tháng ngại ngần
Và không gian dù thiếu khoảng cách gần
Ta hoài giữ mảnh tình thơ lụa trắng
Vì yêu nhau, khoảng đời kia ngăn ngắn
Bỗng dài thêm theo nỗi nhớ xanh xao
Một giọt mưa, thêm một tiếng kinh cầu
Mà xao động cả trời xưa thanh tịnh
Em nhỏ bé trong vòng tay định mệnh
Nên thiên thu không hẹn vẫn là duyên
Tình đậm đà trong sầu khổ muôn niên
Anh về giữ chút tình thơm ngày ấy
Vì yêu nhau, bây giờ là tháng mấy
Mà chiều nay mưa ướt đẫm đường về
Chưa hẹn hò lòng đã mộng sơn khê
Cho mây núi mải mê tình rất lạ
Vì yêu nhau, tháng mười cây thay lá
Thơ thay mùa, em thay giấc mộng du
Chút bụi mờ lên ngày tháng âm u
Cùng tan biến khi em hồng giấc ngủ
Xin một thoáng bâng khuâng, chiều khói phủ
Yêu một lần cho tình đọng thiên thu
Vì yêu nhau, môi thơm ngọt lời ru
Hồn ngây ngất, nẻo mây tình kết nụ ...
tường vi
10/17/96
Nhật Ký Cho Thu
ngày 9/30/96... Thu đã về rồi ư?
Núi buồn đón mưa sa
Chiều thu trong cô lẻ
Chút sầu chợt thoáng qua
Lá vàng rơi khe khẽ
Trời vào thu, giã từ cơn nắng hạ
Lá héo vàng, xào xạc giữa mưa đêm
Giọt nhớ thương như đọng giữa môi mềm
Người phiêu lãng, có biết lòng ai nhỡ
Trời tháng chín, khói loang làn hơi thở
Bên song buồn, nhìn cỏ úa cô đơn
Giọt mưa thu ti tách những dỗi hờn
Chùng phím nhạc, buông lơi cung trầm tưởng
Mưa lất lay, giọt sầu hoen mắt phượng
Lá vờn bay lờ lửng giữa không trung
Lòng chơi vơi bao thương nhớ khôn cùng
Theo gió cuốn, hồn thơ về vô tận
Chiều thu về, người buồn cho thân phận
Tóc buông dài, gương lược chẳng màng soi
Trong lung linh, mờ nhạt nét hương đời
Vần thơ muộn giữa màn đêm cô tịch ....
ngày 10/4/96... Lá vẫn rơi từng chiếc...
Anh có biết, bên này thu lá đổ?
Mưa rơi nhiều giăng kín mộng ngây thơ
Lá cuốn bay trong gió chút hững hờ
Cho vương vấn, thoáng dâng tràn đôi mắt
Anh có biết, tim hồng đang thắt chặt?
Nhịp thở nào gây đau xót không nguôi?
Vòng tay đan bao ước vọng xa vời
Em đếm lá để nghe hồn nức nở
Anh có biết, núi rừng giờ thương nhớ
Bước muộn phiền theo tiếng lá rơi rơi
Bờ vai như buốt lạnh giữa dòng đời
Anh có biết, sao thu buồn đến thế ??
ngày 10/6/96... mưa nặng hạt ngoài hiên...
Em vẫn biết khi lá rơi ngoài ngõ
Là thu về cho hoa cỏ buồn tênh
Phất phơ bay mưa ứơt lạnh bên thềm
Nghe nhung nhớ quay về trong ký ức
Em vẫn nhớ những đêm dài thao thức
Bản nhạc buồn em nghe mãi không thôi
Ngồi lặng im, trong tối, ngẫm chuyện đời
Làm con gái, mơ nhiều, nhưng được mấy
Em vẫn đợi, bao thu rồi, vẫn vậy
Mộng thật nhiều, như lá úa ngòai sân
Ðong đầy tay bao ước vọng, xa, gần
Như chiếc lá, tình thu tan theo gió ....
ngày 10/9/96... sương phủ kín ngõ về...
Sáng ngủ dậy đã nhớ người, nhớ tiếng
Chăn phủ mình nhưng vẫn lạnh làm sao
Nhớ lời ai , ôi, trầm ấm ngọt ngào
Vòng tay ấy, đưa ta vào luân vũ
Ðã bao đêm, ta nào an giấc ngủ
Căn gác buồn với nỗi nhớ không tên
Tay trong tay, đan kín mộng êm đềm
Và vũ trụ, mất dần trong tầm mắt
Ta chỉ sợ, đời quên ta, ngoảnh mặt
Ta sẽ buồn, cô độc biết bao nhiêu
Thơ tình trao đâu thể nói được nhiều
Ta im lặng để nghe hồn thổn thức ...
Này thu hỡi, tình thơ hay tình thật ???
Thu-Hồng
Cái Thuở Ban Đầu
Có nhiều người hỏi tôi: Vì sao tôi lại chọn nghề văn? Vì... là một cái nghề tôi thích. Nhưng không phải cứ thích là đã được. Tất nhiên! Riêng tôi lại càng khó được vì tự biết mình không có cái tài bẩm sinh. Không có chữ tài thì lấy chữ nhẫn mà thay thế, xem ra cũng có thể được. Các cụ thường nói: nghề dạy nghề, làm cho say mê, cho tận tụy, cho tột cùng thì rồi cũng có ngày đạt tới cái thần của nghề. Làm nghề gì cũng thế, đã đạt đến cái thần của nó tức là đã phá bỏ được mọi điều ràng buộc, là người tự do hoàn toàn vì không còn gì có thể ngăn trở giữa mình với cái đích. Viết như chơi, như bời và văn chương vẫn như mây như sóng, không còn thể loại, không còn chữ nghĩa, không còn cả mình vơi người, riêng với chung, to với nhỏ, cao với thấp, bi với hùng. Tất cả đã trở thành một, khêu gợi, lấp lánh huyền ảo, mỗi lúc đọc một khác, mỗi tuổi đọc một khác, như chính nó là một hiện tượng của tự nhiên, mãi mãi tồn tại cùng với sự sống. Than ôi! Làm nghề được đến thế trăm năm chỉ có một hai người. Phải nghĩ như vậy để có khỏi có lúc bị huyễn hoặc tự xem mình như đã là một cái gì đô Còn lâu! Nhưng tôi vẫn là một người có ích, phải không? Nói thế nghe được. Chỉ là một người có ích thôi cũng đã hết sức may mắn.
