vhnt, số 252
6 December 1996
Trong số này:
thư vhnt..........................................................Nguyện Ý
T h ơ :
1 - Những vần lục bát ........................Nguyễn Phước Tường
2 - Trịnh Công Sơn .............................................Bùi Giáng
3 - Một ngày mới ...................................................Chinh
4 - Không đề ..........................................................TTH
5 - Mộ tình ....................................................Thụy Phong
6 - Ðêm Giáng Sinh .............................................Thủy Trang
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
7 - Ðiểm sách ............................................................
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
8 - Bertrand Russel: Cơn ác mộng của nhà thần học ......Y Cựu dịch
9 - Mùa hoa ở Ðơn Dương ..............................Trần Hoài Thư
Năm xưa nào đó, có lần hàn tuyến băng qua thành phố.
Lạnh. Giá buốt.
Trước nhà tôi năm đó có một khúc đường đi bộ bị đóng băng. Lần đó, tôi ngồi trong nhà ngó ra khúc đường bộ ngoài cửa sổ. Và những nạn nhân của nó.
Có em bé đi qua. Bị trợt té. Khóc ré lên, gọi mẹ.
Có đứa trẻ chạy qua. Bị trợt té. Cười thích thú.
Có tên thanh niên bước qua. Bị trợt té. Ngượng ngùng ngó quanh.
Có cặp tình nhân dìu nhau qua. Bị trợt té. Ôm nhau hạnh phúc.
Có bà lão về qua. Ði thật chậm. Không bị té. Vì sợ bị té.
Chiều nay, trong cơn lạnh mới, của một thành phố mới. Tôi nghĩ đến sáng tạo và thưởng thức. Nghĩ đến VHNT và đọc giả. Dòng tư tưởng miên man đưa tôi đến hình ảnh cũ năm nào.
Viết. Cũng như đọc. Vả chăng là một chu kỳ trong mỗi chúng ta. Hồn nhiên khi bắt đầu. Nghịch ngợm khi mới lớn. Ngượng ngùng, với chính mình, lúc trưởng thành. Và dè dặt, từ kinh nghiệm mình, khi già nua.
Ở đâu đó, trong tuần tự của chu kỳ, là nét chấm phá của chững chạc linh hồn. Là tia chớp ngời sáng giữa nền trời đen của tự thức. Là ánh lửa toé của thanh sắt duy vọng đập vào mặt đá thời gian.
Không xảy ra thường lắm - những nét chấm phá, những tia chớp,
những tóe lửa.
Nhưng mỗi lần xuất hiện,
là một lần tư duy lột xác,
là một lần tâm tưởng thoát thai.
Mong bạn đọc tìm thấy,
đâu đó,
trong VHNT,
thỉnh thoảng,
vài nét chấm phá như vậy,
vài tia chớp như vậy,
vài ánh lửa toé như vậy.
Như tôi đã.
Như tôi vẫn.
Như tôi sẽ.
Mà mỗi lần thấy được, là một niềm riêng hạnh phúc.
Nguyện Ý
Những Vần Lục Bát
Huyễn Hoặc
Trời buồn trời cũng thôi xanh
Mây buồn mây xám đùn quanh chân trời
Hạ buồn nắng hạ lên khơi
Tương tư mình trót làm rơi ý sầu
Và ... Huyễn Hoặc
Chiều nay trời bỗng chợt buồn
Biển mây vỗ sóng sầu tuôn xuống đời
Gió lay ý nhớ chơi vơi
Lá tương tư đất nhẹ rơi cội buồn
Tiếp Nối
Hôm qua thuyền đã ra khơi
Buồm no gió lạ mây mời lối xa
Diễm hương ủ lục địa già
Sao băng chỉ hướng trăng ngà đại dương
Yêu em thuyền cổ xưa buồn
Nguồn mơ tách bến chiêu dương tuổi hồng
Triều ba lay lắt hư phong
Chiều nay ráng đỏ đêm nồng
Ngày mai xuân rụng ven sông cuộc đời
Biển khuya tóc nhuốm sương trời
Mắt giăng sương lệ nụ cười ấu thơ
Sáng sương cay đắng giăng mờ
Bao la biển mẹ bến bờ sông con
Ôi chao mây đẹp nét buồn
Bình minh hồng giữa hoàng hôn rực nồng
Nơi đâu nguồn một dòng sông
Tự đây nguồn một con sông ban đầu
(Cho cha mẹ và con)
Nguyễn Phước Tường
TRỊNH CÔNG SƠN
Một tia vàng vút xuyên mây
Giọt mưa rơi móc tháng ngày huệ lan
Mùa đông thể hiện khôn hàn
Sa mù vô tận dịu dàng cho ta
Niềm ân lộc nỗi thiết tha
Trăm năm vắng lạnh tình ta tặng người
Ta đi bao xiết ngậm ngùi
Biển dâu phù hoạt núi đồi phục sinh
Ta đi đánh mất tâm tình
Ta về cùng với thình lình điệu ca
Bình thành vô tận thiết tha
Ðã từng như thể như là đớn đau
Các người kỳ vĩ mai sau
Ðã bao giờ gặp con người đầu tiên
Ồ bạn ạ! Ồ người ôi!
