vhnt, số 234
7 October 1996
Trong số này:
thư vhnt..................................................................PCL
T h ơ :
1 - Dạo khúc ...........................................Nguyễn Quang Tấn
2 - Lỗi hẹn cùng ca dao .....................................Thanh Nguyên
3 - Dấu đá hằn .................................Nguyễn Hiện Nghiệp
4 - Hoài niệm ............................................Trần Thái Vân
5 - Chung kết ...................................................Tường Vi
6 - Lần ra đi .............................................Mimosa Ngọc Nga
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
7 - Phỏng vấn Nguyễn Hưng Quốc: Tại sao viết ? ..............VanHoc
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
8 - Khách Thu .....................................................Quý Thể
9 - Thủy tinh ................................................Phùng Nguyễn
Bạn đọc thân mến,
Ðể thay cho thư vhnt số này, tôi chép tặng bạn một bài thơ mà tôi rất thích, rất hợp với cái không khí sẽ sàng, nhè nhẹ của mùa thu đang len lén đến sau vườn. Sau mùa trăng rằm tháng 8, tiết thu đã bắt đầu se sắt. Bài "đón thu" của Nguyễn Xuân Thưởng đã đăng trong một số vhnt cũ từ năm ngoái, nhưng năm nay xem chừng cảm xúc cho mùa thu cũng không thay đổi nhiều. Bất chợt sáng bước ra đường, thấy "cây sồi trước hiên đỏ lá tự bao giờ" và "những điều thân quen tự nhiên mới lại". Mới lại vì cảnh sắc chỉ qua vài cơn gió lạnh đã chuyển qua mầu hiu hắt, đã vàng phai vài chiếc cuộn mình nằm im.
Nào chúng ta hãy dọn lòng cho một mùa lá vàng, mà tôi nghĩ chắc chắn chúng ta sẽ được thưởng thức đón nhận nhiều sáng tác cảm hứng về mùa thu, từ cái chiều không gian hiu hắt và lãng đãng đang gọi cảm hứng về...
thân ái,
PCL/vhnt
oOo
Ðón Thu
Tôi đã đi đâu bấy lâu
để tối nay ra đường
cây sồi trước hiên đỏ lá tự bao giờ
tôi bước thật chậm lên con dốc nhỏ
nhà đã lên đèn
tiếng côn trùng chợt im bãi cỏ tôi qua
cùng lúc tiếng chó hàng xóm sủa lên từng chập
những điều thân quen đột nhiên mới lại
ai dám bảo không gian khi mùa thu dọn đến
lá cây úa vàng nhuốm bịnh
ai dám bảo mặt đất không là nơi của lá
khi mùa xuân từ đất bừng lên
ai dám bảo lá đã lìa cây mùa tuyết phủ
tuyết vừa tan
trong chồi tươi có chút sắc vàng
bước chân tôi đặt lên thảm lá nhẹ nhàng
lá chạm vào đất
đất chạm vào trời
trời chạm vào mạch sống muôn đời
tôi ngước mặt
trong không khí thu về
có chút bụi mưa rất ư dễ chịu
Nguyễn Xuân Thưởng
tháng 11, 95
Dạo Khúc
Vì sao đẹp nhất trong tất cả các vì sao của bầu trời
đêm nay xuống cõi đời và nói yêu tôi
con nai hiền nhất trong tất cả những con nai trong bầy
sáng hôm nay đã vào cánh đồng hoa cỏ nhảy nhót đùa vui
đây là mầu nhiệm tuyệt đối
không thể nói bằng tiếng nói loài người
Dòng sông xanh đêm qua đã dâng nước tràn bờ
và cuốn đi tất cả những âm thanh trên những phím ngà
rồi nói lời từ giã
rồi tuôn vào bao la
đây là điều kỳ lạ
đây là điều không ngờ
mà chúng ta chỉ gặp trong sương khói những trang thơ ...
Tôi vẫn nhớ đêm mà đôi mắt em nhìn tôi đăm đăm
mắt hươu nai...
mắt sông dài...
mắt như vì sao đẹp nhất bầu trời đêm nay
xuống cõi đời và nói...
yêu tôi.
Nguyễn Quang Tấn
Lỗi Hẹn Cùng Ca Dao
Vườn nay người khác đã rào
Khóm mai thay chỗ khóm đào ngày xưa
Em ngồi giặt áo giữa trưa
đâu rồi môi hát vu vơ một mình...
Em ngồi giặt áo lặng thinh
Vò cho sạch những vết tình còn vương
Giũ cho vơi hết giọt buồn
Phơi cho khô hết nhớ thương xa vời...
Ðàn Kiều được mấy khúc vui
thơ Kiều có vận vào đời em chăng?
Tình so chưa đủ ngũ âm
Áo chồng con đã nặng oằn dây phơi
Áo ca dao gió cuốn rồi
Cầu ca dao, trả cho người khác qua
Tóc mai rũ bóng hiên nhà
Chuyện xưa dù nhắc vẫn là chuyện xưa
Em ngồi giặt áo giữa trưa
Rát bàn tay vẫn vò chưa sạch lòng
Thanh Nguyên
dấu đá hằn
từ em
vãng phố hoa đào,
gót hài
khua giấc mộng nào thoáng
qua.
từ em
vắng phố đào hoa,
dấu chân
trên cõi hồn ta
đá hằn.
một ta
đi
giữa mùa trăng,
ngàn hoa hồng nở
trên từng
mắt
môi.
mùa xuân
cho mắt lệ
rơi
thương em.
muốn nói.
mà thôi.
cũng thừa.
