vhnt, số 222
30 August 1996
Trong số này:
thư vhnt.........................................................Sung Nguyễn
T h ơ :
1 - thơ Robert Frost .....................................Trần Thuyên dịch
- Nothing gold can stay / Nhân sinh rực rỡ nào lâu ...................
- Devotion / Chung thủy .......................Robert Frost / Trần Thuyên
2 - Nắng Sài Gòn ......................................Nguyễn Quốc Vinh
3 - Nhật ký biển ...............................Nguyễn Ðức Bạt Ngàn
4 - Thuyền về ...........................................Luân Hồ Triệu
5 - Qua cầu ..............................................................TTH
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
6 - Góp ý đề tài Phạm Thị Hoài và Trần Mạnh Hảo.....Sung Nguyen
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
7 - Tình đất ..............................Bessie Head / Trần Phú dịch
8 - Người mẹ ............................................Trần Hoài Thư
Thu Tản Mạn
Mùa Thu đang đến gần. Ngỗng trời đã ríu rít chuẩn bị di cư về phương Nam; Tôi chợt nhớ ông Yên Ðỗ, chạnh lòng hỏi đàn ngỗng nước nào ngang qua đây.
Cứ mỗi lần Thu đến, ở xứ Vạn Hồ này, y như rằng người ta lại bắt đầu những câu chuyện không đầu không đuôi về sự xếp đặt không hợp ý con người của thiên nhiên. Mùa Ðông thì băng tuyết dài lê thê, mùa Hè thì quá ngắn so với mùa Ðông. Riêng mùa Thu thoáng vụt qua, đã mất rồi, như bóng dáng vó câu vàng lướt qua cửa sổ.
Mùa Thu ở đây hiện diện trong khoảng hai tuần. Lá cây sau vườn nhà đã điểm những nét vàng, như những sợi tóc đổi màu đầu tiên của một người chưa đến tuổi già. Tôi chưa có chuẩn bị gì cho mùa Thu cả, nhưng muốn đọc lại những bài thơ Thu để buồn.
Mây mùa Thu bay hững hờ, tí hồn thi sĩ phiêu lãng tìm mây. Chẳng biết về nơi nao, tìm sự tiêu dao; mong chờ người như thuyền không bờ bến.
Một sáng. Chưa kịp có vần thơ cho mùa Thu, lá Thu đã phai màu , người về đâu có nghe sầu Ðông dâng đầy. Nhìn ngày tháng như bóng câu qua cửa, sợi thời gian nhuốm bạc mái đầu xanh khi cơn mơ không còn.
Một chiều. Chưa kịp có vần thơ cho mùa Thu, tình Thu tàn uá, đàn chim xa xứ nhói lòng cuối trời xa. Ta khép lại một trang đời, dong ruổi ra khơi. Lời nào gió thoảng, lời nào mây bay, làm sao ta bắt kịp. Chỉ vầng trăng ẩn hiện ngàn xưa.
Rồi mùa Thu sẽ qua đây
Viết thay cho Chị Lan
Sung Nguyen
thơ Robert Frost
Nothing Gold Can Stay
Nature's first green is gold,
Her hardest hue to hold.
Her eary leaf's a flower;
But only so an hour.
Then leaf subsides to leaf.
So Eden sank to grief,
So dawn goes down to daỵ
Nothing gold can stay.
Nhân Sinh Rực Rỡ Nào Lâu
Lá rực vàng trước khi xanh
Huy hoàng ấy nhạt phai nhanh.
Hoa là tiền thân của lá
Nở, tàn - trong mỗi sát na.
Diệp phong một chiều lá cuốn,
Ðịa đàng rơi lệ tiếc thương.
Bình minh theo ngày khuất dấu -
Nhân sinh rực rỡ nào lâu.
Devotion
The heart can think of no devotion
Greater than being shore to the ocean -
Holding the curve of one position,
Counting an endless repetition.
Chung Thủy
Như bờ biển nghìn năm cam phận
Với đại dương trọn kiếp chung thân,
Nghìn lớp sóng cong mình đón nhận -
Trái tim nầy chung thủy hiến dâng.
Trần Thuyên chuyển ngữ
cho L.
Nắng Sài Gòn
Trời Nữu Ước hôm nay nắng đỏ lửa.
Cỏ cây ủ dột, người vật mỏi mòn.
Mắt hoa lên, chợt nhớ nắng Sài Gòn.
Chạnh mối u hoài, lòng nghe chan chứa...
Nhớ chốn xưa bao chiều hè thiêu đốt,
dưới bóng xanh xào xạc những hàng me,
ta nhởn nhơ đánh bộ các vỉa hè,
vang tiếng cười vui tuổi thơ bồng bột.
Xoè bên đường rực rỡ hoa phượng đỏ
tán ửng hồng như xôi gấc mới đơm,
màu thân thương vui buồn tuổi học trò
thuở cắp sách tới lui theo hôm sớm.
Có hàng phố nghẹt người nghe hầm hập;
lưng chen vai đụng, mồ hôi đầm đề;
rảo bước chân, miệng chuyện trò tấp nập
như cảnh chùa tan hội lũ lượt về.
Cảnh chợ búa rộn ràng hơn nắc nẻ
dần im re khi nắng xế đỉnh trưa,
đó đây dăm ba bóng người lần lữa
cố lê la đấu láo góc hàng chế
Mỗi trưa hè ngõ nhỏ vang tiếng trẻ
túm năm tụm ba đánh đáo bắn bi,
la lối tưng bừng, cười đùa rầm rĩ,
mặc ai càu nhàu mắng chẳng thèm nghe.
Trong tán cây chim chuyền cành ra rả,
trĩu trên cành trái vui nổ mọng căng
bông gạo phơi phới bay sắc ngà ngà
theo gió đưa vật vờ trưa xóm nắng.
Tiếng trẻ bỗng chìm trong sân vắng về
Ðâu đây kẻ mất ngủ tiếng lè nhè.
Văng vẳng me ru con câu khe khể
Người say giấc theo tiếng muỗi vo ve.
Nơi cuối vườn thấp thoáng thân gái nhỏ
cặm cụi phơi đồ bên góc bờ rào.
Rồi nghe lênh láng váng nước đổ ào
tung toé ngoài sân mịt mù bụi đồ
Áo quần trên dây nhễu nhại chảy mỡ
Nắng chang chang, gió ngáp chẳng buồn lay.
Kẽo kẹt dưới hiên tiếng võng vơi đầy
quyện tiếng con mướp gừ gừ một xô
Uể oải rướn vai gầy ngáp vơ vẩn,
con vện nằm đầu nhà thở khò khè,
hếch mũi ngao ngán ngó bầy chim sẻ
tíu tít gọi ăn chiêm chiếp khắp sân.
Cá vàng thiu thiu ngo ngoe trong chậu.
Bướm bướm say hương thơ thẩn luống hoa.
Chuồn chuồn im cánh lập lờ hàng dậu.
Trưa nồng êm đềm trôi theo nắng nhòa.
Dàn trầu bà tắm nắng lim dim mắt,
mấy chậu hoa kiểng khát nước gục đầu,
luống rau xanh rủ lá mặt dàu dàu,
mỏi cổ mong mây về che nắng gắt.
Theo thanh lặng bóng dần ngả trời tây,
nắng tàn gọi gió chiều về nhẹ thổi.
