vhnt, số 240
4 January 1996
Trong số này:
thư vhnt..................................................................PCL
T h ơ :
1 - Trả về nguyên thủy ..........................Nguyễn Xuân Thưởng
2 - Ý tưởng im lặng ........................................Trương Chi
3 - Tìm sách ..................................................Hữu Nguyên
4 - Vườn bên cạnh ..........................................Phạm Chi Lan
5 - Tôi là ai ? .........................................................TTH
6 - Ta và em ...........................................................Chinh
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
7 - Nobel văn chương 1996:
Thân thế và sự nghiệp Wislawa Szymborska .........Nguyễn T Dũng
8 - Phỏng vấn Wislawa Szymborska:
Kiến tạo một nền thi ca phổ quát
giữa những rối loạn chính trị ........Dean Murphy/Phùng Nguyễn dịch
9 - Thơ Wislawa Szymborska: Âm thanh - cảm xúc - tư tưởng,
Sự hội tụ của những vần thơ .....................Ðông-A dịch
10- Niềm vui cầm bút ......Wislawa Szymborska/Nguyễn Tiến Dũng dịch
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
11- John Updike: Pygmalion ......................................Y Cựu dịch
Bạn đọc thân mến
vhnt số này đặc biệt chủ đề về nhà thơ Wislawa Szymborska, người vừa được giải Nobel văn chương năm nay, và cũng là số đặc biệt về những sáng tác về thơ và dịch thuật của những cây bút mới và quen tên của vhnt, mời bạn đọc thưởng thức.
Ngoài những bài thơ có ý tưởng sâu lắng, cô đọng và súc tích, còn có những bài thơ dịch chuyển nghĩa rất đạt, bài tiểu sử thân thế của nữ thi sĩ 73 tuổi Wislawa Szymborska, bài dịch phỏng vấn trích từ báo Los Angeles Times đầy đủ chi tiết về nhà thơ của văn học năm nay, và một truyện dịch khác của nhà văn John Updike, tạm gọi số này đặc biệt về "văn học ngoại ngữ".
Chúc bạn đọc một ngày đầu thu thật dễ chịu với tiết thu êm ả và lắng dịu, trong lòng và ở ngoại cảnh.
thân ái,
PCL/vhnt
trả về nguyên thuỷ
sáng nay
vũ trụ giật mình im bặt
lắng nghe
tiếng gọi hư không
nắng dậy sương mờ cỏ trắng thở hơi bốc khói
cuồn cuộn sóng thời gian quay về một điểm
nơi em nghìn năm sừng sững đợi chờ
rạng ngời tự cổ sơ
dừng lại trước em
ta ngửa mặt
trả hết thương yêu trong nhịp tim tiếng đập
từng giọt
từng giọt
máu hồng
nôn nả trên hành trình về đất
chan hòa với giòng sông nắng chếch
từng tế bào mở ngõ
từng mảnh óc vỡ tung
từng thớ phổi căng phồng
đưa hơi thở
trả về với mây cao gió lộng
với đỉnh núi
im lìm nuốt trọn cả lời xưa
chẳng còn gì mà vang vọng
khi mảng da thịt cuối cùng
tan trong hơi nóng mặt trời quay ngược vòng trái đất
hừng hực lửa hồng
thiêu tất cả trả về nguyên thủy
chỉ còn em
đứng đó nghìn năm
im phăng phắc
với lá vàng lác đác
và sương trắng giăng giăng
nguyễn xuân thưởng
'93
Ý Tưởng Im Lặng
tặng PCL
Buổi chiều ở một miền im lặng
Người thi sĩ điên vì thơ
La hét ngất ngưởng cùng chữ nghĩa
Thiên hạ xua đuổi hắn
Vết roi vào tâm tưởng khó rửa sạch
Cát bụi nào xóa được những vòng phấn?
Bài thơ đành chôn dưới lòng sông.
Buổi chiều ở một miền rét lạnh
Người thi sĩ treo cổ trên chiếc kim đồng hồ
Thời gian không ngừng lại
Từ phiến trời xám
Bầy chim bay không nổi
Chuông đổ lên đầu ai nặng nhức cả thân người.
Bài thơ đành ném vào vực tối.
Xua đuổi những nghĩ tưởng mê muội
Hắn chết dưới trăng non
Máu nhỏ theo mười ngón chân bụi bặm
Bài thơ từng chữ rơi xuống đời
Cùng hơi thở gấp
Thời gian không trả lời cho lần làm tình cuối
Với những câu thơ dị hình
của riêng một bóng người.
Một bóng người im lặng như những bài thơ.
Trương Chi
tháng mười, 1996
Tìm sách
Thư trung hữu nữ nhan như ngọc! *
Tìm mãi từng trang dáng đẹp xưa
Chỉ thấy mực nhòe, không thấy bóng
Chợt bên giá sách hiện người mơ.
Nàng cười, chữ cũng cười trên giấy
Sách bỗng thơm và mực bỗng tươi
Lòng bỗng bâng khuâng đời thực mộng
Bàng hoàng ý cũ động hồn thơ.