nguyễn hiện nghiệp
Hoài Niệm
Chiều qua bến Nam ô
Rừng cây bần thân trắng
Vẽ bức tranh hư vô
Bến sông xanh hiu quạnh
Ðường ruộng nồng hương cỏ
Gió rì rào bên tai
Dấu chân ông thổ võ
Còn in trên dặm dài
Cũng đường này năm xưa
Mẹ một lần di tản
Cành đa lá xanh thưa
Cao theo chiều đại nạn
Bóng chim còn in bóng
Ðường bay ngày thênh thang
Mây dừng mây chờ ngóng
Ðứa trẻ về khai quang
Ðất hoang giờ nơi đó
Người đi hoang mịt mù
Ba đời, mẹ, khốn khó
Mơ trên vầng thiên thu
Ðứa bé đi không lại
Bến Nam ô vẫn gầy
Ông tiền hiền, thổ võ
Mong mong một đường bay...
trần thái vân
Chung Kết
Rồi sẽ đến một ngày là chung kết
Như hoàng hôn tắt nắng đón mặt trời
Chim liệng tròn trong câu hát lả lơi
Ta sẽ thấy bên nhau đời rất vội
Anh hãy gửi cho em, trời bão nổi,
Một lời tình ngày đôi lứa gặp nhau
Chung một nhịp cầu, mộng ước dài lâu
Dù có thể đôi khi là không thể
Những ước mơ dẫu có lần đến trễ
Cũng đã thành hiện hữu của thiên thu
Tình cuối, tình sau đẫm ướt sương mù
Nhiều say đắm như những ngày mưa tới
Nhung nhớ khát khao, tình yêu mờ lối
Kết cuộc nào rồi cũng vậy mà thôi
Tình động mây mưa, thì cũng một đời
Vì không thể đôi khi là có thể...
tường vi
8/26/96
Lần Ra Ði
Thấp thoáng thế đã tám năm rồi
Ngỡ ngàng nghe lại khúc tim côi
Một lần ra đi rời quê Mẹ
Là vạn lần thương nhớ, bồi hồi
Nhớ mãi trong tim tiếng Mẹ hiền
Lời ru nhè nhẹ nắng trưa hiên
Bữa cơm đồng nội, Ôi! thương quá
Vất vả vì con tình vô biên
Nhớ mãi con đường Kỳ Ðồng nhỏ
Tuổi thơ lơ lững vọng tiếng hò
Bên ngôi trường xanh cùng maí đỏ
Bên cành Phượng Vĩ, chẳng âu lo!
Nhớ mãi dáng cha lúc chiều về
Nét buồn thoáng đượm nụ cười tươi
Dầm mưa dãi nắng, tìm manh áo
Che chở đàn con giữa chợ đời
Tám năm trước, ngày này tôi đã
Xa quê hương đẹp rất tuyệt vời
Ðây vần thơ vọng lơì tha thiết
Gởi về trong thương nhớ đầy vơi
Mimosa - Ngọc Nga
Kỷ niệm 8 năm rời Việt Nam
Oct-3-1988 Oct-3-1996
Trả lời phỏng vấn của Nguyễn Hưng Quốc
1. Tại sao viết?
Trả lời câu hỏi tương tự, cách đây mấy năm, trên tạp chí Thế Kỷ 21, tôi đặt vấn đề: tại sao người ta thích hỏi nhà văn là tại sao anh (hay chị) viết văn? Tại sao không ai hỏi cái câu hỏi tại sao ấy với những hạng người khác, với các chính khách, các bác sĩ, các luật sư, kỹ sư, hay với các nhạc sĩ, các ca sĩ, chẳng hạn? Có phải với những nghề ấy, vấn đề đã quá hiển nhiên? Ðó là những nghề hoặc có tiền hoặc có danh hoặc có cả hai, đôi khi lại thêm quyền lực nữa. Người ta chỉ hỏi các nhà văn: tại sao anh/chị viết văn? Dường như người ta tò mò; trông anh (hay chị) có vẻ cũng là người học thức, thông minh, tại sao không chọn một nghề nào cho nhàn nhã lại dại dột lao vào chốn đoạn trường, không những hành hạ mình mà còn đày đoạ cả vợ con? Tại sao anh biết, như Nguyễn Vỹ từng than, nhà văn An Nam khổ như chó, vậy mà anh vẫn cứ mơ mộng làm văn sĩ? Tại sao anh biết, như Nguyễn Minh Châu từng thú nhận, con đường văn chương là một con đường nhục nhằn, đau xót, đầy bất trắc, vậy mà anh cứ đeo đuổi mãi? Tại sao anh biết, như Nguyễn Du từng ngậm ngùi, thơ văn chả có ích lợi gì, nhất sinh từ phú tri vô ích, vậy mà anh cứ lầm lũi viết lách? Tại sao? Cái câu hỏi tại sao ấy, từ phía độc giả, như một sự lạ lùng; về phía nhà văn, cứ như một niềm nhức nhối.