Khi mây ngàn man mác về nẻo lối
ráng hồng còn le lói sắc hây hây.
Rồi những buổi chiều buồn ngồi tựa cửa
lắng tai nghe âm hưởng cua bầy ve;
xao xuyến tâm thần, thấy lòng lâng nhẹ,
ta thầm ca bản "Về Mái Nhà Xưa"...
Trời Nữu Ước hôm nay nắng đỏ lửa.
Nắng điên cuồng, nắng khô héo lòng ta,
như nắng kia đang thiêu đốt quê nhấ
Chạnh mối u hoài, lòng nghe chan chứa...
Nguyễn Quốc Vinh
(1988)
nhật ký biển
1
ta từng nghe tiếng khóc đầu tiên của trẻ chào đời
âm thanh ấy đưa mẹ cha vào hạnh phúc
mầm sống bùng lên thôi thúc
hân hoan chào đón cuộc đời vui
cũng như ta bao lần nghe tiếng nấc nổi trôi
của ly biệt thường tình cuộc sống
dẫu tàn lạnh nhưng còn hơi ấm
nối dài cho cuộc đời sau
2
nhưng có tiếng khóc nào oan nghiệt thương đau
đêm vượt thoát đụng đầu đen tối
biển thì lặng câm em thì đói
chập chùng
sợ hãi
mù tăm
một lũ thú mặt người ngốn ngáo vây quanh
cướp, hãm hiếp, tan tành, hăm hở
cướp hãm hiếp cuồng điên man rợ
3
em tự lòng mình đã chết tuổi hai mươi
là tự đời nhau
khô héo
nụ cười
tự buổi ra đi
nhà tan
nước mất
tự cuộc sống không còn sự thật
vững niềm tin em ơi
vẫn ngọn cờ quê hương trong lòng phất phới
giữ niềm tin ta bước tới
dù trái tim người còn đỏ thắm hay không
dù trái tim người đã phục sẵn gai chông
4
này ngọn gió ru dùm ta con sóng vỗ
này ngọn gió dỗ dùm ta cơn thịnh nộ
bát ngát một triều thanh âm
an bình nào đã trốn chạy từ tâm
thuở đất nước thanh bình ru em mới lớn
giờ rũ liệt cả mặt trời buổi sáng
hận thù nào dồn tụ giữa phong ba
vết tích nào hằn từ bão tố đêm qua
5
này giọt muối nuôi dùm em cừu hận
này giọt muối thu dùm em oan thù cùng tận
tự do đầu tiên
tự do thú vật giữa con người
cướp biển
bạo hành
súc vật
đi tìm tự do, chói lòa sự thật
sự thật
rùng mình
ghê tởm
hỡi năm châu
bài học bây giờ và cho cả mai sau
6
hãy bình tâm đi em dù còn lắm nỗi thương đau
đang chào đón con đường đi trước mắt
là hạt gạo cắn đôi đêm quê nhà se thắt
đất nước thống nhất rồi nhưng mãi ngăn chia
mẹ còn chong đèn tăm tối phương kia
cha và anh còng lưng rừng thẳm
giữa ngợi ca ngụy hình tội ác
hòa bình hạnh phúc muôn năm
7
đường ta đi còn mù mịt xa xăm
hỡi nhân loại mỏi mòn kia có biết
dẫu cách biệt quê nhà nhưng chưa hết
hẹn ngày về mưa gió sẽ tan đi
8
sao giữa lòng mình còn lắm nỗi phân ly
đêm hiu quạnh
đoạn lìa rồi
tổ quốc
ở lại đó ai còn ai mất
vọng hoài một ánh sao khuya
gươm thiêng mài trong mắt mẹ tự nghìn khuya
mất đất nước
con phải dành lại nước
triệu sinh mệnh họp thành ngọn đuốc
rực hồng lịch sử uy nghi
9
thôi từ nay em là bóng vạc thiên di
mang máu nóng của nghìn đời chim Lạc
hồn vẫn nuối núi sông
dù phiêu dạt
với tự do tỏa rộng vô cùng
nguyễn đức bạt ngàn
(Bình Minh Câm)
Thuyền về...
Thuyền về xếp lại nghìn trang vỡ
Cô đọng bài thơ, một tấm tình
Ðêm tàn, trăng, nước lung linh
Trả người dưới huyệt thuyền tình ngày xưa
Luân Hồ Triệu
Qua Cầu
Tôi nhặt áo qua cầu
Áo vá đụp vá nâu
Áo gá tình gá nghĩa
Tôi chỉ nhặt bài thơ dang dở
Cánh hoa xưa tan tác một màu
Gom góp mây trời vá lại
Một áo màu thanh thiên
Còn đó
Con thuyền...
Con thuyền sang ngang
Con cò trắng lạc lòng tìm lối
Bay qua sông trắng cả trời chiều
Mặt nước dập duềnh lục bình trôi nổi
Trôi cả chiều đi tim tím một màu
Chiều đợi chiều, lần lần lửa
Cánh hoa dầu rủ áo chạy đơn côi
Tôi lại qua cầu
Gá lại bài thơ dang dở
Gá tình, gá nghĩa, gá riêng ai.
1988
TTH
Thảo luận về Phạm Thị Hoài/Trần Mạnh Hảo -
Trao đổi to Vy Khanh và Trần Hoài Thư
Phần I:
[Cảm nghĩ cá nhân đối với PTH và văn chương của PTH]
Tôi đọc Thiên Sứ lâu rồi, dạo đó Thiên Sứ được đề cập đến khá nhiều. Cái cảm giác đầu tiên của tôi khi đọc Thiên Sứ là cái lạ và rất Tây của phong văn. Có nhiều cái lạ đến mức người đọc phải nghĩ đến sự khoe khoang vốn liếng văn học phương Tây của tác giả. Tôi có cái cảm giác như vậy. Thời bấy giờ, ít có nhà văn nào có tác phẩm xử dụng nhiều điễn tích văn học phương Tây, hay dùng chữ Tây nhiều như PTH. Sau đó thì người đọc nhàm đi với nhiều tác phẩm khác tương tự trên thị trường văn chương.
Trong Man Nương, tôi đã đọc Tiệm May Sài Gòn; hiển nhiên, tôi đã đọc văn của PThH rồi, nên không ngạc nhiên mấy ở lối thoại dùng nhiều tiếng chửi tục; tôi chỉ để ý cách thể hiện nhân vật và chiều sâu của một cây viết được nhiều người biết đến.
So sánh với những truyện ngắn khác của nhiều tác giả khác, truyện Tiệm May Sài Gòn của PTH đã cho thấy được cái bế tắc, đi vào chô phi lý hóa hiện thực của tác giả trong cách dựng truyện. Lúc đó, tôi nghĩ người bán bong bóng, bơm hàng trăm cái thế nào cũng có vài cái bơm ẩu tả, hay làm méo, hay làm bể đi; nhà văn cũng vậy, nhiều khi muốn nói cái ý của mình, nhưng nói không ra thành ngọng ngịu, thô kệch, hay đóng truyện lại cho mau xong...
[Ðọc bài phê bình Man-Nương của TMH]
Quả thật đây là một bài phê bình nặng ký cho tập chuyện Man Nương và tác giả PTH. Hình như, từ đó tới giờ, tôi chưa được đọc một bài phê bình như vậy bao giờ từ những nhà văn thơ, nhà phê bình trong nước.