Ai đi vô tận tôi ngồi ngu ngơ
Chẳng bao giờ kẻ chẳng ngờ
Rằng tình mộng tưởng không giờ xẻ chia
Không từ sương sớm trăng khuya
Không trăm năm cõi một rìa mép mao
Tuy nhiên ngoài luỹ trong hào
Còn rơi rớt chút hoàng mao A Ðầu
Ấy từ cô độc thiên thâu
Người đau như thể ban đầu phục sinh
Anh đi từ cõi một mình
Từ muôn cõi xứ tâm tình bước ra
Rối bừng đầu não thiết tha
Thơ từ vô tận mà ra tặng ngườị
Bùi Giáng
(ngày sinh nhật TCS)
Một Ngày Mới
(gửi VXH)
Một ngày mới
nhìn màu môi em
Mùa thu mặt trời chưa lặn.
Hoa bay trên áo
Rũ sạch mùa hè còn dư hương.
Một ngày mới
Theo mắt em nô đùa
Truông mây bay cùng sóng biển
Nhón chân hôn anh
Lần đầu nụ hôn không đủ ướt
Cát trắng còn dính quanh vành miệng.
Nụ hôn
chưa biết tên
Ta hãy gọi là sương khói.
Nhắm mắt nhắm mắt
Một ngày qua.
Anh như cánh vạc thôi
Em cũng là cánh vạc.
Vết sương rơi
một mình
Thêm một ngày.
Một ngày mới
Nhận ra sợi tóc bạc
anh đã già rồi mà
Tuổi già nào không bạc tóc.
Anh như tượng đợi đợi mỏi mòn
Nhìn thế kỷ phai.
Ngày mai
Anh một ngày
biết làm gì cho hết?
Chinh
27/11/96
Không Ðề
Thấm vào
tim
một cơn đau
nghe trong đêm
đẫm
giọt sầu
đáy tim
loanh quanh
giấc ngủ
đi tìm
tóc mai
mấy sợi
đo đêm
vắn dài ...
Tôn Thất Hưng
11/1997
Mộ Tình
Có tiếng thét trong đêm dài ảm đạm
Có tiếng cười điên dại vỡ không gian
Có tiếng nấc nghẹn ngào bên trăng rụng
Có bóng ai ngục ngã bên sương mềm
Ai nỡ giết tình ai trong đêm nay?
Ðể bao ân ái chịu trắng khăn sầu
Họ ở đó hai mái đầu xanh ngây dại
Một kẻ sụt sùi, một kẻ bậm môi
Tay run vảy trong khoảng không mờ nhạt
Từng nắm bụi trần phủ lấp huyệt khô
Nơi thoi thóp xác thân không tội lỗi
Một tình yêu đầu còn rỉ máu buồng tim
Và bình yên chợt về trong tê tái
Khi nụ hồng được đặt để trang nghiêm
Có người sẽ quay lưng làm kẻ lạ
Một đường đi, hai lối mộng không trùng
Ðể chẳng riêng ai rằng đây nấm mộ
Với những cuộc tình yểu chết khi thơ
Trên bia đá khắc ghi là nỗi nhớ
Nén hương tàn là kỷ niệm trăm năm...
Qua năm tháng nổi trôi niềm quên lãng
Kể từ đêm họ giết mối tình đầu
Sẽ có kẻ về thăm nơi chốn cũ
Tìm mộ xưa giờ chỉ lắm điêu tàn
Giữa những đám cỏ rêu màu hoang úa
Nụ hồng xưa giờ đã hóa cội già
Trên những cánh thẫm màu phôi phai ấy
Người mải còn đây lệ xót đêm nào.
Thụy Phong
(1996)
đêm Giáng-Sinh
tôi như loài chim di yêu nắng ấm
mùa sang đông chưa kịp trốn về Nam
rất lạc loài trong Giáng-Sinh lạnh giá
lời thánh ca mà ngỡ khúc dư âm!
những cánh thiệp bạn bè xa gửi lại
những lời chúc không đủ ấm mùa đông
tôi vẫn nhớ thuở hồn nhiên thơ dại
và tiếng chuông còn âm ỉ giữa lòng
tiếng chuông nhà thờ Ðức Bà sinh động
trong đêm giáng-sinh Sài-Gòn khi xưa
tôi vẫn giấu trong hồn nhiều vang vọng
của một thời còn thương nắng thương mưa
kể từ lúc tôi làm người xa xứ
đêm giáng-sinh là đêm nhớ vô cùng
những hồi chuông như mang từ ký-ức
vào lòng tôi những điệu buồn mênh mông !
thủy-trang
Tiếng sông Hương
Ðặc san Kỷ niệm 100 năm trường Quốc Học (1896-1996) do Phương Anh Trang chủ trương biên tập, Dã Oanh - Tâm Liên thực hiện, Dương Quốc Bình, Nguyễn H. Cường lo phần kỹ thuật, dày 250 khổ lớn 8"x11", giá 15 Mỹ kim. Do nhiệt tâm và công phu liên lạc, sưu tầm, biên soạn của Anh Nguyễn Cúc, từ lâu Tiếng Sông Hương vẫn được xem là niên san có nhiều giá trị về bài vở, sáng tác lẫn nghiên cứu, viết về Huế. Năm nay, nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày thành lập trường Quốc Học, Ban biên tập càng dồn hết công phu để thực hiện một kỷ vật xứng đáng cho tất cả những cựu học sinh Quốc Học qua nhiều thế hệ, trong chiều dài một thế kỷ. Ngoài bài vở đóng góp của nhiều cựu học sinh Quốc Học nay đã trở thành danh nhân trong nhiều ngành, anh Nguyễn Cúc còn cất công lục lọi ở các thư viện và sưu tập gia đình nhiều tài liệu hiếm, như sắc dụ ngày 23.10.1896 thiết lập Trường Quốc Học của Vua Thành Thái . Dĩ nhiên phần mang nhiều xúc động cho bạn đọc cựu học sinh nhất là những kỷ niệm về ngôi trường thân yêu, thầy xưa bạn cũ.