Dù sao, nó cũng tương đối dễ trả lời nếu viết văn chỉ có nghĩa là cầm bút. Lúc ấy, lý do viết văn, với người này là vì nhiệt tình cách mạng, muốn dùng ngòi bút làm vũ khí tranh đấu cho tự do, dân chủ hay công bằng xã hội; với người kia là vì tham vọng quyền lực, dẫu chỉ là thứ quyền lực hoang tưởng như Nguyễn Mộng Giác từng phân tích trên một số báo Văn Học nào đó, trước đây. Thế nhưng khó mà chấp nhận cái quan niệm dễ dãi ấy. Mấy ông Tàu ngày xưa sẽ cãi lại ta: văn, với họ, là sự hài hoà của màu sắc, phải rực rỡ, là văn thái trước khi là văn tự. Mấy ông Tây sẽ cãi lại ta: văn, với họ, là mỹ văn (belles-lettres), nghĩa là phải đạt được một trình độ nghệ thuật nhất định. Và chính ta cũng sẽ cãi lại ta: ta không từng so sánh văn với tơ, với gấm, hoặc nói theo lời Hoàng Ðức Lương, tác giả Trích diễm thi tập, một cuốn tuyển tập thơ văn được biên soạn vào cuối thế kỷ 15, là "sắc đẹp ngoài mọi sắc đẹp; là vị ngon ngoài mọi vị ngon, không thể đem mắt tầm thường mà xem, miệng tầm thường mà nếm được" đó sao? Tự dưng tôi nhớ đến Hoài Thanh, năm 1935-36, khi cãi nhau với Hải Triều về vấn đề nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh, một lần lớn giọng: "Văn chương là vật quí có đâu được nhiều thế!".
Hơi chanh chua. Nhưng đúng. Phải đâu cứ hễ có chữ là tự nhiên có văn.
Nhưng nếu hiểu theo nghĩa hẹp như vậy, câu hỏi sẽ trở thành phức tạp vô cùng. Người xưa thường giải thích: họ viết văn làm thơ là vì, nói theo chữ của Thâm Tâm, "có tiếng sóng ở trong lòng". Cái 'tiếng sóng' ấy, có người gọi là chí, có người gọi là tình. Theo Lê Quí Ðôn (1726-84), mắt nhìn cảnh vật hay sự đời, lòng bỗng dưng rung động, văn chương từ đó bật ra. Ngô Thế Lân (1726 - ?) từng ví tâm hồn nhà thơ như một cây trúc, gió đến thì trúc kêu; gió im thì trúc lặng, cho nên ông mới đặt tên tập thơ của ông là Phong trúc tập. Sau này, Mallarmé, Dylan Thomas và nhiều nhà thơ Âu Mỹ khác cãi lại: người ta làm thơ, viết văn trước hết là vì yêu chữ, yêu cái âm vang của chữ chứ không phải vì có điều gì muốn nói. Có lẽ đúng. Thế nhưng tại sao bao nhiêu người thiết tha với chữ nghĩa lại không hề viết văn, chỉ bằng lòng với việc đọc văn, thưởng văn? Rồi tại sao bao nhiêu người đã từng viết lách bỗng có lúc "phút linh cầu mãi không về" - thơ Hồ Dzếnh, dù tình yêu đối với chữ nghĩa không hề phôi pha chút nào cả?
Từ những ý kiến trên, ít nhất chúng ta cũng thấy được một điều: lý do viết văn, làm thơ gắn liền với cảm hứng. Nói cách khác, người ta không chọn nghiệp viết văn làm thơ một lần trong đời mà là nhiều lần, tuỳ theo nhịp điệu thường xuyên hay hoạ hoằn của cảm hứng. Tuy nhiên, một khi đã đồng nhất việc viết lách và cảm hứng thì một hệ luận đương nhiên phải rút ra là: người ta bị văn chương chọn hơn là chọn văn chương. Lý do đơn giản: cảm hứng là cái gì ngoài tầm kiểm soát của người cầm bút. Ngày xưa, ở Hy Lạp thời cổ đại, người ta cho cảm hứng là một hình thức của điên loạn, hoặc nhẹ nhàng hơn, một trạng thái thần nhập. Chính Plato cũng tin như thế, trong cuốn Ion, và Aristotle từng lặp lại trong cuốn Poetics và Rhetoric. Bây giờ không ai tin như vậy nữa. Thì người ta đổ cho vô thức. Viết là hình thức chấp bút những tiếng động âm thầm vang lên từ vô thức.
Quan niệm cho chọn lựa viết văn thực ra là bị văn chương chọn lựa sẽ giải thích lý do tại sao không ai có thể trả lời dứt khoát câu hỏi tại sao mình viết văn; hơn nữa, nó còn giải thích lý do tại sao nhà văn không ngớt tự đặt cho mình và cho đồng nghiệp mình cái câu hỏi: tại sao viết văn? Người ta mơ hồ ý thức là cái quyết định cầm bút không hoàn toàn tuỳ thuộc ở họ.
Cảm hứng không tuỳ thuộc ở họ, công việc sáng tác, do đó, dường như không hẳn là của họ: không có người cầm bút thực sự nào không sáng tác như một phiêu lưu. Mỗi chữ là một bất ngờ; mỗi câu là một sửng sốt. Có người còn cho là mình không viết; mình chỉ chép lại tiếng nói thầm nào đó trong mình. Với những mức độ khác nhau, có ai viết lách mà không viết theo một tiếng nói thầm nào đó. Cái câu nói nổi tiếng của Boileau "cái gì được suy nghĩ rõ ràng thì viết ra trôi chảy", nếu đúng, chỉ đúng với trường hợp những người viết văn... dở, kiểu học trò làm luận mà thôi. Ðiều này, có lẽ phần nào giải thích được hiện tượng vì sao các nhà văn hay có tật nói khoác: anh ta lúc nào cũng ngạc nhiên trước tác phẩm của mình. Một kỹ sư không ngạc nhiên đến thế khi nhìn cái máy do mình chế tạo ra: anh ta đã hình dung được nó từ trước, ngay trong dự án. Với nhà văn, trong công việc sáng tác, tình hình lại khác. Ngay cả khi viết xong điều đắc ý, anh ta vẫn chưa chắc đã hiểu trọn những gì mình đã viết, hơn nữa, dù hiểu, vẫn bàng hoàng: anh ta cần lời khen của người khác hoặc của chính anh để tự tin vào mình.