Nguyễn Khải
2-1986
Tuần báo VĂN NGHỆ Số 13(1169) - Thứ bảy 27-03-1986, trang 7
Yêu Ðến Vô Cùng
"Có khi rời xa người mình yêu là yêu người ấy nhất!" Một người năm xưa đã nói với tôi câu này, nhưng lúc đó tôi không đồng ý. Tôi nghĩ rằng lúc nào tôi cũng muốn được ở gần người mình yêu, được âu yếm ngả đầu trên vai chàng và cùng sánh vai trên lối cỏ dịu dàng. Tôi không tìm ra được điều gì có thể ngăn trở tình yêu lứa đôi vì tôi tin tưởng vào sức mạnh của sự kết hợp kỳ diệu ấy. Lòng tôi miên man với những ước mơ ngây thơ về một tình yêu tận cùng, mà tôi thì không hề nghĩ được rằng, có thể lúc nào tôi lại sống mà không ở cạnh người mình yêu.
Cho đến khi tôi quen chàng, mọi việc xảy ra hoàn toàn khác hẳn. Tình yêu, là những dòng thơ nhiều nhớ mong, là những xuyến xao dịu dàng và hờn ghen không căn cứ. Tình yêu, là lời nói âu yếm của người tình, là những âm thanh quen thuộc nhẹ nhàng, từng dấu sắc dấu nặng ngổn ngang. Trái tim tôi vừa hé mở, đã vội vàng đón nhận chàng một cách nồng nàn không biên giới, và không một lời báo động. Ðể rồi một ngày, khi chợt nhận ra thì tôi đã yêu chàng nhiều lắm, và tình yêu của tôi lại có nhiều mộng mị đến nỗI trái tim say khướt trong men tình mà tôi không hay. Nhưng trời già la .i rất lắt lay, tôi biết là không bao giờ hai chúng tôi có thể được gần nhau. Không phải là cách xa đến nửa vòng trái đất hay là người cuối trời kẻ chân mây. Cũng không phải là Ngưu Lang hay Chức Nữ gặp nhau mỗi năm chỉ một ngày. Nhưng tôi đếm những lần chúng tôi gặp nhau như đếm sao trời trong mùa ngâu, nhìn lên chỉ thấy trời đầy mây mà dải Ngân Hà thì tìm hoài không thấy. Vì trên đời vẫn có nhiều cách ngăn không thể vượt qua, đôi khi tôi thấy mình hèn nhát xin làm người bỏ cuộc. Tôi xin nhận làm người tình thua để chàng được trăm lần bình yên và hạnh phúc.
Và như thế hai chúng tôi xa nhau. Lần cuối cùng nói chuyện trên điện thoại với chàng xong, tôi không thể nào ngăn được những dòng nước mắt. Dù lòng tôi đã chuẩn bị từ lâu, dù tôi đã biết trước thế nào, tôi vẫn yếu đuối như thường. Vì mười lăm phút nữa là có hẹn làm chung project với Cathy, tôi chạy vội vào phòng rửa mặt để tự trấn tĩnh lạị Tôi không muốn Cathy bắt gặp tôi với đôi mắt đỏ hoe và một tâm thần ngổn ngang không ổn định. Thì tôi đang nhìn tôi trong gương với đôi mắt u buồn mênh mông và một nỗi niềm không thể nào thổ lộ. Tôi tự trấn tĩnh và trấn tĩnh, nhưng sao nước mắt vẫn cứ rơi cứ rơi, cho đến một lúc tôi quyết định phải trở lại phòng làm việc. Thà tôi gặp và làm việc với Cathy, may ra đầu óc tôi bận rộn nên quên được chăng? Tới ba giờ ba mươi, Cathy có việc phải rời sở sớm. Tôi lại ngồi đó một mình, với một tâm sự ngổn ngang không cần che dấu. Nhìn ra bên ngoài, tôi thấy nắng chiều còn vương nhẹ trên ngọn cây. Mùa thu nơi đây tôi chưa bao giờ được ngắm lá vàng baỵ Tôi chợt thèm lang thang ở đâu đó một mình để lắng nghe thật kỹ tiếng lòng đang kêu than. Tôi không có cái thói quen tìm quên trong những thú vui hoặc ở những nơi ồn ào. Tôi lại càng không thích đem chuyện buồn của mình nói cho người khác nghe, vì tôi thích được nhìn hạnh phúc từ những người chung quanh. Họ vui làm tôi vui lây. Chuyện buồn của tôi chỉ làm cho nụ cười của họ kém tươi, thì thà tôi ôm nỗi buồn cho riêng mình mà thôi. Tôi muốn đối diện với chính mình để nghe nỗi buồn sâu thấm vào từng tế bào, để biết trái tim mình vô cùng mềm yếu hư hao. Biết mình buồn vì yêu người rồi thôi, chứ tôi không hề có ý nghĩ sẽ đi tìm lại vòng tay chàng để khóc trong tuyệt vọng. Vì tôi biết là tình của chúng tôi không hy vọng. Tôi đã yêu chàng đến vô cùng nên tôi chấp nhận cho thân phận mình lẻ loi, là tôi phải mãi mãi rời xa để ngày sau không có những phiền hà.
Nếu từ lúc này trở đi, tôi có ngồi buồn nhìn đếm sao trời, không biết tôi sẽ còn đếm được bao nhiêu vì sao trong mùa ngâu?...
Tôi uể oải xếp lại bàn viết rồi ôm cặp sách đi về. Tôi nhìn lên tường, đồng hồ chỉ đúng bốn giờ kém năm...
hoàng quỳnh lan
Oct. 12, 1996
Kẻ Ðào Ngũ
Ðêm ấy tôi còn mắc kẹt lại trên đỉnh đồi, ôm vết thương mà rên rỉ. Quả lựu đạn từ dưới hầm đá, nơi tôi và tên truyền tin đứng, đã được quăng lên và làm hai chân tôi không còn xê dịch được nữa. Thằng truyền tin, gương mặt đầy máu, cõng tôi chạy xuống đồi, nhưng hắn đã bị lộn nhào lúc vượt qua một bãi đất trống. Sau đó hắn nhào đến núp bên một mô đất cao. Còn tôi, thì bất lực. Tôi kêu nó cõng tiếp nhưng hắn khiếp đảm bởi những loạt đạn nã xuống từ trên cao điểm. Tôi dọa phạt nó. Hắn vẫn tiếp tục van lơn: Ông thầy hiểu em, em ra thì nó bắn. Ông thầy có thương em thì rán bò vào. Em van ông thầy. Cuối cùng thì hắn chạy. Hắn để tôi một mình cùng những người chết và bị thương khác nằm rãi rác đây đó. Càng về khuya, sương và khí lạnh của núi rừng đã làm vết thương càng đau nhức không thể tưởng. Cổ tôi khô thốc. Vầng trăng mùa hạ đỏ như máu càng lúc càng hiện lên cao. Tôi đã thử dùng hai cánh tay cố trườn. Nhưng cuối cùng tôi cũng đành chịu thua.