Ðọc kỹ lại bài viết của TMH, tôi thấy ông ta rất nghiêm túc trong việc đánh giá tác phẩm Man Nương; tôi có thể tóm lược những lý do của tôi:
TMH có đọc, và đọc nhiều lần tác phẩm của PTH. Ðó là điều đáng quý; có nhiều người thích phê bình thiên hạ, nhưng chưa bao giờ đọc trọn tác phẩm của thiên hạ; hiểu thiên hạ Nên tôi nghĩ PTH sẽ rất bằng lòng với cách tiếp cận để phê bình của TMH. Tuy rằng những nhận định nặng nề cho PTH.
Khi phê bình, ông ta đưa ra từng mục hẳn hoi; chứng tỏ ông TMH đã quan tâm nhiều tới hiện tượng PTH, và hơn nữa, ông quan tâm tới một khuynh hướng mới trong văn học mà trong đó một thời đã có tác phẩm LyThân của chính ông ta. Và những mục ông đưa ra không chỉ là những cái riêng cho một ai cả, mà là tiếng nói chung của những người cầm bút: Viết cho cái gì hay Con người ta sống bằng gì?
Khi phê bình, người viết phải có một điểm tựa cho bài viết của mình. Muốn ngươi đọc hiểu bài viết của mình, phải cần có một điểm tựa của riêng mình không vay mượn, không ăn cắp cách tựa của người khác. TMH có làm được như vậy không? Chưa rõ ràng lắm, theo tôi, TMH có thể chưa xác định được đối tượng cho bài viết của ông. Phê bình cần phải có đối tượng. Và bài viết phải rõ ràng phân biệt rằng những câu văn dòng văn này là nói về tác phẩm, nhân vật của tác phẩm, hay nói về tác giả và phong cách của tác giả. Sự nhập nhằng của TMH không thoả mản hết những người đọc; đó là điều chắc chắn.
Tôi chưa đọc Man Nương, chưa đọc nhiều PTH, nên không muốn có một nhận xét mang tính cách phụ hoạ. Nhưng, bài viết của TMH đưa ra những điều làm cho tôi suy nghĩ. Suy nghĩ về văn chương, về phong văn, về nhà văn, về nhà phê bình và về người đọc của bài phê bình. Qua bài của TMH, tôi không thích những câu chữ, đối thoại không đẹp và tràn lan của ngòi bút PTH. Ở đây, không phải là vấn đề xử dụng ngôn ngữ mạnh dạn, bùng nổ, thực tế, trung thực... mà ở đây có thể là một thói quen xấu của người cầm bút, như là một người mở miệng là chửi thề. Tôi đã thấy nhiều người, cứ mỗi chữ nói ra là kèm theo mỗi tiếng chửi đệm; không đẹp tí nào. Nếu là nhà văn [VĂN có đồng nghĩa với đẹp không???] câu chữ cần chọn lựa hơn, ít nhất là cho mình, hay cho con cháu em út mình học hỏi thêm. Ðó là cái nhìn ở khía cạnh nhẹ nhàng, học trò của tôị Nhìn ở một góc khác, to lớn hơn, thực tế tiếng Việt, người Việt, cuộc sống Việt đã tệ đến như vậy sao? [Chắc có thể như vậy] và người viết phải can đảm moi móc ra, nói thẳng không bưng bít, che dấu...? Ðó là một lập luận chân chính.
Với lập luận đó, mà người viết không thể hiện được thành ra tác phẩm của họ bị phản tác dụng. Xin kể một câu chuyện thực tế; cả hai anh em đều rót nước cho mẹ; một người mong rằng mẹ sẽ uống đã khát sau cơn nắng hừng hực ngoài đồng; một người nghĩ rằng mọi người sẽ thấy rằng ta có hiếu, ta thương mẹ, và ta sẽ được khen, hay được mọi người để ý. Có một điểm chung, là người Mẹ sẽ rất hạnh phúc, và cả hai con đều hạnh phúc; nhưng cái Tâm của hai ly nước hoàn toàn khác nhau; khi người Mẹ còn khát một người con sẽ rót nước hoài cho Mẹ; khi người ta không khen mình, hay để ý mình nữa, thì người con kia sẽ không rót cho mẹ nữa. Tác phẩm và cách thể hiện của PTH cho người đọc thấy được PTH tựa như người con thứ hai vậy. Hy vọng PTH sẽ lên tiếng cho chính mình như người con thứ nhất.
Còn hai mục khác do TMH đưa ra, tôi chưa có những cảm nghĩ chủ quan nên chưa có ý kiến. Vì muốn có suy nghĩ khách quan trước hết phải chủ quan cái đã.
[Ðọc bài của anh Trần Hoài Thư]
Anh Thư thân mến,
Ở đây, anh ghi nhận cho những suy nghĩ của tôi, như một người đọc rất chủ quan.
Tôi chưa hẳn đồng ý với anh, khi viết bài phê bình phải biết chắc rằng "Ðúng hay là Không Ðúng" Thông thường, người ta nghe tới Phê Bình; là nghĩ tới điều không mấy hay ho. Quả thật, phê bình nhau trong cuộc sống trong những công việc hàng ngày; ta cần phải biết đúng hay là không đúng; nhưng trong văn chương, khi phê bình, người viết đưa ra những lập luận, và những bằng cớ là tác phẩm, là nhân vật, là lời văn... mong mõi của người phê bình là thuyết phục người đọc, thuyết phục bạn viết của mình. Với suy nghĩ như vậy, bài phê bình của TMH, tôi cho là một bài phê bình xuất sắc, có kỹ thuật.
TMH không biết những gì PTH viết là đúng hay là sai. Ðó mới là cái hay của bài phê bình. TMH cần nghe những suy nghĩ của độc giả như chúng ta. Tôi không thấy được qua bài phê bình trên, rằng TMH là "Một người cựu chiến binh luôn luôn tự hào với cái cuộc chiến tranh.. Một người đại diện tốt cho chế độ. Một nhà luân lý. Một người cha, người mẹ lo lắng cho tương lai con cháu."
Khi đọc tới đây, hẳn anh đã đọc đoạn viết trước của tôi. TMH đã đọc nhiều, và nghiêm túc trong bài viết của mình; anh chưa đọc Man Nương, (không biết anh đọc Thiên Sứ chưa !), nhưng anh nói đến cái sáng tạo can đảm, táo bạo, lạ, đậm nét... của PTH là anh nói theo câu văn, lời thoại trích của TMH.
Nói về xã hội Cộng Sản, "một thế giới u ám, bị bưng bít bằng dối trá, lừa gạt, bị vây bọc bởi những nhân danh mỵ ngữ láo khoét, không liêm sỉ, một xã hội xuống dốc từ luân lý tới đạo đức..." cho một tầng lớp nào đó, thì quả là không saị Nhưng anh nói chung về một xã hội có nhiều tầng lớp; thì anh nói không trúng, vì tôi biết có nhiều người, từ bậc chân tu, linh mục, giáo sư kẻ làm vườn, nhà thơ, nhà văn, học trố. sống trong xã hội đó và mơ ước công bằng,tự do hạnh phúc, đang bị quản thúc hay tù đày. Tôi trích từ những bài báo, câu chuyện tôi đã đọc, đã nghe lại; anh cũng vậy khi nói về xã hội đen tối kia.