Tại sao viết? Riêng trường hợp của tôi, nếu phải trả lời, câu trả lời thành thực nhất chỉ có thể thế này: vì ngứa. Vâng, chỉ vì ngứa. Viết, với tôi, giống như là gãi, cả hai có cùng một nguyên do: ngứa. Một đằng là ngứa ngoài da, một đằng là ngứa trong tâm hồn. Có những lúc tự nhiên tâm hồn nổi sốt, ngứa ngáy, khó chịu, bức xúc, đòi... gãi: thế là cầm bút viết. Ngược lại, có những thời gian dài, không viết được gì cả: tôi tin đó là thời gian may mắn nhất, tâm hồn nếu không mạnh khoẻ thì cũng bình an, không bị dị ứng, không ngủ chập chờn.
Nói như thế không có nghĩa là viết nhất thiết phải là một bất hạnh. Ở đây, viết lại giống với gãi nữa: vừa đau vừa đã. Nếu tôi không lầm, hình như Nguyễn Tuân có lần ví việc viết lách với việc làm tình. Hình như thế.
2. Viết để làm gị
Trước hết là để đã ngứa. Những mục tiêu khác, đầy vẻ cao cả, mà người ta thường nói, thật ra, là những cái đến sau. Lúc viết, tôi tin là chả có người cầm bút thực sự nào nghĩ đến những chuyện "vị" cái này, "vị" cái kia cầ
3. Viết cho ai?
Cho người đọc. Nghĩa là bất kỳ ai đó. Bài viết một khi đã được đăng báo hay in thành sách, cũng giống như thân phận con gái ngày xưa, có thể ví với dải lụa, "phất phơ giữa chợ"; có thể ví với mưa, "hạt rơi vào giếng, hạt ra ngoài đồng"; có thể ví với giếng nước, "người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân". Biết làm thế nào được. Nhưng bao giờ người ta cũng viết cho ai đó đọc. Không thể khác. Ðây chính là nghịch lý của việc viết lách: viết, một mặt là vì sự ngứa ngáy trong tâm hồn của mình, nhưng mặt khác, lại để cho người khác đọc. Không ai có thể trở thành nhà văn, nhà thơ mà không cầm bút trong cái ý nghĩ: viết cho ai đó đọc, không tính toán đến cái hiệu quả từng từ mình chọn, từng hình ảnh mình dựng, từng dấu chấm, dấu phảy mình dùng, thậm chí đến cái chỗ mình phải chấm cái dấu chấm hết. Tất cả những thủ pháp nghệ thuật ấy đều được thực hiện trong một ám ảnh: người đọc. Nói cách khác, viết giống như gãi: vì ngứa; nhưng viết khác với gãi ở chỗ: viết là gãi mình mà làm sao cho... người khác - người đọc - lại thấy "đã". Truyện Kiều bắt đầu bằng câu " Những điều trông thấy mà đau đớn lòng" mà kết thúc bằng câu "Mua vui cũng được một vài trống canh" là vì thế.
4. Viết cái gì?
Viết cái mình thích. Dự định viết lách cũng giống như dự định cưới vợ: yếu tố ngẫu nhiên đóng một vai trò rất lớn. Trong cả hai trường hợp, bàn về dự định, cho dù một cách thành tâm, đều dễ gợi cảm giác là ba hoa: rất ít khi chúng đúng với sự thực.
Tôi vừa mới viết xong hai cuốn sách, một về thơ, Thơ, v.v... và v.v..., và một về một tác giả văn xuôi, Võ Phiến. Hiện, nghỉ ngơi. Cái viết sắp tới còn tuỳ thuộc vào cơn ngứa mới - chúng ta thường gọi là "hứng". Nếu nó không bao giờ tới: càng tốt.
5. Viết như thế nào?
Ðánh thẳng trên computer. Ðọc lại, thấy thích thì bấm vào nút 'savé rồi 'print'; không, thì bấm vào nút 'deleté: trong nháy mắt, hư không lại hoàn hư không. Thật thích. Thích hơn nữa là, khác với cảnh viết bằng bút, viết trên computer, mình có thể sử dụng được phần nào sức mạnh của mình: gõ thật nhanh và thật mạnh vào mặt ch Ðể nghe được tiếng chữ kêu. Rào rào. Cạch cạch. Không phải để có ảo giác mình giống như Thuý Kiều ngày nào: "Tay tiên gió táp mưa sa" mà là để có cảm tưởng như là đang đánh lộn với chữ. Tôi không biết võ, cũng không bao giờ có ý nghĩ sẽ học võ để đánh nhau với ai cả, nhưng không hiểu sao, tôi muốn viết văn như người ta đấu võ: mỗi câu như một cú đấm. Nhanh, gọn, dứt khoát. Mỗi câu văn phải đập chát vào một cái gì. Cái gì cũng được, miễn đừng là khoảng không. Trong văn chương, thương nhất là những cú đánh hụt.
Nguyễn Hưng Quốc
trích tập san "Văn Học", số 126, tháng 10, 1996
Khách Thu
Thím Chanh ngồi ở nhà ngang xào nhân bánh Trung thu trong chiếc chảo đồng bắc trên hỏa lò kêu với lên nhà trên:
- Thùy ơi xuống đây mạ biểu!
Thím kêu tới ba bốn lần mới nghe tiếng "dạ" giọng Huế yểu điệu ngọt ngào. Một lúc sau, Diệm Thùy, cô gái mười chín đôi mươi, tóc thề chấm vai, áo cánh lụa mỡ gà, từ trên nhà thướt tha đi xuống:
- Mạ kêu chi con?