Rồi đến một lúc nào đó, tôi thấy những bóng đen từ những hang đá nhô lên như những bóng ma hiện hồn. Họ tiến về phía tôi. Một tên la lên: Thằng này còn sống. Hắn kê nòng súng vào đầu tôi. Nhưng tên sau đã không cho bắn. Có lẽ họ nghĩ tiếng nỗ có thể làm phát lộ sự có mặt của họ. Một tên khác đã lấy lưởi lê đâm vào ngực tôi. Tôi la lên thất thanh rồi thiếp đi bất tỉnh...
Thế mà tôi vẫn còn sống. Sống một cách kỳ lạ. May mắn hay là cái nghiệp để tiếp tục cuộc chơi. Nhưng tôi đã sợ rồi. Nhất quá tam. Tôi đã ba lần ỉa trong quần rồi. Chẳng thà bị nhốt vào quân lao, hay bị đưa ra toà án quân sự mặt trận, để lột lon, còn hơn là chết. Mắt tôi cứ thấy lại ánh thép loang loáng ánh trăng và sau đó là một tiếng phụp, rồi những đường răng cưa cứa mạnh, đến nỗi tôi không còn biết tê điếng gì nữa. Cái đau đớn làm kích ngất tôi, và trước khi ngất, tôi nhớ là tôi đã hét lên một tiếng, ghê gớm lắm, như bùng vỡ cả màn nhỉ, như bạt cả vùng đồi đêm khuya.
Tôi đã nhớ lại để mà nhắm mắt, run sợ, lắc đầu... Con dao... Trời ơi, nó đưa lên, nó đâm mạnh xuống, nó rút dao ra, và máu, máu bắn thành tia vòi... Như vậy, tôi vẫn còn sống để viết lên những hàng chữ này... Cám ơn. Tôi phải cảm ơn nó, thằng lính Bắc quân nào đó, đã đâm tôi không trúng chỗ huyệt... Nó có quyền mà. Bởi vì trước đó, tôi đã đi tìm để giết nó mặCó phải vậy không? Ðừng cầm con dao gần tôi, kẽo tôi thấy tôi khóc, tôi chạy, tôi đào...
Và tôi đã đào ngũ thật sự. Thiếu úy trung đội trưởng bộ binh đào ngũ sau khi hắn đứng trước hội đồng giám thị y khoa để nghe người ta ban một đặc ân là cho một tuần phép xuất viện sau đó trở về trình diện lại đơn vị. Tôi nghiến răng, mắt nổ, tai lùng bùng. Họ còn hành hạ tôi đến khi nào nữa. Vết sẹo sâu hoắm vẫn còn in bên bã vai. Mắt cận 7 độ. Một tai bị điếc.
Họ vá lành vết thương nhưng họ chưa hiểu cái vết sẹo kia là cái ám ảnh còn ác nghiệt hơn cả một cơn ác mộng kinh hoàng...Khi tôi cởi chiếc áo ra, ai ai cũng nói với tôi: bạn là một người may mắn nhất trần gian này. Thì may mắn. Nhưng may mắn đến bao giờ. Nhất quá tam.
Bởi vậy, tôi cầm tờ phép về lại thành phố cũ. Tôi về lại một nơi mà cả tuổi thơ của tôi tràn ngập những kỷ niệm, như lẫn quất trong từng vuông khối không khí, hay từng thước đất thước đường.
Nha Trang. Cuối con dốc dẫn xuống từ ngôi trường nào đó, là ngôi nhà mà mẹ tôi đã và đang kéo dài thân tôi đòi. Tôi là con của bà, một sĩ quan, nhưng tôi không cứu bà nỗi. Như vậy thì tôi về đấy làm gị Và trong cả hàng hàng lớp lớp con gái của thành phố này, người nào nhỏ dùm giọt lệ thừa cho một tên tuổi trẻ. Ai mở cánh cữa để chứa tôi? Ai nhìn vết thương của tôi mà oà vỡ lòng từ tâm từ độ. Ðừng nhắc gì đến cái câu bạn làm gì cho tổ quốc. Tổ quốc. Vâng tôi biết. Tôi biết Tổ Quốc lắm. Tiếng đó chỉ được nhắc nhở ở trên cửa miệng đầu môi của lảnh tụ chứ chưa bao giờ từ những hạng thấp hèn như binh nhì binh nhất chuẩn úy thiếu úy chúng tôi. Bởi vì yêu tổ quốc nên chúng tôi phải sống lên chết xuống, ngất ngư đêm ngày trong những đồng nước lụt, trong khi họ làm tình, chở gái, chở đồ lậu, mua quan bán chức, đưa con cháu ra ngoại quốc trốn lính... Ðừng nhân danh yêu nước, yêu tổ quốc khi các người chưa một lần bị dao đâm, bị lựu đạn, bị mãnh đạn pháo kích, đêm đêm nằm trên những mồ huyệt mới cũ... Tôi là tôi. Tôi có quyền định đoạt lấy số phận của đời tôi. Vâng, tôi nói với lòng, nhất quá tam, tôi không thể để tôi chết. Dù ăn mày, ăn xin, dù đầu cúi, mắt láo liên, dù chui, dù rúc, tôi phải sống... Ngày tôi đọc thánh kinh trên căn gác chuông, nghe những hồi chuông sáng và chiều vọng về lướt thướt, đêm tôi thắp đèn cầy, thấy cái bóng mình in đậm trên vách tường. Hôm qua ở nhà này. Hôm nay ở nhà khác. Ðêm thỉnh thoảng động kinh vì những hồi bố ráp... Chị Lê ơi, chị làm tôi khốn khổ, khi chị mặc chiếc áo lụa vàng, không mang nịt vú. Chị làm tôi mê liệm cùng tuổi thanh niên khi chị cúi xuống dọn từng chiếc chén chiếc đủa cho tôi một bửa ăn gia đình. Ngực chị trắng lấp lững. Mùi thơm từ da thịt. Và cái vẽ man dại từ đôi mắt như ngào ngạt ẩn chứa cả dục tình... Chị Lê, xin lỗi chị, tôi không thể phụ lòng tốt của anh Lê. Và vì thế tôi rời Nha Trang.
Không. Tôi trốn Nha Trang cũng nên.