Nhớ Huế
Ấn phẩm kỷ niệm 100 năm thành lập trường Quốc Học, do Hội Thân hữu Huế-Thừa Thiên Nam California chủ biên. Cùng biên tập theo một mục tiêu như "Tiếng Sông Hương" ở Dallas TX, nhưng "Nhớ Huế" nới rộng chủ đề, bao gồm cả kỷ niệm 79 năm thành lập trường Ðồng Khánh, và trong nhiều bài có cả việc thành lập Ðại học Huế nữa. Nội dung thiên về ký sự, sáng tác hơn là khảo cứu. Bài vở đóng góp từ nhiều cây bút quan trọng của đất thần kinh, hiện sống rải rác trên khắp thế giới. Ðặc san là kết quả lòng hăng say của những người con xứ Huế hiện sống xa quê hương, đặc biệt là những người trong ban chủ biên như: Võ văn Tùng, Nguyễn văn Y, Nguyễn Ngọc Thanh, Tôn Thất Tùng, Hoàng Giao, Nguyễn Khoa Thiều, Hồ văn Phú, Nguyễn Ðình Mô, Thái Bá, Thái Doãn Ngà, Hoàng Thi Thao, Hà Thúc Như Hỷ, Hoàng Ngọc Trác, Dương Công Liêm, Phan Ðắc Khôi. Ðặc san dày 182 trang, hiện có bày bán tại các hiệu sách.
Ðặc san Quốc Học-Ðồng Khánh
Kỷ niệm 100 năm trường Quốc Học, 79 năm trường Ðồng Khánh, do Hội Ái hữu Quốc Học Ðồng Khánh Nam California chủ trương, Trần Sĩ Lâm, Bùi Bích Hà, Kim Hà biên tập, Trần Sĩ Lâm trình bày. Ðặc san trình bày và biên soạn dưới hình thức một cuốn sách, nên rất tiện lợi trong việc cất giữ trong tủ sách. So với hai đặc san nói trên, đặc san Quốc Học Ðồng Khánh có nhiều chất văn nghệ hơn. Có lẽ vì ba người trong ban chủ biên là ba nhà văn: Trần Sĩ Lâm, Bùi Bích Hà và Kim Hà.
Sống và Viết
Tùy bút của Võ Phiến, Văn Mới xuất bản, sách dày 170 trang, giá 10 Mỹ kim. Tác phẩm này tập hợp những bài viết mới nhất của Võ Phiến, gồm hai phần:
Phần "Sống", là những bài tùy bút Phần "Viết", có hai chương: Chương 1 gồm một số suy tưởng của Võ Phiến về các vấn đề sáng tác.
Chương 2 là cảm tưởng về một số sáng tác phẩm của văn học hải ngoại.
Sách do Nhà Xuất bản Văn Nghệ phát hành, hiện có bán tại các nhà sách.
Lời của quá khứ
Tập truyện ngắn của Khế Iêm, bìa Thái Tuấn, phụ bản Thái Tuấn, Ngọc Dũng, Ðinh Cường, Văn Mới xuất bản, dày 120 trang, giá 7 Mỹ kim. Ðây là tác phẩm thứ ba được xuất bản của nhà thơ Khế Yêm, sau kịch Hột Huyết (Sài gòn 1972), thi tập Thanh Xuân (Hoa Kỳ 1992). Giống như thơ, truyện của Khế Yêm cô đọng, quá nhiều chất trí tuệ nên đòi hỏi kiên nhẫn nơi bạn đọc.
Sách cũng do Văn Nghệ phát hành.
Câu chuyện giữa đường
Tập truyện ngắn của Nguyễn Hiền, Cái Ðình (Hoà Lan) xuất bản, gồm mười ba truyện ngắn của một tác giả từng gửi bài đăng nhiều lần trên Văn Học. Nguyễn Hiền sinh năm 1951 tại Huế, lớn lên ở Sài gòn, hành nghề dược sĩ và lưu lạc sang Hoà Lan năm 1980. Tại Hoà Lan, tác giả là một nhân vật hoạt động tích cực cho cộng đồng người Việt tại đấy, chưa kể bỏ thì giờ sáng tác, đóng góp nhiều truyện hay cho các tạp chí Việt ngữ và Hoà ng "Câu chuyện giữa đường" chứng tỏ tài viết truyện già dặn, óc nhận xét con người tinh tế và nhân hậu của tác giả.
Bạn đọc Văn Học muốn mua sách xin liên lạc về Nhà xuất bản Cái Ðình.