Hữu Nguyên
* Lệ Học Thiên -励学篇 của vua Tống Chân Tông Triệu Hằng
Vườn bên cạnh
cho S., vừa mới qua đời
Sáng mở cửa bước vào đời sống
những chiếc lá chấp chới mở lời chào tôi
ba mươi mấy tuổi giấy trắng tinh
chưa một lần viết chúc thư
tôi buồn như mùa thu
lại trở về một lần nữa
những chiếc lá rụng vàng úa
đã cất dọn kỹ vào ngăn kéo mùa đông
lặng lẽ trở lại thăm vườn cũ
tôi cất dọn ký ức mình
vun quén và làm phân bón
kỷ niệm.
Hôm qua, người đàn bà hàng xóm
(vẫn chào hỏi tôi những buổi sáng quét lá)
đã đi theo những chiếc lá
người ta đến giở tung căn nhà của bà lên,
thu dọn những tàn tích của một cuộc đời
đống rác đồ đạc thừa thãi chất đầy sân trước
những con quạ đen trên hàng dây điện
gọi nhau quang quác
Tôi rùng mình nhớ đến
tiếng chiêu hồn của những vong linh
Ngày mai sẽ có một cái tên mới
trên mục cáo phó
chia buồn với những kẻ đang vui
một cái tên lạ lẫm trong hàng bia mộ
nghĩa trang chật thêm một khoảnh đất
Dòng sống vẫn nhịp đều đặn
chiếc đồng hồ nhễu nhạo chảy xuống
tíc tắc ...tíc tắc...
từng giọt ...
từng giọt ...
chứng minh cho sự dai dẳng của trí nhớ
lăn lộn vật vã với thời gian.
Từ một góc nhìn nơi cửa sổ
từ góc vườn có lần tôi vun lá khô
đẩy qua vuông sân người đàn bà hàng xóm
Con mèo hoang không chủ đột nhiên
kêu lên những tiếng nao nao khó chịu
Con mèo lục bới một điều gì không rõ
trong đống rác trước sân nhà
meo meo ... thôi thúc ...
Tôi không thể cười nổi cái điều trông thấy -
bức ảnh chụp rách nát trong móng vuốt con mèo hoang
tơi tả lẫn lộn giữa đám rác rến
bức ảnh của người đàn bà
vừa đi theo những chiếc lá
Mùa thu có vài gợn gió nhẹ
rùng mình.
Phạm Chi Lan
18-10-96
Tôi Là Ai?
Tôi ngửa bàn tay
đường chỉ chạy nhì nhằng rối rắm
những vết chai sạm màu tơi tả
năm ngón tay xoè đi khắp ngã
ngã nào dành riêng tôi ?
Ai đặt tên cho mỗi cuộc đời
Ai ngỏ cữa để bước vào một lối
Tôi là kẻ lỗi lầm ư ?
Khi sinh ra làm một con người
Không! Không! Không!
Hạt bụi cũng nên màu của đất
giọt mật góp nhụy đời vô hạn
nứớc mắt rơi đã khóc cạn lòng
Tôi ra đời nơi dòng sông không băng giá
điệu ru xưa đưa những con đò
chiếc nôi đi cả đời chưa hết
giấc mơ xanh và lũy tre già
Khi ra đời ai nghĩ mình con của Mẹ của Cha
con ông X, ông A nào đó
tôi không khóc nhưng nghe môi mằn mặn
cuộc đời kín lối đi qua
Tôi là ai? Ai gọi dùm câu hỏi?
Tôi là ai? Cho mãi đến bao gi
TTH
1987
Ta và Em
Giữa mùa
phiêu lãng
hồn nhiên
Ta và em
đã
muộn phiền
đứt hơi
Nằm nghe
gió nổi
trên đời
Ðưa tay
gõ những
sầu vơi
sa mù.
Chinh
WISLAWA SZYMBORSKA: THÂN THẾ VÀ TÁC PHẨM!
VÀI DÒNG TIỂU SỬ:
Wislawa Szymborska sinh ngày 2 tháng 7 năm 1923 tại tỉnh lỵ Bnin, một tỉnh nhỏ miền Tây Ba Lan (bây giờ là Kor'nik), gần Poznan. Từ năm 1931 bà sống ở Cracow, nơi bà theo học văn chương và xã hộ học Ba Lan tại Ðại học Jagellonian giữa năm 1945 và 1948. Tháng 3 năm 1945 bà đã ra mắt đầu tiên với bài thơ "Szukam slowa" ("Tôi đi tìm thế giới") trên một tờ phụ bản hàng tuần của tờ nhật báo Dziennik Polski, và trong suốt thời gian ngay sau vchiến tranh bà đã tiếp tục xuất bản thơ trên nhiều tờ báo và tập san xuất bản định kỳ. Từ năm 1953 tới năm 1981 bà đã ở trong ban biên tập của tuần báo Zycie Literackie ( Ðời sống Văn học) nơi ở mục "Ðọc sách tuỳ nghi", bà đã điểm sách về đủ thể loại: từ du lịch, nấu ăn, làm vườn và ma thuật cho đến lịch sử nghệ thuật, thơ của T.S. Eliot và những vần thơ vô nghĩa của Edward Lear. Szymborska cũng đã dịch một số lượng tương đối thơ ca, nhất là thơ Baroque và Agrippa d'Aubigné của Pháp. Trong suốt thập niên 1980, bà đã hợp tác dưới biệt hiệu Stancykówna trong ấn bản Arka tại BaLan và trong tạp chí lưu vong Kultura xuất bản tại Paris. Thơ của bà có thể tìm thấy trong nhiều ngôn ngữ châu Âu cũng như qua tiếng Ả Rập, tiếng Hebrew, tiếng Nhật và tiếng Trung Hoa.