Nhưng có một người bắt tôi quay trở lại, giữa lúc tôi có một nơi gọi là chốn lưu thân giữa cõi hồng trần. Giữa lúc, tôi có dòng sông Dinh, và những cô gái Chàm trên rẫy, và những vườn trầu xanh mượt, làm choán ngợp no nê con mắt. Người ấy là ba tôi. Con gà trống nuôi tôi mấy mươi năm, bây giờ, vẫn còn tiếp tục lo âu vì tôi. "Con ơi, nghe con bỏ đi, ba rất lo âu. Con đừng nghe lời rồ dại của bạn bè. Nhà mình gia giáo. Hãy nghe lời ba về trình diện. Ba chỉ còn sống không bao lâu nữa..." Tôi cầm lá thư gửi từ Huế, chuyển về Nha Trang, chuyển ra lại Ninh Hoà, chuyển về lại Nha Trang, và cuối cùng chuyển về Tháp Chàm, đưa cho Nhân xem. Thằng bạn trung úy không nói. Tôi vẫn còn nhớ đến một mặt trời đỏ ối trên bãi xương và tiếng còi tàu hú lên khi con tàu sắp chạy vào nhà ga Tháp Chàm. Cảnh tượng quá chừng buồn nãn, không có một chút gì sinh khí. May mà có Nhân. Nó hiểu tôi. Nó muốn tôi lấy lại thăng bằng. Nó muốn tôi quên đi cái ám ảnh. Vết sẹo trên bã vai. Con dao găm đâm xuống. Và những tia máu phun lên. Nó kè kè bên tôi, dùng thế quân đội để che chở và bảo bọc tôi. Những ngày rãnh nó và tôi ra ngoài sông Dinh, cùng nhau tắm và phơi nắng, rồi sau đó, hai đưá cùng lột da lưng bị phõng nắng cho nhau. Nó tha thiết giữ gìn tôi.Thế mà tôi lại phụ nó. Thế mà tôi lại nói: "Ngày mai tao sẽ đi tái trình diện. Ðừng lo gì cho tao".
Ngày tôi đến trình diện quân vụ thị trấn, Nhân đèo tôi bằng xe honda. Tôi bắt nó chờ ngoài cổng, không quên nói nếu chờ lâu thì mày coi tao đã bị nhốt, đi về đi. Tao sẽ liên lạc lại sau. Nhân nói không sao đâu, mày là sĩ quan mà. Ừa, may mà nó nghĩ vậy, để tao còn sống thêm vài tuần nữa. Tôi vào phòng quân vụ. Tên quân cảnh ngồi sau cái bàn ngay gần cửa ra vào ngước mắt nhìn tôi:
- Ông cần gì ?
- Tôi muốn trình diện.
- Thì ra ông đào ngũ. Bao lâu.
- Năm tháng.
Hình như hắn quá quen thuộc với những con người như tôi. Hắn tiếp tục hỏi:
- Cấp bậc, số quân, đơn vị...
Tôi nói cấp bậc thiếu úy, số quân, đơn vị...
- Thiếu úy chịu chơi dữ, không sợ bị lột lon sao ?
- Không, tôi đâu có chịu chơi, nếu chịu chơi thì tôi chả ra đây trình diện.
- Tôi nói vậy cho vui thiếu úy, nhà binh với nhau hết cả mà.
Nhà binh. Hắn ở văn phòng còn tôi đánh giặc. Hắn đi đâu cũng đi xe còn tôi băng đồi băng suối, cùng mấy ngày gạo sấy... Cái chữ tiền tuyến hậu cần nghe muốn nôn. Muốn bắn hết cấp số đạn để khỏi nghe mấy cha nội ở hậu cứ mở nhạc nhẩy đầm. Muốn bắn vào đoàn xe chở mấy nàng vũ nữ ở Saìgon ra tiền đồn ủy lạo. Ủy lạo gì, chỉ biết mấy tay tướng tay tá, chưa bao giờ ôm một tay lính trơn, còn tao phải dẫn con cái đi nằm đường bảo vệ an ninh. Còn em nữa. Tại sao em lại không nhỏ dùm tôi ít giọt nước mắt thừa? Thôi bỏ qua đi Tám. Bây giờ tên QC mới bảo:
- Bây giờ thiếu úy thuộc quân số Ðơn vị hai quản trị. Mỗi ngày thiếu úy có thể đến đấy trình diện chờ đợi ngày ra Tòa án quân sự.
Tôi cám ơn. Như vậy tôi có quyền ăn chơi bụi đời bù lại những ngày tôi tịnh khẩu. Tôi nhảy xuống bậc tam cấp vui mừng như một tên hạnh phúc, huýt sáo.
- Nhân ơi, chở tao đi suốt ngày suốt đêm nay đi.
- Ði đâu, thằng du đãng ?
- Ði uống rượu, đi uống cà phê, đi lêu lổng.
Nhân, tao nói thật với mày, tao phục cụ Trần tế Xương sát ván. Cụ là tiền phong của nền thơ Mới. Cụ là một nhà cách mạng số một của nhân loại. Ở thế hệ cụ, ai dám nói: Một trà một rượu một đàn bà. Ba cái lăng nhăng nó quấy ta, chừa được cái nào hay cái nấy. Có chăng chừa được rượu với trà. Nhân đồng ý:
- Ổng là số một.
- Nè Nhân, nếu tao mà dạy học, tao chỉ dạy Trần Tế Xương, Cao Bá Quát. Nội cái cách dùng chữ của mấy cụ thì hết có chỗ nói. Nhất là hai câu cao lâu thì ăn quịt, thổ đĩ lại chơi lường. Rõ ràng cụ là sư phụ. Nhưng can đảm, khí phách, hào hùng, ngang tàng... hà hà, Nhân ơi, hôm nay tao phải la phải hét tự do muôn năm.. Tao nói tiếp về sư phụ của tao. Mấy tay gọi là phê bình gia chỉ mang cái võ chữ nghĩa ăn cắp từ mấy ông triết gia ngoại quốc. Mấy ổng muốn phê bình ai, thì phải sống trước đã, phải lăn xã trước đã. Ðừng dạy viết văn. Ðừng dạy chủ từ động từ túc từ. Mấy ổng cứ bắt học hoài cái câu kiếp sau xin chớ làm người, làm cây thông đứng giữa trời mà reo là số một. Này Nhân, thông tùng là thứ cây cô đơn lắm, còn hơn cả con người nữa, chúng reo gì, chúng khóc đấy. Cứ bắt chước mấy ông nho sĩ quân tử. Cứ rặp khuôn sách Tàu. Tao đã bị số không vì lý luận như vậy. Tao đã bị ông thầy nạo tao một mách, rồi trù đuổi tao nữa... Suốt ngày loa Hà Nội Sài Gòn cứ lãi nhãi bài ca cải lương yêu nước, tuổi trẻ thành đồng, anh tiền tuyến em hậu phương. Thằng viết nó không bao giờ ra mặt trận, mới nghe pháo nổ là són đái...Tao với thằng lính Mỹ truyền tin, chạy cả năm sáu cây số, tao bảo hắn dừng lại, đến vùng an ninh rồi, mà hắn cứ bảo là còn Vi Xi, bắt tao phải nhắm mắt thở không ra hơi tiếp tục chạy nước rút... Như vậy thằng nào yêu nước? Thằng nào dám nói ái quốc? Tay tướng nào dám gởi con ra ngoài mặt trận hay không? Con cháu của mấy tay lảnh tụ đều ôm cặp theo cha hay dzọt ra ngoại quốc. Nhân gật đầu lia lịa:
- Ðúng một trăm phần dầu.