Vàng
Thi tập của Cao Xuân Tứ, bìa của Võ Ðình, Cái Ðình (Hoà Lan) xuất bản, sách dày 60 trang, giá 8 Mỹ kim. Cao Xuân Tứ là một nhà thơ quen thuộc với bạn đọc Văn Học từ nhiều năm nay, những bài thơ (cả Việt ngữ lẫn ngoại ngữ) lần đầu được in chung thành một thi tập trang nhẩ Tác giả cộng tác với nhiều tạp chí Việt ngữ như Văn Học, Làng Văn, Thế Kỷ 21, Ðộc Lập, và các báo ngoại văn như Edinburgh Review (Anh), Westerly (Úc), De Tweede Ronde (Hoà Lan), Deus Ex Machina (Bỉ). Năm 1995, Cao Xuân Tứ nhận được giả thưởng thi ca Dunya của Hoà Lan.
Muốn có sách xin liên lạc về nhà xuất bản Cái Ðình.
Băng thơ Tô Thùy Yên
Gồm những bài thơ nổi tiếng của Tô Thùy Yên như Ðãng tử, Trường sa hành, Qua sông, Chiều trên phá Tam giang, Goá phụ, Anh hùng tận, Hề ta trở lại căn nhà cỏ, Em nhỏ làm chi chim biển Bắc, Ta về. Băng thơ do Phan Dụy (nữ) và Cao Ðông Khánh (nam) giới thiệu và diễn ngâm. Với tài mix của Tiến Ðức, John Eklund, phụ đệm dương cầm của Duy Khang, băng thơ là một kết hợp tốt giữa chữ nghĩa và âm thanh, giữa thơ và giới thưởng ngoạn.
Thơ Tình / Love Poems
của Du Tử Lê, Tủ sách văn học Nhân Chứng tái bản lần thứ tư, gồm hai phần: phần đầu là thơ dịch sang Anh ngữ do Ðỗ Ðình Tuân, Huỳnh Sanh Thông, Vũ Ngự Chiêu & Kirl Lindsay, Nguyễn Ngọc Bích, Phạm Trọng Lệ, J.K. Lô, Nguyễn Thu Hương và Nguyễn Tấn Lai. Phần hai là thơ Việt, trong đó có nhiều bài độc giả vẫn tìm kiếm như Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển, Khác tháng Chín, Kẻ từ phương đông qua, K. khúc của Lê...Sách dày 200 trang, giá 12 Mỹ kim.
Có thể hỏi mua tại các hiệu sách hoặc liên lạc về hai nhà phát hành Văn Nghệ và Ðại Nam.
Văn hiến, nền tảng của minh triết
biên khảo của Nguyễn Ðăng Trúc, Ðịnh Hướng Tùng Thư xuất bản, sách dày 240 trang, giá 15 Mỹ kim. Tác giả đặt câu hỏi ở cuối sách: "Không tiếp nhận được hồn của văn hiến, thì đào bới truy tìm cái xác đã chôn dưới đất hay bị mục mối gặm mòn để làm gì?" Nguyễn Ðăng Trúc dùng kiến thức triết học giải mã những huyền thoại, huyền sử Việt Nam để tìm ra cái hồn của văn hiến.
The Vietnam Review
số ra mắt Aurumn-Winter 1996 do Huỳnh Sanh Thông, Hoàng Ngọc Hiến, Trương Vũ chủ biên, gồm nhiều bài biên khảo Việt học và sáng tác viết thẳng hoặc dịch sang Anh ngữ, dày 570 trang. Có thể coi The Vietnam Review là hậu thân của Vietnam Forum, vì người biên tập chính vẫn là giáo sư Huỳnh Sanh Thông. So với Vietnam Forum, The Vietnam Review in ấn đẹp hơn. Có điều đáng tiếc là các phụ bản tranh tài liệu và ảnh chụp vẫn không được chăm sóc chu đáo, chưa đủ tiêu chuẩn quốc tế của một tạp san nghiên cứu đại học.
Một tạp san nghiên cứu cần thiết cho giới nghiên cứu Việt học và sinh viên.
BERTRAND RUSSELL - Sinh năm 1872 tại Anh quốc. Là một triết gia, nhà toán học, và người tranh đấu cho hoà bình. Tác phẩm triết học quan trọng và nổi tiếng nhất của ông là Principia Mathematica (1910-13) và A History of Western Philosophy. Về toán học ông viết bộ Principles of Mathematics (1903). Sau thế chiến thứ hai, ông là một thành viên quan trọng trong phong trào giải trừ vũ khí nguyên tử và hoạt động cho hoà bình trên thế giới. Ông nhận giải Nobel về Văn chương năm 1950, và mất năm 1970.
The Theologian's Nightmare (Cơn Ác Mộng Của Nhà Thần Học) trích trong Fact and Fiction, in năm 1961. In lại trong _Bertrand Russell on God and Religion, do Al Seckel tuyển chọn; Prometheus Books, Buffalo, New York, xuất bản năm 1986.
Cơn Ác Mộng Của Nhà Thần Học
Tiến sĩ thần học xuất sắc Thaddeus nằm mơ thấy mình chết và rong ruổi đường lên thiên đàng. Sở học của ông đã chuẩn bị cho ông, nên tìm được đường không có gì khó khăn. Ông gõ cửa thiên đàng và bị xem xét kỹ lưỡng hơn là mình tưởng. Ông nói:
- Tôi xin được phép vào, vì tôi là con người tốt và đã cống hiến đời mình cho sự huy hoàng của Chúa.