NHỮNG GIẢI DANH DỰ:
* Giải Văn chương thành phố Cracow 1954.
* Giải bộ Văn hóa Ba Lan 1963.
* Giải Goethe 1991.
* Giải Herder 1995.
* Tiến sĩ danh dự của Ðại học đường Adam Mickiewicz tại Poznan 1995.
* Giải Văn bút Ba Lan 1996.
THƠ đã xuất bản:
* "Dlatego zyjemỵ" Czytelnik 1952, wyd. 2 1985("Ðó là lý do tại sao chúng ta sống ").
* "Pytania zadawane sobie Poezjẹ" Wydawnictwo Literackie 1954 ("Tự vấn")
* "Wolanie do Yetị Wierszẹ" Wydawnictwo Literackie 1957 ("Gọi tên Yeti").
* Sól. PIW 1962 ("Muối").
* "Wiersze wybrane." PIW 1967 ("Những bài thơ chọn lọc").
* "Poezje wybrane." PIW 1967 ("Những bài thơ chọn lọc").
* "Sto pociech." PIW 1967 ("Không ngừng vui thú").
* "Poezje." PIW 1970 ("Thơ").
* "Wszelki wypadek." Czytelnik 1972 ("Lẽ ra có thể").
* "Wybór wierszy." PIW 1973 ("Những bài thơ chọn lọc").
* "Tarsjusz i inne wierszẹ" Krajowa Agencja Wydawnicza 1976 ("Tarsius và những bài thơ khác").
* "Wielka liczba." Czytelnik 1977 ("Một con số lớn").
* "Poezje wybrane II" LSW 1983 ("Những bài thơ chọn lọc II").
* "Ludzie na moscie" Czytelnik 1986 ("Những người trên chiếc cầu").
* "Wieczór autorski: wiersze" Anagram 1992 (" Ðêm của những tác giả: Những bài thơ").
* "Koniec i poczatek." Wyndawnictwo a6 1993 (" Cuối và Ðầu").
ÐIỂM SÁCH:
* "Lektury nađbowiazknow." Wydawnictwo Literackie 1973, 1981, 1992 (" Ðọc sách tuỳ nghi").
SÁCH XUẤT BẢN BẰNG TIẾNG ANH:
* "Sounds, Feelings, Thoughts: Seven Poems." Dịch và giới thiệu bởi Magnus Krynski và Robert A. Maguire. Princeton Univ. Press 1981.
* "People on a Bridge". Giới thiệu và dịch bởi Adam Czerniawski. Forest Book 1990.
* "View with a Grain of Sand." Selected poems. Hartcourt Brace&Company 1995.
NHỮNG BÀI THƠ CHỌN LỌC CỦA BÀ XUẤT HIỆN TRONG NHỮNG TUYỂN TẬP SAU ÐÂY:
* "Polish Writing Today" do C.Wieniewska biên tập, 1967.
* "The Burning Forest. Modern Polish Poetry" do Susan Bassnett and Piotr
Kuhiwczak dịch và hiệu đính, 1988.
VĂN CHƯƠNG
* E. Balcerzan, "Kregi wtajemniczenia", Wydawnictwo Literackie 1982.
* J. Kwiatkowski, Swiat wsród nie-swiatów. Trong: Jerzy Kwiatkowski, "Remont pegazów. Czytelnik 1969.
* "The Mature Laurel. Essays on Modern Polish Poetry" do Adam Czerniawski biên tập. Seren Books 1991.
* R. Matuszewski, "Z bliska. Szkice literackie." Wydawnictwo Literackie 1981.
* S. Melkowski, "Rówiesnicy i bracia starsi." Czytelnik 1980.
* Ạ Sandauer, Pogodzona z historia. Trong: "Poeci czterech pokolen." Wydawnictwo Literackie 1977.
(Source: http://www.nobel.se/announcemnet-96/presseng96.html)
Phỏng vấn nhà thơ Wislawa Szymborska
Dean Murphy, LA Times Oct. 13, 1996
Phùng Nguyễn dịch
Dean Murphy là trưởng văn phòng của LA Times ở Warsaw. Cuộc đối thoại với Wislawa Szymborska được thực hiện bằng tiếng Ba Lan và chuyển dịch qua Anh ngữ bởi Ela Kasprzycka.
oOo
Wislawa Szymborska: Kiến Tạo Một Nền Thi Ca Phổ Quát Giữa Những Rối Loạn Chính Trị
Zakopane, Ba Lan
Ba tuần trước đó, nhà thơ Wislawa Szymborska rời căn apartment 2 phòng khiêm nhường của bà ở vùng phía Nam thành phố Krakow để xa lánh sự ồn ào rối rắm của việc sửa chữa nhà cửa đang diễn ra ở khu chung cư. Bà âm thầm tìm đến khu nghỉ mát ưa thích của các nhà văn nhà thơ Ba Lan trong vùng núi non thanh tịnh Zapokane, chiếm ngụ một căn phòng nhỏ - không có cả phòng tắm hay điện thoại - ở tầng hai của khu hội quán dành cho các nhà sáng tác văn học.