Hắn lên ga, sang số. Xe rú mạnh cùng tiếng cười tiếng rú của một tay trung úy và một tay thiếu úy. Xe chạy ngang qua đám quân cảnh ở ngã tư thành phố. Tôi đưa tay vẫy vẫy mấy trự, những hung thần của tôi trong năm tháng vừa qua.
Tôi đã ra Tòa Quân sự, đứng chen lấn giữa cả trăm thằng mang danh bất hảo, bụi đời, hèn nhát, đào ngũ chờ ông Tòa tuyên án. Chúng tôi ngồi xếp bằng trên nền nhà của Tòa Án. Tôi buồn ngũ. Nhưng ráng mở mắt. Ráng căng tai chờ đợi tên gọi. Không có gì lạ ở đây. Nhớ đến câu thơ của cụ Tú Xương. Ba cái lăng nhăng nó quấy ta. Cụ đi trước thế hệ tôi gần một thế kỷ nhưng cụ gần gũi tôi như hôm qua. Nhưng không ai hiểu con tim cụ. Kể cả mấy cha làm văn học sử. Mấy tay chưa biết cái quịt, cái lường nó lâng lâng thú vị biết chừng nào. Mấy tay không thể nào hiểu sức sống mãnh liệt bão bùng của ba hồi trống dục đù cha kiếp. Một nhát gươm đưa đéo mẹ đời... Mấy tay cứ đếm bao nhiêu chữ buồn trong Kiều để mà phân tích, bình giải, rồi vỗ tay... Không biết khi viết chuyện Kiều, cụ Tiên Ðiền có phải giới hạn bao nhiêu chữ buồn cho nàng Kiều ngồi trên lầu Ngưng Bích hay không. Tôi có lẽ nổi loạn với họ. Và cũng vì vậy thi Tú Tài tôi hỏng vì cái điểm Triết 12. Và cũng vì vậy tôi mới bị kêu vào lính, được cơ hội tập tành yêu nước, trong khi kẽ khác ung dung làm kỹ sư, giáo sư, bác sĩ, học giã, triết gia... Ờ tôi thách, tay nào dám chịu chơi như tôi. Dám thấy cái chết và nỗi sống yêu dấu đến dường nào. Tay nào cũng kềnh càng cái võ, rỗng, như vần thơ vô hồn vô xác. Giữa lúc người ta muốn lên lon, tiến chức, tôi đào ngũ về đọc thánh kinh, Kinh Hoa Nghiêm, và cuối cùng bị giáng cấp. Giữa lúc người ta sống và thở bằng giống đực, giống cái hì hục, thì tôi bỏ lên tháp chuông, ôm cả trăng sao tinh tú... Tôi nói thật đấy. Thiếu úy Be nay xuống lon thành chuẫn úy Be. Các ngươi thương xót ta? Ðừng đạo đức giả - Thiếu úy Trần văn Be, số quân... Ông thượng sĩ đã kêu đích danh tên tôi. Tôi la có mặt.
Chúng tôi nghe chỉ một lời ngắn ngủi của luật sư an-lương-nhà-nước nhưng đại diện phía chúng tôi: "Chúng tôi xin tòa khoan hồng." Rồi chấm hết. Phía công tố viện, tay ủy viên chánh phủ cũng vậy. Nói vài lời, rồi hết. Dường như họ cứ lập đi lập lại một cuốn phim bao nhiêu năm: Lính đào ngũ, bị thộp cổ, ra tòa, đi lao công đào binh. Sĩ quan bỏ ngũ, trình diện trong thời gian ấn định bị giáng cấp và phải phục vụ ở một đơn vị lao công đào binh sau một thời ấn định.
Ngày từ giã thành phố, Nhân đưa tôi tại bến xe. Hắn ném cho tôi cả gói thuốc còn lại cùng chiếc áo ấm trên mình: - Này mày hãy giữ. Trên ấy lạnh lắm, không phải như ở đây đâu. Tôi cầm lấy món quà mà muốn khóc. Tôi đã hiểu tình bạn là như thế nào. Tôi đã biết cái tình bằng hữu đôi khi còn đậm đà hơn cả tình trai gái vợ chồng nữa. Câu hỏi của tên nào cứ vang vọng hoài: Bạn bè là cha mẹ hay vợ con là cha mẹ, ông thầy? Vâng, dĩ nhiên là bạn bè. Khi Ông chết ai mang xác ông về. Khi ông bị thương ai cõng ông chạy thoát. Tôi biết cái lối kích rượu của đám lính tôi. Nhưng tôi phải chấp nhận. Tôi thèm bạn. Tôi tri ân bạn. Tôi sống nhờ bạn. Nhân đã bắt tay tôi và siết chặc. Tôi cũng vậy. Cuộc từ ly giữa hai thằng thanh niên, đâu có gì để mà nhớ, sao lòng lại chùng lạnh. Bạn tôi, một mẫu người cô độc, nhưng tâm hồn bạn là cả một biển trời đại lượng. Nó thương dùm tôi, vì, nó biết những gì sắp chờ đợi tôi trên ấy... Nó biết hình phạt sắp sửa dành cho một tay đứng trước vành bị can trong toà án quân sự mặt trận. Tôi hiểu và an ủi nó. Tao tin số tao may. Nhất quá tam. Tao bị thương ba lần rồi.
Cuối cùng, người ta chụp tôi như chụp con mồi. Trong thời gian chờ đợi bổ sung, một ngày nọ, tôi được lệnh lên bản doanh Sư đoàn trình diện tướng sư đoàn trưởng. Viên tùy viên dẫn tôi thầm thì : Lát đây, chuẫn úy sẽ gặp Tư Lệnh, chuẫn úy nhớ trình diện đàng hoàng. Hắn nhìn râu tóc và hai ống quần không gom, cùng đôi giày không bao giờ đánh bóng của tôi.