- Mi làm chi trên đó mà tao kêu như kêu đò?
- Dạ con học bài (Thùy nói láo, nàng đang phất lồng đèn con bướm để tối chơi Trung thu).
- Bộ tết Trung thu nhà trường không cho nghỉ sao con. Mi cầm cái chổi lên xuốt (quét) nhà trên cho mạ.
- Dạ nhà trên quét hồi sáng rồi.
- Quét rồi quét nữa.
Cô gái cầm chổi đi lên, lúc sau xách chổi xuống nói:
- Nhà trên còn khách.
Thím Chanh bực tức gắt với con:
- Còn khách mới quét!
Diệm Thùy không hiểu chi cầ Thím Chanh nói:
- Khách khứa dai chi lạ, ngồi từ sáng tới trưa chưa chịu về cho người ta ăn cơm còn lo liệu tối cúng trăng.
oOo
Lão Huề, thầy cúng nhà ở bến đò Cồn sang nhà ông Chanh ở Vĩ Dạ từ sáng chưa chịu về. Hai người say sưa đàm luận thi phú văn chương. Thím Chanh xưa nay chẳng ưa lão thầy cúng nói chuyện dai như giẻ rách này, nhất là mấy ngày hôm nay cận tết Trung thu, trong nhà trên dưới, trong ngoài chưa dọn dẹp, bộ tam sự trên bàn thờ chưa đánh bóng, bánh mứt Trung thu chưa làm xong. Ông Chanh sẵn khách được dịp ngồi riết ở nhà trên không chịu xuống bếp giúp vợ việc nhà. Con Diệm Thùy cũng nhân cơ hội này làm lồng đèn trốn việc nhấ Thấy con còn chần chừ, thím giục:
- Cầm chổi lên xuốt cho tao thử coi lão nớ có chịu về hay không?
Diệm Thùy cầm chổi lên nhà trên một lúc sau xách chổi xuống. Thím hỏi:
- Xuốt xong chưa con?
- Xong rồi.
- Khách về chưa con?
- Dạ chưa!
Thím Chanh bực mình lắm lằm bằm trong miệng: "Chớ cậu mi với lão nớ nói chuyện chi mà dai rứa?"
- Dạ hai người đọc thơ.
- Thôi chết rồi, lão nớ mà dở túi thơ ra thì chết cả lũ!
Nghĩ một lát thím nói:
- Mi khua sóng chén bát cho tau!
Diệm Thùy không hiểu mạ nói chi toan hỏi lại thì thím Chanh chạy tới chỗ đựng chén bát lấy mâm đồng đặt cái rầm xuống nền gạch. Thím lấy chén bát đũa muỗng ném bừa lên mâm gây ra tiếng động rất to để nhà trên nghe. Ðây là cách báo hiệu cho khách ở nhà trên biết đã đến giờ cơm, liệu mà rút lui. Thím Chanh sai con lên nhà trên thám thính thử xem biện pháp này có kết quả gì không. Lúc sau Diệm Thùy xuống, thím hỏi:
- Khách về chưa con?
- Dạ chưa.
- Rứa hắn còn chờ chi nữa mà nghe khua chén bát lại chưa chịu cuốn gói?
- Dạ còn xướng họa .
Thím Chanh suy nghĩ một lúc rồi nói:
- Mi lên nhà trên "đá thúng đụng nia" cho tau!
Ðây cũng là một cách tỏ thái độ không thân thiện với khách. Diệm Thùy đi một lúc xuống thưa:
- Dạ nhà mình không có thúng, không có nia, lấy chi mà đá, mà đụng?
- Rứa thì mi "chửi chó, mắng mèo" cho tau!
- Thưa mạ nhà mình không nuôi chó, nuôi mèo.
Thím Chanh thở dài ngao ngán...
Thím Chanh tìm cách khác. Thím nói:
- Mi qua bên chùa Phước Huệ trong phủ Tuy lý mời ông thầy Ba La qua chơi.
Diệm Thùy nói:
- Khách ni chưa đi sao mạ còn cho rước khách khác?
Thím Chanh giảng giải:
- Ðây cũng là cái thuật đuổi khách. Khách thì ghét khách. Hai lão nầy xưa nay khắc khẩu chẳng ưa gì nhau, một đàng thầy cúng, một đàng là thầy chùa cạnh tranh nghề nghiệp với nhau ghê lắm, thế nào cũng khích bác nhau, có khi đập lộn rồi cả hai cùng bỏ về.
Diệm Thùy xách nón đi mời, nửa đường gặp mấy đứa trẻ con đốt lồng đèn trái bí ban ngày. Nửa giờ sau cô gái mới về, mẹ hỏi:
- Thầy có tới không con?
- Dạ có!
- Hai người có "choảng" nhau không con?
- Dạ có.
- Họ gây gổ nhau mần răng?
- Ông thầy chê cặp luận của lão Huề đối không chỉnh.
Lão Huề chê ông thầy gõ mõ tụng kinh biết chi xướng họa.
- Họ có kéo nhau bỏ đi không?
- Dạ chưa!
Rõ là thím Chanh đã chơi ván bài mạo hiểm và đã thất bại. Cặp khách nầy có chống nhau thật nhưng không ai chịu bỏ đi. Bây giờ thím có tới hai vị khách không mời. Cái khổ của thím tăng gấp đôi. Mấy lão nầy ăn trầu nhổ đầy ống nhổ đồng mới đánh bóng hôm qua, hút thuốc Cẩm Lệ dán đuôi thuốc đầy cột nhà, trà pha tới nước thứ tư nhạt như nước ốc vẫn uống.