Bà lão hồi hưu Szymborska với mái tóc bạc búi thành lọn vốn yêu mến sự cô độc của mình và những ngày tháng trôi lặng lẽ, đang làm dở bài thơ mới nhất của bà. Mọi sự có vẻ tiến triển như dự định, bà nói, cho đến ngày 3 tháng 10 năm 96, khi "trời bỗng dưng sập xuống" trên người bà! Hôm đó chính là ngày Hàn Lâm Viện Thụy Ðiển ở Stockhom công bố rằng nhà thơ ít được biết đến Szymborska đã đoạt giải Nobel Văn Chương 1996.
Giải thưởng đã là một ngạc nhiên không những cho Szymborska mà còn cho cả hầu hết mọi người ở Ba Lan, không phải vì bà được xem như là không xứng đáng nhưng chính vì thơ của bà hầu như chỉ mang tính phổ cập (phổ quát) hơn là giới hạn trong những chủ đề chính trị đã trở thành một đặc tính của nền thi ca Ðông Âu kể từ Ðệ Nhị Thế Chiến.
Không giống như nhà thơ Ba Lan đoạt giải Nobel Văn chương mới đây nhất - Czeslaw Milosz vào năm 1980 - Szymborska không phải là một người phản kháng dưới thời Cộng Sản; và ngay cả thời điểm của vinh dự này (giải Nobel) cũng chẳng trùng hợp với một biến cố quan yếu nào trong lịch sử của Ba Lan (1980 là năm xảy ra cuộc khởi nghĩa của công nhân Ba Lan ở xưởng đóng tàu Gdansk). Và cũng không giống như thi sĩ Zbigniew Herbert, người được dư luận cho rằng có nhiều triển vọng nhất trong cuộc chạy đua tranh giải văn chương năm nay, thơ của Szymborska được ngưỡng mộ nhiều nhất do "văn phong trau chuốt, đẽo gọt tinh tế" của bà, như Hàn Lâm Viện Thụy Ðiển đã nêu ra, chứ không phải vì những ẩn dụ chính trị nặng nề, tẻ ngắt.
Không hẳn là Szymborska, năm nay 73 tuổi, đã hoàn toàn tránh khỏi móng vuốt chính trị trong suốt 50 năm làm bạn với chữ nghĩa. Trên thực tế, chính trị đã cung cấp một hậu cảnh bất biến cho những tác phẩm của bà ngay từ lúc khởi đầu văn nghiệp. Một phần lớn những bài thơ đầu tiên của Szymborska tôn vinh chủ nghĩa Cộng Sản - thời kỳ u ám mà bà hiện đang chối bỏ - nhưng bà đã dành nhiều thì giờ trong giai đoạn sau đó của văn nghiệp để phát hành những ấn phẩm đã giúp xếp loại bà vào hàng ngũ chống Cộng của những tư tưởng gia cấp tiến. Trong thời kỳ "quân quản" ở những năm đầu của thập kỷ 1980, thơ của bà được ấn hành dưới một tên giả trong mạng xuất bản "chui" và lưu vong của văn học Ba Lan. Nhưng ngay từ khi đoạn tuyệt với chủ nghĩa Stalin, Szymborska đã cương quyết xa rời chiều hướng sáng tác theo khuynh hướng tư tưởng chủ đạo, thay vào đó, bà dựa vào năng lực quan sát của chính mình để khắc phục dần các chủ đề (chủ thể) sáng tạo.
Là một quả phụ đơn chiếc, Szymborska không xem trọng những cơ hội xuất hiện trước quần chúng, và bà từ chối đọc thơ của mình trước đám đông. Mối liên hệ chính của bà với thế giới bên ngoài là mục "Non-Compulsory Reading," một mục thường xuyên trên báo do bà phụ trách. Tuy vậy, trong khung cảnh thuần khiết của trại sáng tác ở Zapokane, tuần vừa qua bà đã nói chuyện cỡi mở và thân tình về sự nghiệp văn chương và gánh nặng của danh vọng đến đột ngột.
Sau đây là phần phỏng vấn của Dean Murphy (DM) với Wislawa Szymborska (WS):
DM: Tại sao sự "riêng tư" lại vô cùng quan trọng đối với bả
WS: Nếu không, tôi sẽ không viết được! Tôi không thể hình dung bất cứ nhà sáng tác nào lại không phấn đấu cho sự bình an và tịch mịch của họ. Bất hạnh thay, thi ca không được sinh ra trong sự ồn ào, trong đám đông hỗn tạp, hay trên xe đố Phải có bốn bức tường vây, và phải biết chắc là điện thoại sẽ không reo. Sáng tạo là như thế đó!