Tôi vào văn phòng Tư lệnh. Phòng mát lạnh bởi máy điều hoà không khí. Tôi đứng nghiêm chào tay ông. Chuẫn úy Trần văn Be số quân trình diện Chuẩn Tướng. Ông ta vẫn ngồi yên, chăm chú đọc hồ sơ của tôi. Sau đó, ông Tướng mới ngẫng mặt lên, rão mắt nhìn chăm từ đầu xuống chân tên sĩ quan mới trình diện. Ông nói:
- Xem hồ sơ của chú em, ta biết chú em chịu chơi lắm. Tại sao chú em đào ngũ khi chú em là sĩ quan có nhiều công trạng sắp được đặc cách lên trung úy?
Tôi không trả lời. Có nhiều điều ông không hiểu đâu.
- Chú em là người ta cần.
Ông đứng dậy, tiến về phía bản đồ treo giữa vách. Ông chỉ ngón tay trỏ lên một tọa độ đầy màu xanh.
- Chú em vẫn biết suốt cả tuần nay dư luận đang bàn tàn về mặt trận diễn ra tại khu vực X.
Chú thấy không, cao điểm này có thể kiểm soát trục lộ tiếp vận, và ngăn chặn sự xâm nhập của đối phương về hướng thành phố. Nếu mà họ chiếm, chỉ đặt một khẩu pháo 130 ly thì thành phố sẽ hổn lọan và chúng ta sẽ không còn mặt mũi nào để nói với cấp trên và đồng bào.
Ông thở dài, nói tiếp:
- Mấy hôm nay, các phóng viên ngoại quốc đổ xô về đây. Họ làm ta rất khổ tâm. Ta đã đoan quyết với họ là ta sẽ tái chiếm.
Tôi biết ông tướng muốn gì bây giờ. Tôi hiểu cõi lòng của ông. Vâng, tôi thương ông. Lúc này nếu đổi lấy mạng sống của tôi, tôi vẫn đổi.
Tôi nói:
- Chuẩn tướng cần gì ở em, xin chuẩn tướng cho biết
- Vâng, ta cần ở em lúc này. Ta sẽ để em tự quyền chọn lựa những anh em trong đơn vị lao công đào binh. Ta biết các anh em ấy là những người lính rất tinh nhuệ, gan dạ, nhưng vì lý do này lý do khác các anh em phải đào ngũ. Ta muốn trả lại danh dự cho các anh em. Ðây là lá cờ ta trao cho chú em. Hãy tìm cách cắm lên đỉnh. Ðể nói với mọi người là căn cứ vẫn còn thuộc quyền của chúng ta kiểm soát. Trưa mai là giờ G. Sẽ có hai người phóng viên chiến trường tháp tùng tóan của chú. Ta rất cần chú em. Chú em nghe rõ không?
- Em nghe rõ, chuẩn tướng
- Tốt lắm. Giờ chú em nên gặp trưởng ban ba để hiểu hơn về kế hoạch hành quân. Chúc chú em thành công.
- Tuân lệnh chuẩn tướng
Buổi chiều tôi trở lại doanh trại Lao công đào binh, để lựa người. Thật cảm động, số người tình nguyện vượt xa con số mà tôi mong muốn. Thằng Tam, tóc dài như dã thú, ngước nhìn tôi như khẩn cầu: "Xin để cho em được mang lá cờ".
Trần Hoài Thư
Ma cư xá vãng lai
Câu chuyện dưới đây thực hư tôi không rõ lắm. Chỉ là chứng nhân, nghe rồi ghi ra đây nên tin hay không tùy người đọc. Riêng bối cảnh không gian và thời gian với những nhân vật trong chuyện là có thật, trăm phần trăm. Tôi mạn phép đổi tên các nhân vật chút xíu vì những người được nhắc đến trong bài đều đang định cư tại xứ này.
Cuối tháng 2/73, tôi đến trình diện trường Võ Bị Đà Lạt (VB). Ăn Tết ở Phan Rang xong thì nhận được sự vụ lệnh biệt phái lên đây phụ trách môn Khí Tượng cho sinh viên Sĩ Quan khoá 26 đã lựa qua Không Quân. Trước ngày lên đường tôi được chỉ thị để gặp Trung Tá Không đoàn Trưởng. Tưởng gì quan trọng hoá ra chỉ nhận quà và thư do ông gửi cho bạn cùng khoá, giờ là Thiếu Tá Trưởng Phòng Nhân Viên ở trường VB. Có lẽ nhờ vậy nên tôi được Th/Tá này chú ý chăng, vì ông đích thân dẫn đi giới thiệu vòng quanh trường thay vì để thuộc cấp lo ba cái chuyện không mấy quan trọng đó.
Giảng viên Văn Hoá Vụ được trường biệt đãi cho ở ngoài phố trong một khu nhà 4 tầng, mỗi tầng khoảng 12 phòng. Khu nhà này trước là khách sạn Thuỷ Tiên II, giờ bị chính phủ trưng dụng thuê với giá rẻ mạt. Thuỷ Tiên I vẫn do chủ nhân điều hành. Hai khách sạn chỉ cách nhau khoảng trăm mét và cùng nằm trên đường đoàn Thị điểm.
Khi tôi đến thì Thuỷ Tiên II đã đầy và có nhiều Sĩ Quan giảng viên đang chờ phòng trống để dọn vàọ Tạm thời tôi được trường cấp cho cái giường nhỏ ngay tại trong khoa mình dạy, kế bên thư viện. Ăn uống có câu lạc bộ, còn tắm táp thì phải đi một khoảng cách xa mới có vòi nước nóng. Tôi đã quen tiện nghi trong KQ nên cảm thấy tù túng chật chộị Cái phòng trong khoa thì rộng nhưng có nhiều giảng viên ở chung. Tôi mang theo súng cá nhân P38, súng bắn hoả pháo cộng đạn dược lỉnh kỉnh nên nản chí. để lang bang rủi mất lúc về khổ với đám An Ninh KQ. Ngủ được một hôm, sáng hôm sau tôi bèn ôm hết khăn gói hành trang đón xe ra phố, bụng nghĩ phải lo cho xong chỗ ở vì tuần tới là bắt đầu công việc giảng dạy.