Thím Chanh không còn cách gì khác để chọn lựa đành phải chơi ván cờ liều. Thím bảo Diệm Thùy:
- Mi lên nhà trên vòng tay thưa nguyên văn thế này cho mạ: "Mời hai bác gặp bữa thời luôn thể".
Thím đinh ninh lần này khách phải cuốn gói chớ không còn cách chi trì hoãn nữa. Gặp trường hợp này khách từ chối đại loại như thế nầy:" Ủa! Tới giờ cơm rồi hử? Thôi, cảm ơn, để khi khác. Xin kiếu." Một lúc sau Diệm Thùy đi xuống nói to:
- Chết rồi mạ ơi!
- Mần răng mà chết?
- Dạ hai ông khách nói ...
- Hai lão nói răng?
- Nói: "Thôi đừng bày vẽ, dưa muối gì cũng được, dọn lên đây!"
Ba người đàn ông ngồi vào mâm. Hai ông khách còn yêu sách đủ thứ. Lão Huề xin trái ớt xanh với nước mắm Lăng Cô. Ông thầy Ba La đòi tương chao mụ Tôn chợ Bến Ngự. Khi ăn cả ba vẫn còn cao đàm khoát luận. Lão Huề khen "cặp trạng" trong bài xướng của gia chủ rất "đắc". Gia chủ khen bài họa có "khẩu khí quân tử". Ông thầy khen gia chủ có "tâm địa độ lượng" qua câu thơ: Bốn bể anh em họp một nhà. Gia chủ là ông Chanh khen thầy có cái "tâm thanh tịnh" qua câu: Việc đời nghĩ lại cỏn còn con.
Hai mạ con Thùy lui cui dưới bếp rủa thầm:" Ðể coi thử ăn xong có chịu về hay không?". Cơm nước xong cả ba kéo nhau sang bàn khác xỉa răng, tiếp tục tán tụng lẫn nhau. Hai mạ con thím Chanh bụng đói như cào, vo gạo nấu nồi cơm khác. Khói cơm thoảng bay lên nhà trên. Lão Huề hỏi ông Chanh:" Nhà anh nuôi mấy con heo mà giờ này mới nấu cám?".
Một lúc sau thím Chanh sai Thùy lên xem khách khứa đã về chưa để đóng cửa ngõ. Thím Chanh rất kỹ lưỡng việc đóng cổng, sợ cả trộm lẫn sợ cả ăn mày. Diệm Thùy lên nhà trên một lúc sau xuống nói:
- Thưa mạ hai ông khách chưa về. Họ hỏi mượn...
- Hai lão nớ mượn chi?
- Mượn hai cái gối nghỉ trưa, chiều nay xướng họa tiếp, ăn cơm tối ở nhà ta, đợi khuya thưởng trăng thu luôn thể!
Quý Thể
Nha Trang
Thủy Tinh
Gã đàn ông ngồi ở chiếc bàn trong góc tối tăm nhất của quán rượu. Người bạn hắn ngồi tựa lưng vào vách tường, thầm thì điều gì đó vào tai cô chiêu đãi mà mặt mũi hắn nhìn không rõ. Rải rác trong cái tù mù của quán rượu là những mảng màu tím nhạt chói chang từ những chiếc áo màu trắng được phản chiếu bởi ánh đèn lân tinh gắn dọc mấy bức vách. Những mảng màu quen thuộc của năm xưa trong mấy cái quán café nhạc ở Sài Gòn. Trên chiếc bục gỗ nhỏ đặt sát bức tường đối diện, ban nhạc -gồm có một anh chàng mặt mũi non choẹt và chiếc Yamaha keyboard– đang chơi bản “One More Try.” “Mẹ kiếp, cho mày try tới… khuya luôn, “ hắn nghe mình nói lùng bùng trong đầu.
Một cô gái bước đến gần, nghiêng người nhấc mấy chai bia trên bàn. Mũi hắn bây giờ ngập ngụa mùi nước hoa và mắt hắn đầy dẫy những mảng màu – phát ra từ chiếc đèn tròn phía trên cái sàn nhảy nhỏ xíu- nhảy múa trên một nửa bộ ngực trần và cái khe trũng mờ mờ. Vẫn ở trong tư thế khêu gợi có tính toán, cô gái hỏi “Anh cần thêm gì không?” Hắn hờ hững lắc đầu. “Em có thể ngồi với anh được không?” Lại lắc đầu. Cô chiêu đãi viên đứng thẳng người lên, xoay mình bỏ đi. Chùm ánh sang màu trắng từ chiếc đèn quay tình cờ quét ngang qua người cô, vừa đủ để soi sáng khuôn mặt bự phấn và ánh mắt thất vọng của nàng. Hắn kêu nhỏ “Nè cô" khi cô gái đã bước đi được vài bước. “Tên gì vậy?” “Em tên Lệ Hoa.” Phải chi đừng có lệ liếc gì thì hay biết mấy, hắn nghĩ thầm. “Lấy thêm cho tôi mấy chai bia nữa,” hắn dúi vào tay nàng mấy tờ giấy bạc, cố tình né tránh cái nhìn của bạn mình từ phía bên kia chiếc bàn. “ĐM, tại em có cái nhìn của thằng y tá Trung đội chứ gì?” Thế nào bạn hắn cũng cằn nhằn như vậy.