DM: Một số bài thơ của bà có tính hướng nội, một số khác thể hiện rõ những tuyên ngôn chính trị. Bà có xem làm thơ là một sứ mạng?
WS: Tôi không tin là tôi có một sứ mạng nào đó. Ðôi khi tôi có nhu cầu tinh thần để nói về những điều khá đại thể của thế giới, đôi khi về những điều riêng tư. Tôi thường viết cho một cá nhân, mặc dù tôi vẫn muốn có nhiều độc giả cá nhân như vậy. Có vài nhà thơ sáng tác cho đám cử tọa đông đảo trong những đại sảnh, nhờ vậy họ có thể sinh tồn qua cái gì đó có tính tập thể. Tôi thì lại mong mỗi độc giả có được mốt quan hệ song phương với từng bài thơ của tôi.
DM: Có phải thơ của bà là một bày tỏ của sự tự mãn? (niềm kiêu hãnh?)
WS: Nếu ông cho răng đó là một hình thức của phô trương, có lẽ đúng vậy. Tôi chưa hề thực sự nghĩ đến điều đó một cách nghiêm túc, nhưng đi kể lể với người không quen về cảm xúc của mình thì có phần nào giống như đem linh hồn mình rao bán. Về mặt khác, điều này mang đến niềm hạnh phúc lớn lao! Có những bất hạnh xảy đến trong cuộc đời tất cả chúng ta. Bất kể mọi sự, khi những điều khủng khiếp như thế xảy ra cho một thi sĩ, ít nhất nhà thơ này có thể mô tả những nỗi bất hạnh đó Ở một phương diện nào đó, có nhiều người khác đã bị trừng phạt phải mang mễnh nỗi bất hạnh trong câm nín.
DM: Một vài nhà phê bình cho rằng thơ của bà "xa vắng" và "lãnh đạm," trong khi bà cho rằng chúng "kín đáo" và "riêng tư." Liệu có thể là cả hai?
WS: Mỗi chúng ta đều có một bản năng rất phong phú và có thể nhìn ngắm sự vật một cách khách quan - từ một khoảng cách, và trong cùng một lúc, có điều cá biệt để nói về chúng. Tôi đang cố gắng nhìn vào thế giới, và nhìn vào chính tôi, từ những góc độ (quan điểm) khác nhau. Tôi nghĩ rằng nhiều nhà thơ sở hữu tính "kép" này.
DM: Có sự đặc thù Ba Lan trong thơ của bà không? Liệu thơ của bà có còn giống như vậy nếu bà sinh ra ở một nơi khác?
WS: Tôi không biết. Nhưng tôi thực muốn được sống đời sống của nhiều người khác, rồi đem so sánh chúng với nhau!
DM: Bà thích nhất bài thơ nào của mình?
WS: Bài thơ tôi ưa thích là bài mà tôi dự tính viết vào lúc đó. Tôi phải thích bài thơ ấy thì mới chịu ngồi xuống viết chứ! Khi bài thơ góp mặt với đời, in trong một cuốn sách, tôi để mặc nó tự lo liệu lấy mình.
DM: Tại sao bà làm thơ?
WS: Nó xảy đến, vậy thôi. Có lẽ tại bầu không khí trong gia đình tôi. Ðó là một kiểu gia đình "thông tháị" Chúng tôi đề cập rất nhiều đến sách vỡ. Chúng tôi đọc nhiều, nhất là thân phụ tôi. Tôi bắt đầu làm thơ khi mới được 5 tuổị Nếu tôi làm được một bài thơ -- thơ con nít -- khiến cha tôi thích, ông sẽ móc túi cho tôi tiền. Tôi không nhớ rõ là bao nhiêu, nhưng số tiền rất là lớn đối với tôi hồi đó.
DM: Trong những năm khởi đầu, bà theo trường phái hiện thực xã hội, ca ngợi chủ nghĩa Cộng Sản. Tại sao?
WS: Thật là khó giải thích! Bây giờ người ta không hiểu được bối cảnh thời đô Tôi đã thực sự muốn cứu rỗi nhân loại, nhưng tôi đã chọn nhằm đường lối tệ hại nhất. Tôi đã làm như vậy vì tình yêu đối với con người. Rồi sau tôi hiểu ra rằng mình không nên yêu Loài Người, mà tốt hơn nên chỉ ưa thích mọi người. Ưa thích chứ không yêu. Tôi không yêu nhân loại, tôi ưa thích mỗi cá nhân. Tôi cố tìm hiểu mọi người, nhưng tôi không thể cho họ sự cứu rỗi.
Ðó là một bài học nặng nề cho tôi. Ðó là lỗi lầm của thời tuổi trẻ. Lỗi lầm xuất phát từ thiện tâm, và bất hạnh thay, rất nhiều nhà thơ cũng đã lầm lẫn như vậy. Sau này họ phải vào tù vì những thay đổi trong tư duy. Tôi may mắn thoát khỏi tù tội bởi vì tôi không có được bản sắc của một nhà hoạt động chính trị.