Tôi đã đọc Ly Thân của TMH, một cốt chuyện bình thường hư cấu, như trong thời kỳ xả hơi của một số cây viết nỗi tiếng, như Nguyễn Huy Thiệp, Dương Thu Hương, Lê Lựu .. để rồi cũng bế tắc trong đề tài sáng tác. Còn Phan Thị Vàng Anh thì khác, tôi không đọc được cái nỗi loạn cái ngang ngược trong văn của Phan Thị Vàng Anh; ở PTVA tôi đọc được những nét tô rất đậm, rất sâu, rất đời... của một người viết trẻ, yêu đời, nhìn cuộc đời sâu sắc nhưng đằm thắm, day dứt nhưng tôn trọng; lối nắn rất hiện đại, nhanh chóng thu hút, không dài dòng xao lãng.
[Ðọc bài của anh Dũng]
Ðồng ý với cái nhìn của anh về khuynh hướng của người đọc ngoài nước; tuy nhiên, trong nước, người đọc cũng một thời thích như vậy. Tôi sẽ tìm đọc Man Nương, chắc khi nói về tác phẩm sẽ không bị chi phối bởi những nhận xét trung gian.
Tôi không nghĩ là chế độ CS nuôi nấng TMH thành tài (!) nhưng tôi chắc một điều, TMH là một trong những cây viết có hạng trên văn đàn trong nước. Còn nếu nói rằng binh vực cho vốn liếng chữ nghĩa nước nhà, thuần phong mỹ tục... là có tính Ðảng, là bảo vệ chế độ CS... thì tôi không đồng ý; vì đó là cái lo lắng chung, cái "hãi lành lạnh" về tâm đạo người cầm bút của tất cả mọi người.
[Cảm nghĩ theo vài ý của anh Phùng]
Văn chương là nói đến cái đẹp; không ai có thể phủ nhận được điều đô Nếu văn chương không đủ để vẻ được cái đẹp toàn diện, thì một nét đẹp trong từ ngữ, nét thật của con người, cái tâm của cây bút... cũng đủ chứng minh rằng văn chương là cái đẹp, hướng thiện, là sự thăng hoa của cuộc sống. Tất nhiên thực tế là nguồn sống vô tận cho người viết; dù vậy cách thể hiện thực tế sẽ nói lên được phong cách và phong độ của người viết.
Ha ha ha, khâm phục cách liên tưởng của anh Dũng Florida đó Biết đâu, TMH và PTH đang ngồi uống cafê nhâm nhi chuyện đời. Tôi nhớ chuyện Ngửi Văn đã được đọc lâu rồi, ôn cố tri tân vậy.
Nếu PTH viết, để bị hiểu như TMH đã nói," coi rẽ con người, coi thường người Việt..." thì PTH nên coi lại đứa con tinh thần của mình; cái này không thể nói là "Cha mẹ sinh con trời sinh tánh" được (!)
Phần II:
Gởi các anh chị:
Quả là đề tài ni hấp dẫn quá; nên trong vòng hai ngày thôi, othuoc đã đọc được nhiều ý kiếncủa các quạ khắp nơi. Tôi được mở rộng cái nhìn của mình hơn, nên muốn thấy được rốt ráo vấn đề.
Trước hết, may mắn là tôi không biết TMH là một đảng viên CS. Vì nếu biết như vậy, tôi chắc chắn đã bị chi phối bởi ý tưởng "Ông đảng viên viết bài phê bình" thì có gì để mà trao đổi. Nên, nhữngý trình bày của tôi coi TMH như một nhà văn thơ bình luận và phê phán một tác phẩm. Tôi cũng đã nói PTH có lẻ sẽ vui khi đọc bài củaTMH vì ít ra cũng có n gươi quan tâm đến đứa con tinhthần của mình. Dạo này ở trong nước, sách đại hạ giá hơi nhiều, kể cả Chiến Tranh và Hòa Bình của Leo Tolstoy cũng chỉ có vài ngàn đồng.
Trở lại vài vấn đề anh Phùng đưa ra để trao đổi.
[Gởi anh Vy Khanh]
Ðồng ý với anh về quan điểm "Văn dĩ tải đạo". Phần anh nói TMH là chức sắc, tôi nghĩ anh nói hơi nặng. Thực ra tôi không biết rõ con người TMH, nhưng qua LyThân, qua một số các bài thơ, qua bài phê bình PTH..., tôi nghĩ TMH sẽ rất đau khi nghe thiên hạ nói ông là một chức sắc đối với người cầm bút như vậy là nặng đòn. Tất nhiên tôi nghĩ TMH nên được đọc những bài viết cho ông như vậy; để thấy rõ mình hơn.
2. Tôi nghĩ TMH đã đọc chăm chỉ Man Nương của PTH; có lẽ sự lập đi lập lại của hàng chục lần những câu văn chửi tục, lập đi lập lại của nhiều tầng lớp nhân vật... nên ớn lạnh; rồi TMH phải đọc thêm nữa để viết vài dòng tha trôi nổi với đời, xem có ai đồng ý với ý kiến của mình không? Tôi nghĩ bây giờ, có nhiều bài như TMH đi nữa thì cũng chẳng nhiều người quan tâm đâu; cơm áo gạo tiền chi phối cuộc sống hàng ngày nhiều quá rồi (!)
Tôi không nghĩ là PTH có quyền mạ lỵ dù bất cứ ai, ở bất cứ thời điểm nào bằng ngòi bút của một người viết văn. Nếu PTH đọc dòng viết của anh, chắc cô cũng sẽ không đồng ý như vậy đâu. Còn chuyện mạ lỵ Phật Chúẳchẳng qua là chuyện vọng ngôn ở miệng đời; chớ không có viết thành sách vở ấn loát. Ông bà mình nói "Bút sa gà chết" nhà văn cũng biết như vậy. Viết ra một điều nào đó, là viết cho cả nhiều thế hệ người đọc.
3. Tôi chịu đọc thơ Hồ Xuân Hương, và rất cảm tình với nữ thi sĩ họ Hồ. Tuy TMH trích đoạn những mô tả những hoạt động sinh lý trong ManNương của PTH, tôi thấy thích không nổi, vì tôi thích tiếng Việt trong sáng, tròn trĩnh, thơ mộng... hơn là tiếng Việt bẩn đục, meo mó, dâm dục... Người viết là người có tự quyền cao nhất, muốn phơi bày, tô về..trên văn chương của mình bất cứ cái gì mình muốn. PTH đã chọn cách phô bày như vậy, chắc cô đã sẵn có câu trả lời tại sao (!) Chắc cô cũng không thích người đọc cho rằng tại vì quá uẩn ức, nên cô PTH phơi bày ráo trọi trên văn chương. Tuy nhiên cách phơi bày hơi xấu xí, tục tằn.
Anh Vy Khanh, xin anh giải thích thêm cho câu nói "Theo tôi đây cũng là một lối phản khán chống tập thể đạo đức giả, và là một tranh đấu cho nữ quyền..."
Thêm một ý nữa, anh cho rằng PTH đã đem lại cái mới, thiếu cho văn chương ở quê nhà Tôi không đồng ý với câu nói này ở hai điểm như sau:
Văn chương trong nước rất cần cái mới, và thiếu thốn nhiều chất liệu tự do dân chủ, về quyền của người cầm bút... nhưng văn chương nước nhà chưa hẳn là cần cách xử dụng câu chữ, đối thoại tục tằn quá đáng của PTH.