oOo
Toán lính đi hàng dọc, người trước người sau cách nhau khoảng năm thước. Lỡ có vướng phải mìn bẫy thì tổn thất cũng nhẹ bớt phần nào. Trước khi đến được khu rừng, cả bọn đã phải lội bì bỏm vượt bảy tám cấy số đường ruộng, hàng chục “xẻo” nước sình lầy. Cánh rừng tràm ngập nước. Chỗ cạn nhất cũng đến bụng chân. Rễ tràm đâm lên tua tủa từ mặt nước. Dây leo quấn lòng thòng trên những bụi cây ô rô gai góc. Dừa nước và bình bát mọc rải rác. Những trái bần tròn dẹp màu xanh treo lủng lẳng từ trên cao. Và kiến! Những con kiến vàng cao cẳng từ những nhánh tràm bám vào áo, vào túi ba-lô, vào cả vũ khí, và bắt đầu tấn công đám lính. Tiếng chửa thề vang rân nổi lên trong quãng rừng vắng. Trung sĩ nhất Bản lên tiếng can thiệp, “ĐM, tụi bây làm ơn đừng có chửi thề nữa được không?” Đám lính ướt như chuột từ đầu đến chân, quá quen thuộc với lối ăn nói ngược ngạo của Bản, không thèm đếm xỉa gì đến lão. Ngay cả hắn cũng không buồn nhếch mép tán thưởng câu nói khôi hài của ông ta.
Có tiếng léo nhéo phát ra từ chiếc PRC25 trên vai Phương, lính truyền tin trung đội, tự nãy giờ vẫn đi phía sau hắn vài thước. Hắn đón chiếc ống liên hợp từ tay Phương, nói vào máy:
“Thẩm quyền, Alpha nghe đây.”
“Tụi bây đang ngâm chim ở đâu vậy?” Đại Đội Trưởng Hoài chế diễu.
“Khoảng bốn cây số nữa mới tới điểm hẹn.”
“Tới đó ị một bãi rồi về. Nè, nhớ bảo tụi nó kiếm mấy con cua tối nay nhậu nghe!”
Hắn trả ống liên hợp cho người lính truyền tin, cất bước tiến về phía trước. Hoa đứng cạnh bụi dừa nước, phủi lia lịa những con kiến vàng bám trên chiếc túi vải màu xanh lá cây có dán hình chữ thập đỏ trên nền trắng, nhìn hắn vẻ dò hỏi. Hắn làm bộ thiểu não:
“Chắc phải nằm lại trên đó tối nay!”
“Vậy chết tui rồi! Tối hôm qua anh nói…”
Hoa bỏ lửng câu nói, cau có ngắt trái bần non treo lơ lửng ngang tầm mắt bặm môi liệng ra. Trái bần rơi vào bụi dừa nước đánh tỏm, mấy con thòi lòi ngơ ngác trồi lên, cặp mắt lồi nhìn Hoa đầy vẻ chế diễu.
“Thì thôi vậy,” hắn nói, giọng dỗ dành, “lên trên đó nhìn qua một chút rồi về.”
“Điểm hẹn” là một gò đất khô ráo nằm giữa cánh rừng ngập nước. Cây cối ở đây thưa hẳn đi. Hắn cho đám lính dừng lại, bố trí thành hình bán nguyệt bao lấy gò đất rồi ra dấu cho Phương đi theo. Hoa lẽo đẽo nối gót, miệng lẩm bẩm:
“Tụi nó bỏ đi từ đời tám hoánh…”
Hắn làm lơ, đưa mắt nhìn quanh. Và thấy điều hắn muốn thấy. Ba nhánh bần thẳng thớm, gọt đẽo trơn trụi gác chéo nhau ở mô đất cao nhất và đám cỏ cháy xém cạnh đó cho biết là những trái hỏa tiển 122 ly đã được phóng ra từ nơi đây vào lúc giữa khuya đêm hôm qua. Chiếc máng kim loại dùng làm bệ phóng đã được mang đi, có lẽ để dùng lại cho những lần pháo kích sắp tới. Hoa từ phía sau xăm xúi bước về phía “dàn phóng,” không biết để tìm gì. Một tiếng “click,” nhỏ nhưng rất sắc cạnh, vang lên khi bàn chân trái của Hoa đặt xuống mặt đất cách mấy nhánh bần gác tréo vài thước. Hắn đã nghe qua âm thanh này hơn một lần. Tiếng động phát ra khi ba chiếc chấu nhỏ lún xuống dưới sức nặng của người lính, báo hiệu ngòi nổ khởi động, và ngay sau đó, trái mìn chôn dưới đất sẽ bay lên ngang tầm ngực và phát nổ. Như vậy, tầm sát thương sẽ rộng và hiệu quả hơn! Hắn nhìn thấy cơ thể Hoa khựng lại trong một cố gắng tuyệt vọng. Hoa quay đầu lại rất nhanh, mắt dán vào hắn, miệng hé ra như muốn nói điều gì. Sự việc xảy ra rất nhanh sau đó. Bàn chân trái của Hoa rời khỏi điểm tựa, trái mìn vọt lên, và tiếng nổ…
Khi hắn hồi tỉnh, có ai đó đang cúi xuống nhìn hắn thật gần, gần đến độ nét mặt nhòe hẳn ra. Hắn kêu nhỏ, “Hoa?” Phương né người qua một bên, chỉ tay về bên phải của hắn. Hoa nằm bất động trong một tư thế kỳ dị, mặt hướng về phía hắn. Từ cặp mắt đứng tròng dưới hàng mi khép hờ và khuôn miệng méo mó của Hoa là câu hỏi dở dang, “Như vầy thì tui làm sao về kịp ngày mai để làm đám cưới với em Lượm?” Hắn quay mặt đi, nhìn xuống phía dưới. Ống quần trận bên phải của hắn rách toang và phần cẳng chân, nay chỉ còn dính vào phần trên bởi mảnh cơ bắp đẫm máu, làm thành hình thước thợ với cơ thể của hắn. Hắn ngất đi một lần nữa trên khu rừng ngập nước trong màu tím ngắt đang tỏa ra từ trái lựu đạn khói ai đó vừa ném xuống để làm hiệu cho trực thăng tải thương.