DM: Phong trào cách mạng "Ðoàn Kết " đã thay đổi thơ của bà như thế nào?
WS: Nó đã không ảnh hưởng đến sự sáng tác của tôi. Bắt đầu những năm 1954-55 (sau cái chết của Joseph Stalin), tôi đã bắt đầu suy nghĩ khác đi --cùng một cách nghĩ như hiện tại.
Kể từ đó, tôi chưa hề thay đổi cách nhìn của mình đối với thế giới bên ngoài. Sau tất cả những lỗi lầm, sau tất cả những điều tôi đã trải qua trong những năm đầu thập kỷ 1950, tư tưởng của tôi đã thay đổi hẳn. Ðời sống của tôi như là một công dân Ba Lan đã có những thay đổi quan trọng kể từ phong trào "Ðoàn Kết," nhưng như là một nhà thơ thì chưa.
DM: Vài nhà phê bình đã ghi nhận rằng nền chuyên chính gây hứng khởi cho một nền văn học đồ sộ tại Ðông Âu, trái lại nền dân chủ thì chưa có được khả năng đó. Bà chỉ mới xuất bản có mỗi một cuốn sách kể từ những biến đổi [về cơ chế chính trị] trong năm 1989. Có liên hệ gì với nhận xét trên?
WS: Nhất định là không. Cứ mỗi 6, 7 năm, tôi chỉ xuất bản một tuyển tập. Tôi vẫn luôn luôn làm việc như vậỵ Và tôi vẫn viết về những điều khác nhau -- cùng một cung cách tôi bắt đầu từ những năm 1950.
DM: Bạn hữu của bà bảo rằng bà có óc khôi hài cao độ, vốn thường phản ảnh trong thơ của mình. Óc khôi hài có tầm quan trọng ra sao trong công việc sáng tác?
WS: Không phải là tôi khoe khoang, nhưng hình như tôi có một chút năng khiếu khi nói về tình bằng hữu. Ðương nhiên là tôi đang nói về việc kết bạn với từng cá nhân. Tôi khó có thể hình dung ra một tình bạn chỉ hoàn toàn dựa trên tri thức - Tôi nghĩ rằng ngay từ lúc khởi đầu, tình bạn có nghĩa là không những chỉ chia sẻ với nhau những ưu tư, mà còn cả những nụ cười.
DM: Bà có phấn đấu để đưa tiếng cười vào trong thơ của mình?
WS: Ðiều đó đến một cách tự nhiên. Tôi không cố tình làm như vậy. Tuy nhiên, đôi khi tôi cũng có sáng tác những bài thơ chỉ để làm cho người khác cười vui. Thí dụ như tôi viết thư theo thể thơ hài hước năm câu (limmerick) theo kiểu Anh mà tôi rất ưa thích, những người bạn tôi viết trả lời theo cùng thể thơ này.
DM: Bà đánh giá cao sự khôi hài, nhưng bà cũng sáng tác những bài thơ buồn thảm. Thể loại nào thích hợp với bà hơn?
WS: Ðiều giải hai thể loại này cũng dễ thôi. Ta không thể chỉ có một cảm xúc duy nhất đối với thế giới. Ði vào cuộc phiêu lưu mà tôi gọi là đời sống này, đôi khi ta nghĩ đến như là niềm tuyệt vọng, và đôi khi như một hạnh ngộ. Ðôi khi động cơ cho thi ca là cơn mê hoặc bởi những sự vật chung quanh ta. Lúc còn nhỏ tôi chẳng bị điều gì làm cho ngạc nhiên, vậy mà bây giờ tôi lại ngạc nhiên về hầu như mọi điều. Những vật nhỏ nhặt tôi nhìn thấy, một chiếc lá hay một nụ hoa, làm tôi kêu lên, "Tại sao như thế nàỷ Cái gì vậy?"
Hiếu kỳ là một động cơ khác [cho thi ca]. Tôi tò mò về con người, về cảm xúc của họ, những gì họ đã trải qua, ý nghĩa của đời sống này là gì. Những ngạc nhiên thú vị, sự hiếu kỳ và nỗi buồn phiền, tất cả cùng đến với nhau cho chính tôi.
DM: Một vài bài thơ của bà chứa đựng nỗi bi quan về hiện tình thế giớị Bà không có con cái; phải chăng tương lai quá u ám cho con cháu chúng ta?
WS: Thực ra tôi muốn biết đã có bao nhiêu người trên thế giới lúc tôi mới sinh ra, và hiện nay có bao nhiêu người. Tôi nghi rằng nhân số trên toàn thế giới đã gia tăng gấp đôi. Ðây là điều tôi vô cùng quan tâm. Tôi ra đời trong một thành phố nhỏ cạnh Poznan, nơi có chiếc hồ lớn. Người ta đến đó câu cá, và ta có thể bơi thuyền trong hồ. Bây giờ chiếc hồ trở thành nhỏ xíu. Cỏ dại mọc đầy trong đô Một ngày nào đó hồ sẽ cạn queo! Cứ nghĩ đến trên thế giới có bao nhiêu chiếc hồ cạn queo như vậy - và sẽ luôn luôn có thêm nhiều người - rồi ta sẽ bắt đầu cảm thấy không được thoải mái cho lắm.