Viên gác cổng nói:
- Con người à? Con người là cái gì? Và làm thế nào mà một sinh vật buồn cười như anh có thể xiển dương sự huy hoàng của Chúa được?
Tiến sĩ Thaddeus sửng sốt:
- Chắc chắn ông không thể không biết về con người được. Ông phải biết rằng con người là sản phẩm tối thượng của Ðấng Tạo hoá.
Viên gác cổng nói:
- Như vậy tôi xin lỗi đã làm buồn lòng anh, nhưng điều anh nói là chuyện tôi chưa biết bao giờ. Tôi sợ rằng trên này chưa ai từng nghe đến cái mà anh gọi là "con người". Tuy nhiên, vì hình như anh có vẻ không vui, anh sẽ có cơ hội tham khảo với viên quản thủ thư viện của chúng tôi.
Viên quản thủ thư viện, một sinh vật hình cầu có một ngàn con mắt và một cái miệng, đưa vài con mắt xuống nhìn tiến sĩ Thaddeus. Ông ta hỏi viên gác cổng:
- Cái này là cái gì?
Viên gác cổng đáp:
- Cái này nói rằng nó là thành viên của một loài gọi là "con người", sống ở một chỗ gọi là "Trái đất". Nó có một khái niệm kỳ dị là Ðấng Tạo hoá đặc biệt chú ý tới chỗ của nó và loài giống của nó. Tôi nghĩ rằng có lẽ anh có thể làm sáng tỏ cho nó.
Viên quản thủ thư viện ôn tồn nói với nhà thần học:
- Vậy có lẽ anh có thể nói cho tôi chỗ mà anh gọi là "Trái đất" ở đâu.
Nhà thần học nói:
- Ồ, đó là một phần của Thái dương hệ.
Viên quản thủ thư viện hỏi:
- Và Thái dương hệ là cái gì?
Nhà thần học hơi chưng hửng nói:
- Ồ, lãnh vực của tôi thuộc về Tri thức Thánh Linh, nhưng câu ông hỏi thuộc về tri thức thế tục. Tuy nhiên, qua các bạn bè trong ngành thiên văn, tôi cũng đủ biết để có thể nói cho ông hay rằng Thái dương hệ là một phần của Ngân hà.
Viên quản thủ thư viện hỏi:
- Và Ngân hà là cái gì?
- Ồ, Ngân hà một trong những Thiên hà, tôi nghe nói là có hàng trăm triệu cái như thế.
Viên quản thủ thư viện nói:
- À, à, anh không thể nào mong rằng tôi có thể nhớ một trong cái đám quá nhiều đó. Nhưng tôi nhớ trước kia đã nghe qua chữ "thiên hà". Thật ra, tôi tin là một trong những nhân viên thư viện cấp dưới của chúng tôi chuyên về thiên hà. Chúng ta hãy gọi ông ta đến để xem ông ấy có giúp được gì không.
Chẳng mấy chốc sau, nhân viên thư viện cấp dưới chuyên về thiên hà xuất hiện. Ở bề ngoài, ông ta là một thập nhị diện. Hiển nhiên trước kia bề mặt ông ta sáng bóng, nhưng bụi bậm trên kệ đã làm cho ông tối tối, mờ mờ. Viên quản thủ thư viện giải thích với ông ta rằng tiến sĩ Thaddeus trong khi nỗ lực giải thích về nguồn gốc của mình, đã nhắc đến thiên hà, và hy vọng khu thiên hà của thư viện sẽ giải đáp được.
Viên quản thư cấp dưới nói:
- À, tôi đoán là được nếu có thời gian, nhưng vì có một trăm triệu thiên hà, và mỗi cái có một bộ riêng, nên phải cần thời gian để tìm đúng bộ nào. Cái phân tử kỳ dị này muốn bộ nào?
Tiến sĩ Thaddeus ấp úng đáp:
- Ðó là cái gọi là "Ngân hà".
Viên quản thư cấp dưới nói:
- Ðược. Tôi sẽ thử xem.
Khoảng ba tuần sau, ông ta trở lại giải thích rằng phiếu thư mục cực kỳ hiệu quả trong khu thiên hà của thư viện đã giúp họ tìm thấy thiên hà mang số QX 321.762. Ông nói:
- Chúng tôi đã dùng đến tất cả năm ngàn thư ký trong khu thiên hà vào cuộc tìm kiếm này. Có lẽ anh nên gặp viên thư ký đặc trách về cái thiên hà đang tìm?
Viên thư ký được gọi đến có bề ngoài bát diện, một con mắt trên mỗi diện, và một cái miệng. Ông ta ngạc nhiên và choáng váng khi thấy mình ở trong một chỗ sáng chói như thế, cách xa hàng kệ mờ tối của mình. Tự chấn chỉnh lại, ông hơi rụt rè hỏi:
- Anh muốn biết gì về thiên hà của tôi?
Tiến sĩ Thaddeus mạnh dạn nói:
- Cái mà tôi muốn là biết về Thái dương hệ, một tập hợp những thiên thể quay quanh một trong những ngôi sao trong thiên hà của ông. Ngôi sao mà chúng quay quanh được gọi là "Mặt trời".