Nếu có ai đó đồng ý với anh, thì văn chương hải ngoại cũng cần phải viết thoại tục tằn; lối phơi bày dục tính của Man Nương để thấy được mới, được đầy đủ hay sao? Tại vì tôi chưa đọc tác phẩm, truyện ngắn nào ở hải ngoại "độc đáo" như cách viết của PTH.
Sung Nguyen
Người Mẹ
Ðã rất lâu không gặp mẹ tôi. Tôi thầm thì với chính tôi khi người con gái cài lên ngực áo tôi một chiếc hoa hồng. Tôi nói, buồn so. Cám ơn cô. Thưa ông, ông còn mẹ không? Vâng. Tôi còn mẹ. Như vậy ông là một người hạnh phúc. Lời cô gái rập khuôn theo bài thơ. Ðóa hoa màu hồng vừa cài trên áo... Vâng, đoá hoa màu hồng vừa cài trên áo tôi đây. Có nghĩa là mẹ tôi vẫn còn sống. Và có nghĩa là tôi là người hạnh phúc. Không, lúc này là lúc tôi thèm một mình vào một quán rượu, để gọi một chai bia, một cốc rượu. Lúc này là lúc tôi muốn ẩn tránh mọi người.
Tôi mang tấm hình mẹ tôi, lên xe, tìm một góc quán, kêu chai Bud và khóc. Mẹ tôi đây. Ðôi mắt vẫn như còn hằn những tia gân xanh xanh, đỏ đỏ. Buổi chiều sậm trên mái ngói. Lũ bồ câu đã bỏ bãi đậu xe, bay lên nóc chợ siêu thị. Dòng Hudson như thể thiếp ngủ dưới ánh hoàng hôn. Ðàn chim biển cánh sậm như không chịu bay, trên sông. Tôi nhìn tấm hình. Má. Tôi thầm thì. Má. Tôi nhìn đôi mắt. Ðôi mắt vẫn một màu lạnh căm, xám chì. Tôi lắc đầu. Có phải từ đôi mắt kia, một thời đã từng làm tôi sợ đến độ phải run bần bật, mà nước đái muốn chảy ra cả quần. Có phải từ đôi mắt kia, đã ánh lên một nỗi dịu dàng vô tả, đau khổ vô tả khi bà rọi cây đèn bão lên cả thân thể tôi để tìm xem những vết bầm rịn máu, những lằn roi đỏ tươi, để xức dầu, xức muối. Bà đã đập tôi như thế đó. Nhưng bà cũng thương tôi như thế đô Bà đã bạt tai vào má, vào mũi tôi khiến máu cam tôi phải tràn ra cả cốc, nhưng bà cũng đã khóc với tôi để nói: "Thấy con đau má cũng khổ lắm, con biết không?". Trời ơi. Chẳng thà tôi được vất vào một xó trong cô nhi viện, chẳng biết mẹ, cha, thì đỡ khổ cho tôi biết dường nào. Tôi nói thầm má, mẹ của con. Tôi nói và một mình tôi nghe cái tiếng từ lâu tôi chẳng bao giờ nói.
Như vậy lâu thật là lâu tôi xa mẹ tôi. Người ta bảo thời gian là liều thuốc mầu nhiệm để xoa dịu vết thương. Nhưng đối với tôi, lúc này, vết thương vẫn còn mưng mũ. Không phải tôi là một đứa con bất hiếu, vô tâm. Bằng cớ, tôi đang nốc vào từng cốc rượu. Bằng cớ tôi đang gọi lại một tiếng mà từ lâu tôi đã không hề gọi. Mắt tôi đã mờ trên dòng sông đỏ máu. Bên trời nào. Tôi không biết mẹ tôi sống chết thế nào. Bà đã không tha thiết gì với con của bà, thì tại sao tôi lại tha thiết chứ. Gần ba mươi năm, bà chỉ gửi cho tôi một lá thư và chỉ một lá thư duy nhất khi tôi ở Mỹ này. Với lời than não nuột: "Dượng của con chết rồi", kèm theo tấm hình mới nhất của bà.
Bà không biết tôi đau đớn đến mức nào không. Bà không biết tôi đâu có liên hệ gì đến cái người đàn ông mà tôi gọi là Dượng. Tôi đã có ba tôi, người mà bà bỏ đi đành đoạn. Tôi đã đứng hẵn bên này hàng ngũ, nép dưới bóng ba từ cái tuổi biết được thế nào là cái bất hạnh của một đứa con có mẹ bỏ bê vì tiếng gọi của tình yêu. Thì ra, đọan cuối của một câu truyện. Cái gút mắc của một thảm kịch. "Dượng của con đã chết rồi". Câu than oán của bà đâu có làm tim tôi thổn thức. Cái chết của người đàn ông của bà đâu có làm tôi phải đến chùa làm lể cầu siêu, vào nhà thờ làm lể cầu hồn. Mà ngược lại, tôi càng hiểu hơn về trái tim của bấ Hoàn cảnh, chiến tranh, loạn lạc... Ðôi lần tôi đã viện dẫn hoàn cảnh để biện minh cho việc làm của bà. Cũng như Thúy Kiều bôn ba lận đận cũng vì một đưa đẩy của định mệnh, khởi nguồn từ việc thân phụ của nàng bị bắt như những nhà phê bình phân tích. Tại chiến tranh. Tại định mệnh. Tại số phận. Nhưng rõ ràng, là không phải vậy. Ðã có biết bao người phụ nữ chung thủy, tiết hạnh. Ðã có bao nhiêu người đàn bà can đảm, trung trinh. Chỉ có mẹ tôi. Bà chỉ là một người đàn bà tầm thường hơn tất cả mọi người đàn bà tầm thường. Bà bỏ bê gia đình, con cái. Bà sa ngã theo mắt môi đàn ông trong khi ba tôi thủy chung với bà. Bà. Tôi lắc đầu, uống nốc hơi rượu. Rượu đắng hay cổ tôi đắng. Tôi nhắm mắt lại. Ừ, Tôi không thể chấp trách bà được. Mỗi người đều có một cõi đời riêng. Họ phải sống cho họ trước hết. Họ có quyền ly thân, ly dị, tàn nhẫn với chồng, bỏ bê con cái. Họ có quyền hưởng thụ điều mà họ gọi là hạnh phúc. Tôi đâu có quyền trách ai. Bà cũng là con người. Bà cũng biết yêu, và nương nhờ vào tình yêu để mà sống. Ðáng lẽ tôi phải chúc mừng bà , về tình yêu bất diệt của bà. Con người có một thời để yêu và một thời để chết. Có phải vậy không?
Quán rượu hiu hắt. Duới kia, còn có bãi hoang, phủ cỏ dại. Mấy khúc đường sắt trơ vơ như một dấu tích lạc loài buồn bã giữa một xã hội văn minh kỹ thuật. Một vài toa tàu bỏ hoang, xiêu vẹo, cũ sét nổi lên giữa những lùm cây cao quá đầu người. Tôi lại nhớ đến chân đèo Rù Rì. Ngày xưa, tôi hay nhìn xuống đèo, giữa bãi hoa hướng dương vàng thắm, và cỏ xanh rì, vài chiếc toa sắt bỏ hoang xiêu đổ bên con đường rầy bị phủ bởi cỏ dại. Ngày xưa, tôi chưa bao giờ đặt một câu hỏi về tại sao tôi lại không có ba, nhưng cứ mỗi lần nhìn khúc đường sắt là dường như tôi muốn bật khóc. Tuổi thơ của tôi tội nghiệp như thế đó.