Có nhiều người bảo: "Cứ sinh đẻ cho nhiều vào, trái đất có thể nuôi hết tất cầ" Tôi không đồng ý với điều này. Chúng ta đã biết có bao nhiêu người chết vì thiếu dinh dưỡng và vì những căn bệnh lẽ ra đã bị tiêu diệt. Tôi không thể nói về những điều này với óc khôi hài.
DM: Liệu bà có nhấn mạnh những quan tâm nêu trên trong vị trí của người thắng giải Nobel?
WS: Tôi cũng chưa biết. Tôi chưa có thì giờ suy nghĩ kỹ càng về những điều mình muốn nóị Không có cả thì giờ để suy nghĩ. Tôi cần khoảng bốn ngày bình yên và tĩnh mịch tuyệt đối để tập trung tư tưởng.
DM: Có lẽ bà sẽ đưa ra một quan điểm cá nhân? Bà có một triết lý về đời sống hay không?
WS: Không. Tôi nghĩ "nó" đến một cách tự nhiên. Tôi biết, hoặc nhiều hoặc ít, điều nào phải điều nào quấy. Tôi không hề nói những điều tôi làm là đúng, nhưng tôi biết khi tôi làm điều gì sai. Tôi nhận thức được điều đó. Tôi có một lương tâm.
DM: Bà có óc quan sát kỳ diệu. Ðiều này đến từ đâu?
WS: Tôi không thể hỏi một họa sĩ tại sao lại vẽ như thế này mà không như thế kia. Tôi không thể hỏi một nhạc sĩ tại sao âm nhạc của ông ta bỗng dưng thăng hoa. Tôi biết họ không thể giải thích được. Tôi cũng vậy. Có thể đó là thiên bẩm. Nhưng, tất nhiên là phải trau dồi một chút.
DM: Bà làm thơ như thế nào? Sử dụng máy điện toán?
WS: Không bao giờ với máy điện toán. Tôi cần một liên hệ trực tiếp giữa bộ óc và bàn tay. Tôi không phải là mẫu người hiện đại. Tôi là một người cổ lỗ - Tôi làm thơ với cây bút mực.
DM: Viện Hàn Lâm Thụy Ðiển ghi nhận rằng số lượng tác phẩm của bà khá khiêm nhường. Tại sao bà không sáng tác nhiều hơn?
WS: Ðôi khi tôi để qua một bên một việc [đang làm dở] và bắt đầu một công việc khác. Ðôi khi tôi suy nghĩ về hai ba bài thơ cùng lúc. Họ bảo tôi có chừng hai trăm bài thơ. Thực ra tôi đã sáng tác nhiều hơn thế. Tôi viết nhiều hơn tôi xuất bản. Ông xem, tôi còn có cả cái thùng rác này nữa. Nếu tôi viết cái gì đó vào buổi tối, tôi xem lại vào ngày hôm sau, có khi bài thơ yên nghỉ... trong thùng rác. Và đôi khi bài thơ may mắn hơn.
DM: Liệu bà có khuyến khích những người tuổi trẻ làm thơ?
WS: Mỗi người phải tự quyết định về nỗi hiểm nghèo này. Trong một giai đoạn nhất định nào đó của đời sống, khi bắt đầu lìa xa tuổi ấu thơ, người ta bước vào cái thế giới của hiểm nguy và của trách nhiệm cá nhân, và không làm sao tránh được. Thử làm thơ xem sao. Có thể sẽ là những bài thơ chẳng ra gì, và bị vất bỏ. Hoặc có thể nhà thơ sẽ thành công.
Source: L. A. Times Sunday October 13, 1996
Âm thanh - Cảm xúc - Tư tưởng - sự hội tụ của những vần thơ
Xin giới thiệu với bạn đọc một số bài thơ của nữ thi sĩ Wislawa Szymborska, người vừa được giải Nobel về Văn học. Dịch thơ của bà, có lẽ, tôi đã làm một công việc mạo hiểm. Sự mạo hiểm không chỉ ở chỗ, như Viện Hàn Lâm Thụy Ðiển từng nhận xét, "sự đa dạng phong cách trong thơ của bà khiến công việc dịch thuật trở nên cực kỳ khó khăn", mà còn ở chỗ tôi đã dịch qua ngôn ngữ thứ hai. Nhưng dù sao cũng vẫn còn may hơn câu châm ngôn đã có từ ngàn xưa của ông bà "tam sao thất bản". Bạn đọc nào không tin ở sự mạo hiểm thì thử dịch thơ Ðường từ tiếng Anh mà xem. Những bài thơ sau đây tôi dịch qua bản tiếng Anh của M.Krynski và Ạ Maguire trong tập "Âm thanh, Cảm xúc, Tư tưởng" do Nhà xuất bản Văn học ở Krakow in năm 1989, và có đối chiếu với bản dịch của S. Baranczak và C. Cavanagh. Những chú thích trong bản dịch là của tôi.