Ra phố tôi gởi hành trang nhà ông chú, em họ xa lắc xa lơ với ba tôi. Xong mượn xe gắn máy của ông chạy đến Cư Xá Vãng Lai (CXVL) Không Quân (KQ). Không hiểu ngành khác ra sao chứ KQ chúng tôi ở các thành phố lớn mà không có căn cứ thì đều có CXVL để cấp cho những quân nhân đi công tác đột xuất hay cho các phi hành đoàn vì lý do thời tiết hoặc phi cơ trục trặc máy móc không thể bay về căn cứ kịp trong ngàỵ Lúc đó, trưởng CXVL là Trung Uý Hà. Tôi biết Hà khi anh còn làm Trưởng Trạm Hàng Không (TTHK) Kontum. Lúc này anh đổi về làm TTHK đà Lạt kiêm quản lý cư xá. Xin nhắc thêm cho vui là trong quân chủng chúng tôi, chức Trưởng Trạm rất lớn quyền uy một cõi. Ai cần đi phi cơ quân sự mà quen với trạm trưởng là xong ngay. Không quen biết nhiều khi đợi chờ máy bay phờ râu luôn.
Anh Hà hơi lớn tuổi, khoá 27 Thủ đức, qua KQ học bay khu trục nhưng rớt vì lý do gì đó tôi không biết. Cao lớn, độ 1m75, rất đẹp traị Tánh tình hiền lành, dễ thương. Chúng tôi quen nhau vào một lần tôi ghé Kontum chơi. Sau đó mỗi bận anh về Pleiku đều ở chung trong cư xá SQ độc thân nên gặp nhau hoài. Thêm nữa nhà anh ở SG trong cư xá Kiến Thiết, trước nhà thờ Ba Chuông. Tôi thì ở sau nhà thờ nên có lần về phép gặp anh đưa bà mẹ đi ngang qua nhà, tôi đã mời vào chơi. Nói giông dài để quý vị biết là chúng tôi quen nhau đã lâu nên không có sự khách sáo nữa. Mọi việc xảy ra đều dựa trên sự thân tình.
Hôm đó đến gặp anh ngay. CXVL nằm trên đường đến Nha địa Dư, rẽ vào một con đường nhỏ, cụt. Trong cái ngõ đó có bốn biệt th Hai cái bên trái là của KQ. Hai cái bên phải thuộc về tư nhân. Mỗi biệt thự có nhiều phòng, tôi quên lửng nhưng chắc chắn phải hơn 5 phòng. Thấy tôi anh mừng rỡ chào đón. Rót nước trà mời uống và dẫn đi chung quanh cho xem mấy giò lan đang chăm sóc. Gặp cả bà mẹ và cô em út của anh cũng đang lên viếng thăm từ trước Tết. Sau tuần trà, tôi trình bày sự tình xin ở tạm rồi sẽ dọn qua Thuỷ Tiên hoặc mướn nhà ngoài phố.
Hà suy nghĩ một lúc rồi mới từ tốn trả lời. "Ở đây thì được nhưng giờ không tiện". Cái biệt thự anh ở thì gia đình anh chiếm hết tầng dưới, còn tầng trên đang cho một phi hành đoàn trực thăng biệt phái lái cho Thị Trưởng đà Lạt. Còn biệt thự kia thì anh nói thật. "Tầng dưới cho gia đình ông Thượng Sĩ trạm phó, còn tầng trên có ma. Giờ kẹt phòng, vài tuần nữa má và em anh về rồi hãy dọn vô ở với ảnh". Tôi trố mắt không tin hỏi lại. Anh không nói không rằng nắm tay kéo tôi qua căn nhà bên kia. Căn nhà xây theo lối thang lầu ở ngoài nên có đi lên xuống cũng không làm phiền người cư ngụ tầng dưới. Mở cửa phòng xong tôi ngại ngần không dám bước vô. Nền nhà trống trơn, chỉ có cái bàn nhỏ mà trên bàn có một bát nhang với mấy chân cây nhang màu đỏ sót lại. Mở cửa phòng kế bên cũng thế. Vô phòng Hà bật đèn chỉ cho tôi mấy cái lỗ nhỏ trên tường. Thấy mặt tôi ngơ ngác anh nói "đó là dấu đạn. Thằng Phước phi đoàn 229 ở Pleiku ngủ đây tháng trước bị ma bóp cổ nửa khuya nã hết sáu viên đạn vô tường". Ai khác tôi không biết chứ Phước thì tôi rành. Hồi ở Pleiku phòng tôi chỉ cách hắn có vài căn.
Nghe anh nói tôi không khỏi bàng hoàng. Giữa thế kỷ 20 mà có chuyện ma sao? Nhưng ngó mặt anh lúc đó tôi biết anh không đùa. Vả lại anh là người đứng đắn, đùa sao được khi thấy cái phòng trống trơn hoang lạnh như thế này. Nhìn dấu đạn rành rành trên tường với mấy cái bát nhang kia ai mà không dám tin. Từ biệt Hà tôi về, định bụng sẽ tìm gặp Phước để hỏi cho ra nguồn ngọn. Không khó, hôm nào dù về Phan Rang tôi sẽ bốc điện thoại gọi lên Pleiku tìm hắn, hoặc mỗi ngày đi ngang Thuỷ Tạ nếu có chiếc trực thăng nào đậu thì tôi sẽ hỏi thăm vì tôi biết mấy tên 229 trên chuyến bay về từ Sài Gòn hay ghé Cam Ly đổ xăng rồi ra đậu ở đây, rồi vào chợ mua quà hay tán đào xong cuối ngày là bay về Pleikụ Hầu như vài ngày là có phi cơ ghé ngang đây thôi.
Ra khỏi CXVL tôi chạy đến Thuỷ Tiên. Chỉ muốn đến xem cho biết vì rõ phòng ốc đã có người cư ngụ. Cũng để xem nơi đó có sạch sẽ hay không mà lo liệu xin xỏ, chứ bê bối quá thì tôi ra Chi Lăng mướn nhà để vô VB cho gần đến Thuỷ Tiên. Sau cổng chính, bên phải có phòng nhỏ không cửa, ngay giữa đặt một bàn bi dạ Các quan lớn bé đang chơi cười đùa ầm ĩ. Tôi bước vô tự giới thiệu mình sau khi chào đúng lễ nghi quân cách. Nghe tôi trình bày mục đích một ông Th/Tá Hải Quân nhìn mặt mữi bơ phờ của tôi có lẽ thấy tội nên mách nhỏ là có một phòng trống của đ/U Tr Ông Trứ vừa mua căn nhà ở Hai Bà Trưng nên căn phòng giờ đang để trống, xin ông ấy nhường lại mà ở tạm. Tôi hỏi thăm cách nào để gặp ông Trứ thì có một anh chàng nhanh nhẩu nói hôm nay ông ta đang dạy thêm ở Văn Học. Hết giờ dạy là có thể gặp được. Mừng quá tôi cảm ơn rối rít. Xong chạy ra phố ăn uống no nê rồi ghé trường trung học Văn Học.