Viên quản thư Ngân hà nói:
- Hừm, tìm đúng thiên hà đã khó, mà tìm đúng ngôi sao trong thiên hà còn khó hơn nhiều. Tôi biết có vào khoảng ba trăm tỉ ngôi sao trong thiên hà, nhưng chính tôi không làm sao phân biệt chúng. Tuy vậy, tôi tin là có lần bên Hành chính cần một danh sách tất cả ba trăm tỉ ngôi sao, và bản danh sách đó còn lưu giữ dưới hầm. Nếu anh nghĩ là đáng tìm, tôi sẽ huy động lao động đặc biệt từ Cõi Khác để tìm ngôi sao đặc thù này.
Họ đồng ý rằng, vì vấn đề đã đặt ra và vì tiến sĩ Thad\deus rõ ràng là đang buồn bực, cách này có lẽ là tốt nhất.
Vài năm sau, một tứ diện mệt mỏi và chán nản trình diện trước viên quản thư cấp dưới thuộc khu thiên hà và nói:
- Cuối cùng tôi đã khám phá ra ngôi sao đặc thù có liên quan đến câu hỏi đã đặt ra, nhưng tôi hoàn toàn không thể tưởng tượng được tại sao nó lại dẫn đến một sự quan tâm đặc biệt nào. Nó rất giống với rất nhiều ngôi sao khác trong cùng thiên hà. Nó có kích thước và nhiệt độ trung bình, và được bao quanh bởi những vật thể nhỏ hơn rất nhiều gọi là "hành tinh". Qua một cuộc điều tra ngắn, tôi khám phá ra rằng ít nhất trên một số hành tinh này có ký sinh, và tôi nghĩ rằng cái vật đang đặt câu hỏi này phải là một trong những ký sinh đó.
Ðến đây, tiến sĩ Thaddeus bật lên một tiếng than thống thiết và phẫn nộ:
- Tại sao, ôi tại sao, Ðấng Tạo hoá đã giấu chúng con là những kẻ ngụ cư đáng thương của Trái đất, rằng chúng con không phải là nguyên nhân thúc đẩy Người tạo nên Thiên đàng? Trong suốt cuộc đời đằng đẵng của con, con đã chuyên cần phục vụ Người, đã tin rằng Người sẽ chú ý đến sự phục vụ của con và ban cho con Hạnh phúc Vĩnh cửu. Và bây giờ, dường như Người không biết đến cả rằng con hiện hữu. Ông nói với tôi rằng tôi là một vi sinh vật vô cùng nhỏ trên một vật thể tí ti quay quanh một thành viên không đáng kể của một tập hợp ba trăm tỉ ngôi sao, mà tập hợp đó cũng chỉ là một trong hàng triệu tập hợp tương tự. Tôi không thể chịu nổi, và không còn có thể tôn sùng Ðấng Tạo hoá của mình nữa.
Viên gác cổng nói:
- Tốt lắm, vậy anh có thể đi qua Cõi Khác.
Ðến đây nhà thần học tỉnh giấc. Ông lẩm bẩm:
- Quyền năng của Sa Tăng trên trí tưởng tượng mê ngủ của chúng ta thật khủng khiếp.
Y Cựu chuyển dịch
Mùa Hoa Ở Ðơn Dương
Nha Trang lên Ðơn Dương. Nha Trang vào Sài Gòn. Nha Trang ra Huế. Nha Trang, trạm đầu tiên trở về từ vùng rừng núi, để bắt đầu một chuyến đi cho một tên đãng tử. Sài Gòn và con đường Lê Lợi, Nguyễn Huệ lộng gió Bạch Ðằng, trên những cánh bướm xanh đỏ, áo lụa Hà Ðông uống ly chanh đường uống môi em ngọt. Huế cũng mời mọc từ một vùng trời như sương như khói, đứng lại trên cầu Trường Tiền nhìn về Bạch Hổ, nhìn xuống Vĩ Dạ, nhìn thành quách Ðại Nội mờ nhạt trong sương hay đứng chờ ai mong manh hao gầy theo ai cả đời cả kiếp. Còn Ðơn Dương thì sao? Có gì vui ở một thị trấn cô liêu nép mình dưới chân núi ấy? Nhưng cớ sao mỗi năm, đến khi mùa hoa hướng dương nở, chàng vẫn phải trở lại một lần.
Trở lại như một người đi tìm dư hương cũ để đốt lại những sợi khói của một thời lãng mạn tình si. Trở lại với bộ đồ trận bạc màu, với đôi giày saut bám đầy bùn đỏ, với đôi mắt trủng sâu và màu da tái mét như kẻ bị sốt rét kinh niên. Về lại Ðơn Dương, để tìm lại quán nhỏ bên đèo. Có người đàn bà chủ quán mỗi năm một già hơn để pha cho chàng một ly cà phê đặc biệt. Có buổi sớm Ðơn Dương dày dặc sương mù, và những chiếc xe chở gỗ rồ máy làm vang động cả một vùng đèo buổi sớm. Và cuối cùng có tà áo xanh da trời hiện giữa lối đi đầy ngập hoa vàng. Ðể mắt chàng phải chết ngợp. Ðể lòng chàng phải bồi hồi, nôn nao như thời tuổi trề Về lại Ðơn Dương bởi vì ít ra, Ðơn Dương vẫn còn có những điều mà chàng không sao cắt nghĩa được. Những đóa hoa nở rộ, những con bướm bay dập dìu, vẽ man dại của núi rừng, và hình dáng thân dấu của một người n Thùy ơi, nếu bảo rằng, con người chỉ có một thời để yêu, và một thời để nhớ, thì tôi có thời yêu và nhớ này. Bởi vậy, hằng năm tôi phải trở lại Ðơn Dương...