Người đàn bà ấy bồng đứa con, mái tóc buông ra rũ rượi, hàng khuy nút bật tung, thấy lộ cặp vú chảy và cả những đường gân xanh. Tiếng la gào của bà cùng với tiếng khóc thét của con bé. Khóc. Mắt con bé cứ nhắm lại, rồi lại mở ra theo từng nỗi vật vã điên cuồng của bấ "Cứ cán tôi đi. Cứ giết mẹ con tôi đi. Cứ hành cứ hạ mẹ con tôi đi cho thỏa mãn lòng dạ các người". Rồi bà lại nhào dưới bánh trước của chiếc xe vận tải, nằm ụ trước sân nhà. Cả xóm kinh động. Cả khu vang dậy lời tru gào. Con chó nhà anh Sơn tru lên. Ðám người càng lúc càng đổ xô về. Ðám con nít vổ tay. Ðám người lớn bu quanh sân. "Chị Ba thôi đứng dậy đi. Làm như vậy người ta cười chết". Bác Sơn gái cúi đầu đỡ người đàn bà dậy. "Ðừng đụng vào tôi. Ðể tôi chết dưới bánh xe. Ðể các người vui mừng hả dạ" "Thôi chị Ba vào trong nhà đi. Chị xem con Ty của chị, răng nó nghiến lại, cả người nó run cầm cập kia kìa". Rồi bác Sơ lôi người đàn bấ Người đàn bà vùng vẫy. Da mặt bà tái mét. Ðám con nít lại vỗ tay. Con bé lại khóc thét. Bỗng nhiên người đàn bà nhìn thấy thằng nhỏ đứng ở góc sân. Bà lại thét lên: " Tao giết mày". Rồi bà vất con bé xuống đất, đuổi theo thằng nhồ "Tao giết mày. Tao giết mày". Nhưng thằng nhỏ đã bỏ chạy. Hai chân khẳng khiu của nó chạy băng băng trên bờ ruộng rau muống, đôi khi bất kể giữa đám rau xanh còn đọng nước mưa. Chiều mờ tối trên đồng rau bạt ngàn. Người đàn bà lảo đảo. Bà vừa thở hổn hển, vừa tiếp tục "Tao giết mày". Bóng thằng nhỏ biến mất trên cánh đồng rau. Khi đến khu Trường Tàu, nó dừng lại, như con chó bị đuổi sau một chặng đường dài, quay lại thở dốc. Nhìn lại đằng sau: Xóm ẩn dưới những hàng dừa, lùm tre. Căn nhà ngói là nhà Cầm. Vườn mía cũng là vườn miá nhà Cầm. Cây mít độc nhất cũng là của nhà Cầm. Nó ghét cả xóm. Nó thù mọi người, ngoại trừ căn nhà ấy. Cầm ơi, tao sợ phải trở lại cùng căn nhà dưới dốc. Tao sợ phải nhìn những con mắt đỏ ngầu của những người đàn bà dưới ấy. Tao sợ cả người mà tao kêu là má, là mẹ. Bà đã mất trí rồi. Chỉ có mày. Mỗi một mình mày là đứa bạn của tao. Tao chắc chắn phải bỏ đi, nhưng tao không thể bỏ mày. Bỏ mày tao buồn lắm. Thằng nhỏ nhắm khẻ đôi mắt. Nó nghĩ mình sẽ phải khóc khi xa con bê Nó cứ nhớ hoài đến chiếc lúm đồng tiền, và đôi mắt long lanh dưới ánh trăng. Nó cứ nhớ hoài đến những đêm trong vườn mía khi con bé thầm thì tụi mình chơi trò chơi vợ chồng đi. Trò chơi vợ chồng tao không biết. Nó lắc đầu. Con bé tỏ vẻ thành thạo. Này mày ôm tao, tao ôm mày. Mày hôn lên má tao. Tao hôn lên má mày. Rồi mày sẽ hái bông cúc, vạn thọ, bông trang tặng tao. Rồi tao sẽ nhận lại. Chừng nào tao gật đầu, tao sẽ làm vợ của mày. Ờ, Cầm ơi, tao đã đi hái bông trang, bông cúc, vạn thọ. Cả bông bưởi, bông lài nữa. Bông bưởi bông lài thơm lắm, chắc mày sẽ thích. Tao sẽ cài lên mái tóc của mày như mấy cô dâu. Có điều, tao bị lảo già Tám giữ vườn bắt gặp, lảo lấy gậy thọc lên, khiến tao sợ phải ôm cả nhánh bông mà nhảy đại xuống hồ rau muống. Thằng nhỏ nghĩ đến những nhánh bông mà nó đã dấu sẵn trong vườn mía, một đêm, rồi hai đêm, rồi trăm ngàn vạn đêm, không ai chăm sóc, lòng đâm buồn muốn quay trở lại. Nhưng trở lại để làm gì khi nó là một con chó ghẻ, một thằng ôn dịch trời đánh mà những người đàn bà trong căn nhà âm u ấy đã chửi rủa, hay một thằng con không cha như lời chế nhạo của lủ trẻ hàng xóm. Còn mẹ nó nữa. Bà đã mất trí rồi. Bà sẽ tát vào lổ mủi nó. Và nó sẽ để từng giòng máu cam chảy xối xả. Rồi bà sẽ hét lên: Mày không biết phận mày lại đi chọc con người. Ðể người ta chửi lên đầu mẹ mày. Mày không biết con người ta là con vàng con ngọc. Còn mày chỉ là con chó ghề.. Như vậy làm sao nó lại đủ can đảm để bước chân trở lại.
Và nó đi. Ði đâu giữa một Nha Trang đóng cửa. Ði đâu lúc bầu trời đầy sao chi chít. Ði đâu khi rạp xi nê Tân Tiến, Tân Tân đã đóng cửa.Tuổi thơ của nó đã gắn chặc vào từng thước đất, thước đường, vĩa hè của thành phố. Nó đã biết rõ cây me nào ở nhà ga sai trái, hay nhánh cây muồng nào ờ ngoài bờ thành Sân Vận Ðộng để nó có thể trèo lên mà ngồi vắt vẻo nhìn xuống sân đấu. Nó đã biết rõ nhà nào có con chó berger hung dử cũng như nhà hàng nào có nhiều bao thuốc Lạc Ðà, Cotab, hay nắp ken xanh xanh đỏ đỏ. Và cả máu của nó cũng đã thấm vào đất cát của Nha Trang lúc nó bắt đầu tập đi xe đạp. Nhưng bây giờ Nha Trang đã bỏ rơi nô Lạnh lùng và tàn nhẫn.