Mọi việc xong xuôi một cách dễ dàng. Ngày hôm sau tôi dọn vô ở chung với gần 60 giảng viên của đủ mọi phân khoa. Mỗi tuần tôi phụ trách giảng bài chỉ hai ngày, còn 5 ngày kia rảnh rỗi tôi đi bộ ra Hoà Bình dạo chơi hay ghé thư viện trường đọc sách hoặc mượn sách về phòng. Mấy ngày đầu tôi phải đón xe lam hay quá giang xe của các sĩ quan khác vô trường. Khó khăn quá nên cuối tháng đó tôi xin về Sài Gòn đem xe Honda dame của tôi rạ Ngày nghỉ có xe tôi thường chạy ra bờ hồ xem có trực thăng ghé đậu hay không. Thỉnh thoảng cũng có nhưng không phải chiếc do Phước lái. Bẵng đi cũng gần 6 tháng. Bỗng một hôm từ trường VB về tôi thấy một chiếc trực thăng đang đậu. Như những lần trước tôi hỏi cậu lính gác là phi hành đoàn nào và ai lái. May quá Phước là phi công chánh chiếc đó. Mừng rỡ tôi chạy thẳng ra Hoà Bình và chợ Mới vì biết anh chàng lẩn quẩn vòng quanh đây chứ không xa. Chạy ngược xuôi độ mười phút tôi thấy Phước đang cặp kè với tên copilot ra vô ở cái hàng bán mứt mận. Sau phút mừng rỡ hỏi han tôi ngỏ ý mời hắn và bạn đi uống cà phê vì cà phê Tùng cũng gần đấy. Bỏ mặc anh chàng phi công phụ, Phước ngồi lên sau yên xe hối tôi rồ ga vút đi.
Ngồi ghế xong xuôi, trong lúc đợi hai ly cà phê dọn ra tôi vào đề ngay. Không một chút đắn đo, chàng kể :
"Cái bữa đó trời mưa tầm tã quâ định bụng bay đại về Pleiku nhưng ngại thời tiết xấu. Mày dân Khí Tượng chắc biết bay qua đèo Mang Yang mà mây mù kín mít thì khó sống". Tôi gật gù đồng ý. " Tụi tao 4 thằng, hai phi công và hai cơ phi xạ thủ, ghé CXVL xin ở lại ngủ nhờ. Còn tàu thì bỏ trong phi trường Cam Lỵ Gặp anh Hà, ảnh cũng lại hù tụi tao y chang như vậy. Rằng phòng đó có ma. Tụi 235, 118 thằng nào cũng đồn. Bữa truớc kẹt chẳng đã đám thằng Xuân ở 235 chen chúc nhau ngủ ở đô Nửa khuya có người giật cẳng hoài, thức dậy hỏi ra thì thằng nào cũng bị hết. Hoảng quá bèn chong đèn thức tới sáng. Mày biết tính tao, hơi đâu mà tao sợ, ma cỏ gì cũng ngán súng hết. Nên tao nói anh Hà là tụi này ngủ lại. Lúc đầu mấy thằng kia chịu ngủ với tao sau nghĩ lại teo quá rút dù đi ngủ khách sạn hết. Lỡ nói cứng nên tao đành tới luôn. Tối đó tao để đèn sáng để ngủ. Nằm trên giường nhìn cái vách trước mặt có ngọn đèn chói mắt nên tao đổi bộ, nằm ngược lại. Cẩn thận tao để súng dưới gối, đạn dược lên nòng đàng hoàng có gì là tao nổ. Nằm hoài hồi hộp không ngủ được, tao xếp tay dưới đầu suy nghĩ rồi thiếp đi lúc nào không haỵ Bỗng nhiên nửa chừng thức giấc vì cảm giác có ai đứng đàng sau đè ấn hai vai xuống, hai bên cổ như có hai cục nước đá xiết lại. Hai tay tê quá vì kê dưới đầu, muốn rút súng dưới gối mà không tài nào làm được. Muốn la nhưng miệng mở không ra tiếng. Chỉ còn hai chân cựa quậy thôi. Tao lấy chân đập đùng đùng xuống giường, một lát sau cảm thấy cổ lỏng dần. Tay hết tê tao mò ngay xuống gối móc súng ra chĩa ngược lên bóp cò liên tiếp. Tiếng súng nổ chát chúa vang dội cả cư xâ Mọi người ồn ào túa ra đứng dưới ngó lên. Tao thất kinh chạy ra khỏi phòng. Ngay lúc đó anh Hà chạy lên. Trong phòng còn dày đặc mùi thuốc súng. Xuống dưới lầu kể hết cho mọi người nghe. Rồi bữa đó ngồi thức cả đám tới sáng. Hôm sau kể lại cho phi hành đoàn tao nghe, thằng nào thằng nấy đều xanh mặt."
Trời đà Lạt lạnh mà tôi toát mồ hôi ra ướt áo. Kỳ lạ thật. Nửa tin nửa ngờ. Cái nhà ma chỉ cách phố mươi phút lái xe. Muốn kiểm thì cứ ra đó ngủ đêm là biết ngay. Nói vậy chứ tôi cũng sợ. Về sau tôi có ghé thăm anh Hà vài lần nữa, lần nào cũng nhìn về căn bên kia thấy rờn rợn làm sao.
Qua đây. Năm 80, nhà tôi có đi dự một buổi họp cựu học sinh Bùi Thị Xuân tổ chức ở quận Cam. Gặp lại một người bạn học cũ. Cô này đi vượt biên với anh Hà. Lúc đó hai người bồ bịch nhau nhưng sau này rã đám đường ai nấy đi. Sau đó tôi có mời anh đến nhà chơi nhiều lần. Một lần tôi nhắc lại chuyện ma và hỏi anh thật tình có hay không. Anh quả quyết là có. Sau này ma phá dữ hơn làm gia đình ông Thượng Sĩ trạm phó cũng chịu hết nổi phải dọn đi nơi khác. Bẵng đi vì sinh kế nên hơn 10 năm nay tôi không liên lạc với anh nữa, giờ không biết Hà ở đâu. Còn Phước sau 75 cũng sang Mỹ, định cư ở Houston, Texas. Anh chàng làm công việc lái trực thăng cho một hãng dầu.
Phú Lê