oOo
Chiếc đèn tròn có gắn những mảnh gương nhỏ đủ màu sắc treo trên trần nhà vẫn quay không ngưng nghỉ, phát ra những tia màu nhòe nhoẹt lên đám vỏ chai ngổn ngang trên chiếc bàn hắn đang ngồi. Hắn nâng ly bia uống dở lên ngang tầm mắt, cố hứng lấy những mảng màu sắc bay lượn trong không gian. Không thể nào nhốt chúng vào giữa những tinh thể của khối thủy tinh này, hắn thất vọng nghĩ thầm. Phải biết cách, và phải có đầy đủ dụng cụ. Như anh chàng người Mỹ đã biểu diễn trong kỳ triển lãm thủ công nghệ mà hắn có dịp chứng kiến.
Hôm đó hắn đi với cô gái. Nàng đứng ở phía sau tấm vách gỗ có gắn lưới mắt cáo, say mê nhìn khối thủy tinh đỏ rực ở đầu chiếc que sắt đang dần dần biến dạng. Gã nghệ nhân, với những động tác khéo léo, thuần thục, đang biến khối cát nóng bỏng thành chiếc lọ cắm hoa bằng thủy tinh có những vảy màu sắc rực rỡ được sắp xếp theo một dạng đặc biệt. Khi cuộc biểu diễn chấm dứt, hai người quanh quẩn ở gian hàng pha lê cạnh đó, chiêm ngưỡng những vật dụng xinh xắn, đầy màu sắc. Lúc họ rời đi, hắn có cảm giác cô gái đã mang theo với nàng cái lấp lánh trong suốt của những khối thủy tinh trên quầy.
Trời mùa hè nóng bức. Cô gái kéo hắn dừng lại dưới một bóng cây lớn. Trước mặt họ là màn nước mỏng bắt nguồn từ một giòng suối nhỏ lẩn khuất đâu đó trên cao, đổ xuống tung tóe trên vách đá màu vàng nâu, và chảy vào một con lạch nhỏ xíu. Hắn đứng tựa vào chiếc lan can bằng gỗ cũ mèm, ngắm con lạch trong vắt và những bụi cây nhỏ mà hắn không biết tên mọc cạnh bờ. Bỗng dưng, hắn móc túi lấy ra một đồng mười xu đưa cho cô gái, bảo nhỏ:
“Ước điều gì đi.”
Cô gái cầm lấy đồng xu, nhìn hắn thật nhanh, rồi ném mảnh kim loại sáng loáng xuống nước. Hắn nhìn theo cái chấm tròn óng ánh bạc cho đến khi nó nằm yên dưới đáy nước rồi quay lại nhìn cô gái, vẻ dò hỏi.
“Không nói được đâu, mất hết linh nghiệm!” Nàng trả lời.
oOo
Khi hắn cùng người bạn bước ra khỏi quán rượu, đêm đã sâu. Ánh trăng bàng bạc trải xuống bãi đậu xe vắng vẻ. Hắn cất bước đi vòng ra phía sân trước của khu thương xá. Có tiếng chân kiên nhẫn của bạn hắn đuổi theo phía sau. Hắn dưng lại ở cạnh bồn nước nhỏ có gắn bức tượng của một thằng nhỏ trần truồng đang đứng đái. Vòi nước từ cơ thể đứa nhỏ làm mặt nước trong bồn sóng sánh ánh trăng.
“Chỗ đó cấm đái đó cha!” Có tiếng người bạn nhắc nhở từ phía sau.
Hắn lục lọi trong túi quần, móc ra mấy đồng bạc cắc, mầy mò tìm cho bằng được đồng mười xu. Hắn đưa đồng xu soi lên ánh trăng, ngắm nghía một lúc rồi ném vào bồn nước. Mảnh kim loại tròn nhỏ chạm mặt nước, chao đảo, rồi nằm im dưới đáy bồn, hắt lên một ánh bạc yếu ớt. Có bàn tay của người bạn vỗ nhẹ trên vai hắn kèm theo câu hỏi nhỏ:
“Ước gì vậy?”
“Thủy tinh!”
“Thủy tinh?”
“Trái tim nàng.”
“Nàng?”
“Mầy không quen đâu.”
“Nàng với trái tim thủy tinh?”
“Ừ, trong suốt!’
“Mầy muốn thấy điều gì trong đó?”
Hắn làm thinh, cúi xuống bồn nước quan sát đồng mười xu. Mặt nước gợn sóng làm biến dạng khuôn mặt của hắn in dưới đáy nước. Hắn trợn mắt nhìn kỹ. Đó là khuôn mặt của thằng Hoa, chiếc miệng méo xệch đang lắp bắp “Như vầy thì làm sao tui kịp về làm đám cưới với em Lượm?”
Hắn hấp tấp lùi lại. Người bạn đã quay trở lại chỗ bãi đậu xe. Chỉ còn hắn và vầng trăng khuya treo lơ lửng trên cao. Hắn ngước lên nhìn trăng. Trông như đồng mười xu. Có điều lớn và rực rỡ hơn rất nhiều.
Phùng Nguyễn