Như vậy nó chỉ còn một chỗ cuối cùng là về lại biển. Bởi biển thì quá bao dung. Bởi bãi cát thì êm, và trời thì sao chi chít để nó có thể nằm lên cát, nhìn sao mà tủi thân. Chắc chắn trên muôn ngàn vì sao, càng lúc càng sáng, càng lúc càng lung linh, để nó có thể tìm được một bà tiên dịu hiền, khóc dùm nó, an ủi dùm nó. Chắc chắn sóng biển vọng về muôn ngàn lời êm ái, cùng với gió xôn xao hàng bàng, hàng dương, để ru nó vào giấc ngũ. Và nó nằm ở đấy, co quắp. Không mền, không gối. Từ đấy, nó nhập bọn cùng đám trẻ đánh giày của thành phố. Nó bắt đầu làm quen với bàn chải, si ra, cũng như mánh lới để chùi đánh làm sao cho bóng loáng. Nó yêu lũ bạn, bởi chúng có cùng chung cảnh ngộ. Ða số là mồ côi. Chỉ có vài đứa bỏ đi hoang vì không chịu nỗi cành dì ghẻ con chồng. Chỉ có một mình nó là đặc biệt nhất. Tao là con riêng. Nó nói. Con riêng là con gì? Nó giải thích. Là con không cha. Bộ cha mày chết rồi phải không? Tôi gật đầu. Mẹ tao nói thế. Như vậy mày còn có mẹ là nhất rồi. Nó nhún vai: Bả mất trí rồi. Bả làm vợ hầu, ai cũng hành hạ bả. Trong nhà bả làm tôi mọi để chồng bả đi uống rượu, bà lớn lên đồng lên bóng. Mấy đưá con bà lớn hành hạ tao. Rồi bả đập tao, bả đòi giết tao...
Bọn trẻ đã truyền nghề cho nó thật tình. Nó bắt đầu biết đời. Nó la cà các quán nhảy, nhìn những vũ nữ son phấn quần áo hở hang ôm sát những thằng Lê Dương, rồi đến bàn nước không cần hỏi trước, sà xuống chiếc giày Tây. Thường thường đám lính Tây dễ dãi. Họ vỗ đầu nó. Merci merci. Sau đó họ thưởng tiền. Nó chụp những tờ bạc đầu tiên trong đời với tất cả hãnh diện. Có khi nó lê la đến nhà điếm. Mắt nó làm quen với những mời mọc, hôn hít hoặc la rú đùa cợt. Những người đàn bà ngồi trong lòng lính Tây, bên những chai rượu, gói thuốc lá. Nó ngồi xuống, kéo chiếc giày để lên trên bục gổ, tiếp tục lau, tiếp tục chùi. Có thằng Tây thương cho nhiều tiền thưởng. Có thằng rút chân lại, lắc đầu đuổi nó đi.
Con người nó bây giờ quá phong trần. Nó tập hút thuốc. Cánh tay nó xâm hàng chử Tình đời đen bạc. Ban ngày nó và lũ bạn rũ nhau về chợ Ðầm tìm những mang cá hoặc miếng thịt vất thừa, cột đùm vào dưới thân tre để cắm xuống đáy biển. Cứ khoảng mười lăm phút, cả bọn cùng nhau lặn xuống đáy, mò tóm những con khúm núm vô tội. Sau đó, cả bọn cùng nhau vùng vẫy, nhào lặn, đập nước ầm ầm, và tiếng la, tiếng gọi như làm vỡ cả lồng ngực, cùng cả buổi trưa bãi biển. Nó không còn nhớ gì đến căn nhà dưới con dốc gần Trường Tàu ấy nữa. Nó không còn bị ám ảnh bởi những con mắt ngầu đỏ ấy nữa. Nó cũng chẳng còn thì giờ để còn nhớ đến chùm bông đã bỏ dấu trong vườn mía và cả cô bạn nhỏ với đôi mắt đen lay láy hôm qua ấy nữa. Với nó bây giờ là cuộc vui vô tận, và bàn chân của tuổi thơ cứ tiếp tục dẫm lên từng vuông đất và cát của Nha Trang, để sau này, nó hiểu rõ hơn về một quê hương, dù quê hương không dung dưỡng nó.
Một đêm mưa bão đã đuổi nó chạy băng băng giữa lòng thành phố tối đặc, rách toẹt những lằn chớp sáng loè, cùng những tràng sấm ầm ầm kinh động. Nó nhào vào hàng hiên của một ngôi nhà thờ Tin Lành để tìm chỗ ẫn. Quần áo ướt dầm dề. Nó vừa vuốt mặt, vừa run cầm cập. Nó cảm thấy choáng váng. Nó gục xuống trên nền xi măng trước cửa chính của nhà thờ và hôn mê.
Nó là tôi, hay tôi là nó. Thì cũng coi nó như một phần đời của tôi hôm qua đi. Có điều, chính cái đêm ấy là một đêm cho tôi hiểu thế nào là cái bất hạnh nhất của một đời người: Cái bất hạnh là một đứa con có mẹ mà như không, có cha mà như mất. Tôi đã tỉnh dậy trong căn phòng khách của ông giáo sĩ người Gia nả Ðại, ngơ ngác nhìn cô bé tóc vàng, thắt nơ màu hồng, ôm con búp bê. Tôi cũng đã thấy vợ chồng ông mục sư nhìn tôi lo lắng. Nỗi ấm cúng quá đỗi dịu dàng làm tôi phải tủi thân. Phải. Nó hay tôi. Thì tôi đây. Tôi đang kể về nó đây. Ông mục sư nói tiếng Việt rất giỏi. Ông hỏi về gia đình tôi. Tôi nói tôi có mẹ. Tại sao em lại không về với mẹ? Tôi nói là tôi không dám trở lại căn nhà địa ngục. Người ta coi tôi như một con chó ghẻ. Ngay cả má tôi cũng không hề thương xót tôi. Còn cha em ở đâu? Tôi nói tôi không có cha. Má luôn luôn dặn tôi hễ ai hỏi cha con đâu thì nói cha con chết rồi nghe không? Tôi nghe tiếng bà mục sư thở dài. Tội nghiệp cho em. Vậy em có muốn ở lại đây với chúng tôi hay không? Chúng tôi sẽ dạy dỗ em. Em sẽ có bạn bè. Em sẽ được Chúa yêu thương đùm bọc em. Tôi hỏi Chúa ở đâu. Ông mục sư trả lời Chúa ở khắp cả thế gian. Tôi lại hỏi thế gian là gì. Thế gian là nơi chúng ta đang sống, hưởng tất cả ân phước của Chúa. Tôi đã cắn môi để khỏi bật khóc. Tôi nhìn ông bà mục sư tốt bụng. Tôi nhìn cô bé tóc vàng. Trong ánh điện căn nhà trở nên ấm cúng, mặc dù những chớp sáng loé lên trong bóng đêm ngoài khung cửa kính. Tại sao lại có sự bất công như thế này. Tại sao giờ này có triệu triệu đứa bé được vỗ về, nưng niu chiều chuộng, lại có đứa bé như tôi. Ông mục sư nhìn tôi trìu mến. Ta biết có những điều con không thể hiểu. Ta chỉ muốn hỏi con. Con muốn có bạn không. Tôi nói con đã có rất nhiều bạn. Lũ bạn đánh giày trong thành phố. Ông hỏi thêm: Con muốn đi học không? Tôi lắc đầu. Tôi liên tưởng ngay đến ông thầy nghiêm khắc mà mỗi ngày tôi thấy ở