Năm nay, tôi lại trở về, nhìn lại em, rồi lại ra đi, em yêu dấu. Nhưng khác với mọi năm, lần này, chàng đã không còn mang bộ đồ trận, đôi giày saut bê bết bùn đỏ, để ngồi lại một mình trong quán cũ, để nhìn lại tà áo lụa tím in đậm giữa một biển hoa vàng hướng dương. Nha Trang vào Sài Gòn. Nha Trang ra Huế. Nha Trang lên Ðơn Dương. Mắt thử nhắm lại cũng thấy rõ những nơi chốn của quê hương, thân thiết như thể không rời, từ những con đường, những hàng cây, công viên, dòng sông, chiếc cầu, mái ngói. Ngày xưa, chỉ cần lên chiếc xe đò, hay chiếc máy bay quân sự, là Nha Trang, Huế, hay Sài Gòn sống lại với mình, vui buồn với mình. Nhưng bây giờ, chao ơi sao mà khó khăn quá độ. Bởi vì năm nay, chúng đã không còn thuộc về chàng nữa.
Nhưng dù muốn dù không chàng vẫn phải trở về cho dù mỗi tuần hai lần chàng phải đến đồn công an trình diện và không được phép rời thành phố. Chàng đạp chiếc xe đạp, tấm áo vá, chiếc mũ rơm lụp xụp, và trở về. Dù hàng trăm cây số. Dù trạm gát chằng chịt. Dù trên vai còn hằn chữ ngụy thù. Cứ đạp. Ðường về Sài Gòn. Ðường ra Huế. Ðường lên Ðơn Dương.
Ðất nước vẫn là đất nước. Vẫn màu xanh mây trời. Vẫn lũng thấp, đèo cao. Cứ đạp. Ðạp trên lối đi của đất nước, để đất nâng hai bánh xe, để mây trời hôn trên tấm thân tù tội, để nắng Việt Nam vàng hôn lên da thịt. Cứ đạp. Lũ bé con bên đường gọi kêụ Cứ đạp. Chiếc chuông đồng leng keng suốt bao dặm đường dài. Lũ công an nhìn theo. Cứ đạp. Qua trạm kiểm soát. Quan dòng sông. Qua những chiếc cầu trắng. Cứ đạp. Ðất mẹ, đất cha nức nẻ cằn khộ Ðất mẹ, đất cha tiêu điều thê thảm. Nhưng cớ sao, lần này, chàng muốn níu kéo tất cả những gì của trời đất núi sông vào trọn trong tâm hồn chàng. Tôi lại trở về nhìn lại em, rồi lại ra đi, em yêu dấu. Lần này, khác với hằng năm, tôi ra đi, xa thật là xa, có thể là vĩnh viễn. Có phải vậy không? Rõ ràng Thùy đã không nhận ra chàng. Nàng nhìn trân trân. Còn chàng, thì tha thiết:
- Anh là Tân...
Thùy thốt lên sửng sờ:
- Anh Tân!
- Phải, anh là Tân...
Thùy nghẹn ngào:
- Sao anh lại thay đổi như thế nàỳ. Thật em không ngờ
Chàng đứng yên. Người yêu dấu. Người mà tôi đuổi theo hoài theo mãi. Người mà vết thương đầu đời ngỡ đã được vá lành theo thời gian, nhưng lại càng lúc đau nhức. Người yêu dấu của tôi là đâỵ Người mà mái tóc thề chớm vai nghiêng nghiêng sau khung cửa sổ đưới ánh đèn mỗi đêm khi chàng đạp xe qua nhà nhìn qua hàng dậụ Người có cùng con đường đi học, thấy người làm dấu thánh giá khi chuông lể ngân nga xuống con dốc Phủ Cam. Người ở bên bờ thành, sau khung cửa, quì gối, đọc kinh hằng đêm, như một người thánh n Người đứng giữa đám bạn bè, trong lòng giáo đường, để hát lên những bài ngợi ca Chúa. Phải rồi, nhớ em, là nhớ vô cùng đôi mắt em thành khẩn, vai em vô tội hao gầy, mái tóc em chớm lấy bờ vai, và màu áo xanh da trời em nỗi bật giửa những màu áo bạn. Nhớ em, nhớ giọng ca cao vút của em, bay lên, cao lên, để lòng cứ ấp đầy lời Nhã Ca. Tôi yêu em, muốn em là của tôi, nhưng em là hình là bóng mờ đi trong vùng sương khói... Tôi đến với em, từ năm tuổi nhỏ, và mãi đến bây giờ, tuổi hoạn nạn lao linh. Tôi theo em, từ khi em còn bé, con gái nhà giàu, và bây giờ, tôi vẫn còn theo em, lúc gia đình em không còn chỗ dựa, lúc em bệnh hoạn, không thuốc men chăm sóc. Tôi theo em, câm nín, nín câm, lòng như oà lệ, mà miệng vẫn giã vờ nở nụ cười. Em không biết tôi lo cho em biết bao nhiêu lắm không. Em không biết lần này tôi muốn em đi cùng tôi hay không? Tôi không thể nhìn em bất lực trong nỗi bệnh hoạn
tàn tạ thế nàỵ Tôi biết... Tôi biết hết...