gần rạp xi nê Tân Tiến, mang cặp kính lão, và những đứa bé đồng tuổi , quì trên những võ xơ mít. Ánh mắt của chúng trông tội nghiệp làm sao. Hình như chúng ao ước được như tôi hay ganh tị cùng tôi cũng nên. Bởi vậy tôi đã thẳng thừng từ chối. Thế em muốn ta giúp em gì bây giờ? Tôi nói với ông: Xin ông bà cứu dùm mẹ con. Mẹ con quá khổ. Mẹ làm tôi mọi, nhưng người ta vẫn tiếp tục hành hạ bà. Trong trí óc thơ dại của tôi, tôi làm sao hiểu được tại sao mẹ tôi lại có mặt trong cái căn nhà địa ngục ấy. Cũng như tại sao tôi lại trở thành một con chó ghẽ phải bỏ nhà mà đi hoang. Phải, mẹ tôi đã quá khổ, và vẫn tiếp tục mang theo gánh khổ. Như những buổi sáng sớm gánh hai thúng chuối,cam, bưởi, và thỉnh thoãng vài cặp gà ra chợ đầm để bán, và chiều lại không quên mang về lít rượu trắng cho dượng. Như những ngày bà bị hành hạ tra tấn trong nhà lao Tây vì tội bán thuốc Tây cho kháng chiến, sau khi cơ nghiệp của đượng bị khánh kiệt. (Nào ai biết hôm nay bà trở thành một nữ anh hùng, với bao bằng ban khen treo đầy nhà). Trong nhà, bấy giờ, bà là một kẻ cuối cùng, và độc nhất làm ra tiền, để cung cấp những bửa cơm bốc khói cho cả nhà. Bà điên cuồng chơi hụi, giựt hụi. Bà lại tiếp tục đẻ con. Bà bỏ guốc, dép, đi chân đất, lam lũ từ sáng sớm tinh sương đến nửa đêm. Bà tiếp tục la gào tru tréo. Tiếng của bà u uất nghèn nghẹn trong đêm, khi thì lọt ra khỏi căn nhà bếp bay đến các nhà hàng xóm, khi thì khan giọng và bà tiếp tục kể lể, nói với bốn vách tường. Khi ấy, tôi chỉ biết cúi đầu. Tôi khổ, nhưng bà còn khổ gấp ngàn lần tôi. Vì sao? Tại sao bà lại không chịu thoát khỏi cái địa ngục này. Tôi giận bà, thương bà, ghét bà. Tại sao? Tôi cầu cứu ông bà mục sư. Tôi van xin ông bà mục sư...
Sau đêm hôm ấy, có những biến cố mới xãy đến với đời tôi. Vợ chồng ông mục sư tìm đến nhà mẹ, ngõ ý muốn nhận tôi vào cô nhi viện để nuôi dưỡng và dạy dổ. Mẹ tôi đồng ý. Thế là tôi bị đẩy vào trong cái thế giới của những đứa bé bất hạnh. Tôi được người đời phong cho hai chữ mới là cô nhi, mặc dù tôi vẫn còn mẹ. Tôi được phát đồng phục, được dạy kinh thánh, được nhắm mắt cầu nguyện trước mỗi buổi học, giờ cơm, giờ ngủ. Tôi lớn lên bằng nỗi thương hại của loài người. Cứ mỗi lần có phái đoàn ngoại quốc đến thăm là chúng tôi có thật nhiều đồ chơi và quần áo. Họ vuốt tóc chúng tôi. Họ nhìn chúng tôi đứng giữa phòng sắp hàng hát: "Mến yêu Giê Su đêm ngày. Lòng con càng yêu thiết tha" hay "Học sinh hỡi Bết Lê Hem, trường yêu dấu chốn biển nuí bên đồi xanh... Học sinh hỡi Bết Lê Hem, tại nơi này bao ý thơ đang nở hoa...", giữa tiếng dạo đàn dương cầm của cô giáo chúng tôi. Họ nói với chúng tôi về tình yêu của Chúa. Tôi nghe hoài nghe mãi tên Chúa, đến nỗi ứa cả nước mắt trong lời thầm thì mỗi đêm. Tôi trốn ra khỏi cô nhi viện, chạy xuống bờ biển Hòn Chồng, và khóc, nghĩ rằng, Chúa sẽ đến với tôi, thương tôi hơn bất cứ đứa bé nào khác. Tôi gọi xin Ngài cứu lấy mẹ tôi. Trời ơi, ngày xưa bà đẹp, lại biết cả chữ Tây nữa, lại hát thật hay nữa. Nhưng bây giờ bà chẳng khác một người ở đợ. Còn hơn người ở đợ nữa. Bà càng lúc càng kiệt lực trong khi đượng thì vô công rồi nghề tìm quên trong men rượu và hai bà vợ lớn của dượng thì suốt ngày soi móc hết mẹ tôi rồi đến tôi. Còn mẹ tôi, cứ mỗi lần nghe hai bà than phiền về tôi, không cần biết nguyên do, lôi tôi ra mà đập túi bụi. Bà đập tôi để thoả mãn tự ái. Bà dùng tôi để trút hết cơn phẩn nộ, số phận thấp hèn, và bất công của bà. Bà cột hai tay tôi cùng cột đu để phơi nắng. Bà đuổi tôi dài dài, dùng đòn gánh... May mà có ông bà giáo sĩ đến với tôi kịp thời. Hay may mà có Chúa ra tay cứu độ thằng bé này đúng lúc. Hay tiếng thầm thì cầu nguyện của tôi đã được một Ðấng Quyền Năng lắng nghe. Bởi vì, cuối cùng người cha mà mẹ bắt tôi nói là chết vẫn còn sống. Người đàn ông mà bà đã phụ bạc vẫn còn hiện diện. Ðể cứu lấy tôi, ôm lấy tôi trên phi trường sau khi bắt được tông tích của thằng con người, dắt tôi đi như con gà trống ốm dẫn bầy con... Mẹ, má... Lòng tôi ngỗn ngang những tình cảm trái ngược. Khi thì giận bà. Khi thì thương hại bà. Khi thì xem bà không phải là mẹ. Khi thì kêu má như tiếng thầm thì trong những lúc yếu đuối nhất.
Như hôm nay, ngày Vu Lan, ngày bông hồng cài áo. Lá thư và lời than não nùng "Dượng con đã chết rồi" đã làm tôi ý thức một điều. Con người có một thời để yêu và một thời để chết. Riêng mẹ tôi thì hơn thế nữa. Bà đã dám sống cho tình yêu và chết cho tình yêu. Rằng tình yêu chính là lẽ sống. Vâng, thưa má, bây giờ con đã hiểu má. Con hiểu con tim của má. Con không trách má đâu. Bởi vì má có đời riêng của má. Và con thì cũng có đời riêng của con. Nhờ má mà con càng thấm thía thế nào là thân phận của một đứa bé không được may mắn. Nhờ má mà con biết rằng làm một đứa con không mẹ quả là đau khổ đã đành, nhưng làm một đứa con có mẹ nhưng coi như không có, thì đau đớn biết chừng nào. Con đang cố gắng giữ gìn. Con không dám nhìn thêm một lần những giọt nước mắt của con của con.
Vâng, người lớn đôi khi vị kỹ lắm. Họ muốn tìm hạnh phúc riêng cho họ. Chỉ tội nghiệp đứa bé trong cuộc. Bởi nó sẽ mang theo trái cay đắng suốt cả cuộc đời.
Trần Hoài Thư
NJ 19/8/96