- Ðơn Dương vẫn như xưa. Vẫn hoa hướng dương vẫn vàng rực ở dưới chân đồi...
- Vâng anh Tân à. Mùa hoa luôn luôn trở về đúng hẹn. Nhưng cuộc sống đã có quá nhiều thay đổi. Anh xem họ đặt trạm kiểm soát ngay ở lối ra ch Nhà thờ đã đóng cửa. Noel vừa rồi, nhà nước không cho làm lể vào ban đêm...
Thùy buồn bả nói. Má nàng xanh xao]. Những sợi gân xanh thấy rõ trên hai bàn tay của nàng. Ngoài đường, trạm kiểm soát và những người lính an ninh trong bộ đồng phục vàng. Chiếc xe hàng đậu lạị Những người hành khách xuống xe. Ngày xưa, chàng đã từng có một giấc mơ, về lại Ðơn Dương dựng lên một căn nhà nhỏ, quên hết mọi hệ lụy thường tình. Nhưng bây giờ, không ai có quyền thực hiện giấc mơ, dù là giấc mơ nhồ Duới ánh nắng, đàn bướm dập dìu trên hoa. Những con bướm giao hợp nhau rồi con bướm đực rụng xuống đất, bình thản, tự nhiên như một qui luật của trời đất. Còn chàng, mắt mờ đi. Con bướm vàng ngày xưạ Khu vườn ấu thơ ngày xưạ Cánh bướm với đôi cánh mềm, theo chàng qua bao mùa tuổi trẻ. Cánh bướm đậu lại chốn nàỵ Ðể rồi, một ngày nó sẽ rụng cánh, tả tơi. Chàng đã tha thiết bốc lộ tấm lòng của chàng. Không giận hờn. Không trách móc. Mà đầy ấp lòng thương mến:
- Thùy ơi, hãy nghe anh nói đây. Bọn anh hiện tổ chức một chuyến đị Tối ngày mai, tàu khởi hành. Anh muốn Thùy hãy đi cùng anh. Ðây là cơ hội ngàn vàng...
Thùy hỏi lại:
- Ngày mai anh lên đường?
- Vâng, mọi thứ đã chuẩn bị. Thùy, em hãy nghĩ đến đời của em, tương lai của em. Anh biết Thùy bị yếu phổị Thùy cần qua đấy để điều trị bệnh...
Thùy nhìn ra ngoài khung cửa, lặng đi một đỗi. Nàng biết rõ hơn ai hết về bệnh trạng của nàng. Những cơn ho rũ rượi. Những cơn nóng lạnh bất thường. Bên tai, chàng vẫn tiếp tục thuyết phục:
- Hãy nghe anh, Thùy phải thoát nơi này. Thùy hãy nghĩ đến Thùy...
Thùy nhắm mắt lại. Vẫn gầy guộc. Vẫn xanh xao. Vẫn dịu dàng như lúc nàng nhắm mắt cầu nguyện. Ngoài sân, đám trẻ đã xuất hiện. Hôm nay, Thùy phải dạy chúng tập một bài thánh ca mới. Tự nhiên nàng muốn rưng rưng nước mắt. Từ lâu, nàng tự nguyện với lòng dâng cuộc đời cho Chúa. Nàng cũng vẫn biết, nàng chỉ là một con én bé nhỏ không thể làm hết mùa xuân. Nàng cũng vẫn hiểu là chàng yêu nàng tha thiết, muốn cứu nàng ra khỏi cõi tàn tạ tuyệt vọng. Nhưng nàng không thể bỏ những đứa bé bất hạnh kia. Mỗi sáng chủ nhật. Mỗi chiều thứ năm. Cô giáo trường làng, đã trở thành một người nữ tu, dù trên người chưa mặc áo đạỗ. Nếu mà ta bỏ đi, thì những em nhỏ này sẽ buồn biết mấỵ Bởi vậy nàng từ chối:
- Cám ơn anh đã lo lắng cho em. Nhưng em không thể bỏ nơi này mà đi. Anh xem, ngày xưa, Chúa sinh ra trong hoạn nạn và có mặt trong sự đau khổ và hoạn nạn. Em là con của Chúa, em cũng phải ở lại.
Năm nay, mùa hoa hướng dương đã trở lại. Màu hoa rộ vàng ở hai bên đường khi chàng lái xe qua. Ðất người với những phong cảnh quá sức tuyệt vời, nhưng có nơi nào để chàng nghĩ đến một chuyến đi trong kỳ nghỉ phép thường niên này. Những người cùng nhóm đã chúc mừng chàng có những ngày phép vui vẻ. Chàng đã cám ơn họ. Về đâu giữa cõi quê người. Con đường xa lộ thẳng bang căng tràn sức sống. Xa lộ 287, 95, 1. Hướng này dẫn về Washington D.C. Hướng kia dẫn về Philadelphia. Hướng nọ dẫn về New York.
Nhưng có hương nào để chàng còn được trở về, ngồi lại trong chiếc quán xưa trên đèo Ðơn Dương, để đốt lên những sợi khói tình si? Và còn được gặp lại một tà áo yêu dấu, nổi giữa một trời hoa hướng dương vàng rực...
Trần Hoài Thư