Mời bạn vào thế giới Âm thanh - Cảm xúc - Tư tưởng của Wislawa Szymborska!
Returns
1972
He came home. Said nothing.
Though it was clear something unpleasant had happened.
He lay down in his suit.
Put his head under the blanket.
Drew up his knees.
He's about forty, but not at this moment.
He exists - but only as in her mother's belly
seven layers deep, in protective darkness.
Tomorrow he will give a lecture on homeostasis
in megagalactic cosmonautics.
For now he's curled up, fallen asleep.
Trở về
Về nhà chẳng nói năng chi
Rõ ràng khó chịu điều gì xảy ra
Nằm lăn nguyên áo quần là
Rúc đầu dưới đống chăn mà so đo
Nằm ôm đầu gối quắp co
Tứ tuần trạc tuổi, không do lúc này
Tựa nằm trong bụng mẹ dầy
Bảy lần da với tối đầy chở che
Ngày mai giảng vũ trụ về
Thái thiên hà thể nội bề ổn sinh
Giờ đây cuộn lấy thân hình
Thiếp đi một giấc nguyên trinh say nồng
Chú thích:
* homeostasis : trạng thái tiến tới thể tương đối ổn định nội tại bởi các quá trình sinh lý.
oOo
Two Monkeys by Brueghel
1957
I keep dreaming of my graduation exam:
in a window sit two chained monkeys,
beyond the window floats the sky,
and the sea splashes.
I am taking an exam on the history of mankind:
I stammer and flounder.
One monkey, eyes fixed upon me, listens ironically,
the other seems to be dozing -
and when silence follows a question,
he prompts me
with a soft jingling of the chain.
Hai con khỉ của Brueghel
Ðó là ngày thi tốt nghiệp tôi thấy trong mơ
Hai chú khỉ xích ngồi trên bậu cửa
Ngoài trời mây lờ lững
Sóng biển rì rào vang
Môn thi về lịch sử loài người
Tôi lúng túng lắp ba lắp bắp
Một chú khỉ nhìn tôi chăm chú
Và lắng nghe mai mỉa làm sao
Còn chú kia dường lơ mơ ngủ
Nhưng khi tôi chưa biết trả lời
Chú nhẹ nhàng khích lệ
Bằng chuỗi xích lanh canh.
Chú thích:
* Brueghel: chưa rõ là ai. Dòng họ Brueghel ở xứ Bắc Bỉ - Hà Lan cổ, sản sinh ra nhiều họa sĩ nổi tiếng, trong đó có Brueghel Ông (1525-1569), tác giả một số bức tranh nổi tiếng như "Icarus đang rơi".
oOo
In Praise of Self-Deprecation
1976
The buzzard has nothing to fault himself with.
Scruples are alien to the black panther.
Piranhas do not doubt the rightness of their actions.
The rattlesnake approves of himself without reservations.
The self-critical jackal does not exist.
The locust, alligator, trichina, horsefly
live as they live and are glad of it.
The killer-whalés heart weighs one hundred kilos
but in other respect it is light.
There is nothing more animal-like
than a clear conscience
on the third planet of the Sun.
Ngợi ca tự nghĩ xấu
Phàn nàn chi ó về mình
Ngại ngùng xa lạ tính tình báo đen
Cá săn chẳng mảy may quen
Nghi ngờ đúng đắn những phen chộp mồi
Rắn chuông tự mãn ngay thời
Làm chi có chó lạ đời tự phê
Sán, cào, sấu, én nào chê
Sống như vẫn sống phởn phê đời trần
Quả tim cá mập trăm cân
Nhưng mà mặt khác muôn phần nhẹ tênh
Vượt trên thú tính bồng bềnh
Chẳng gì có thể giữa mênh mông đời
Ngoài lương tâm sáng trong soi
Trên hành tinh hệ mặt trời, thứ ba.
Chú thích:
*piranha: một loại cá săn bắt loại cá khác. Người Trung Hoa dịch là "nhục thực ngư".
*alligator: một loại giống như cá sấu ở Nam Mỹ, nhưng vai phình to hơn cá sấu bình thường.
*trichina: một loại sán sống ký sinh trong cơ bắp động vật có vú. Người Trung Hoa dịch là "toàn mao trùng".
*the third planet of the Sun: hành tinh thứ ba của Mặt Trời, tức Trái Ðất. Trái Ðất là hành tinh thứ ba gần Mặt Trời nhất sau sao Thủy và sao Kim.
oOo
Vietnam
1967
Woman, what's your namẻ - I don't know.
Where were you born, where do you come from? - I don't know.
Why did you dig a hole in the ground? - I don't know.
How long have you been hiding here? - I don't know.
Why did you bite the hand of friendship? - I don't know.
Don't you know we will do you no harm? - I don't know.
Whose side are you on? - I don't know.
There's a war on, you must choosẹ I don't know.
Does your village still exist? - I don't know.
Are these your children? - Yes.
Việt Nam
Chị ơi, chị tên gì? - Tôi không biết.
Chị sinh ra ở đâu và đến từ đâu? - Tôi không biết.
Nguyên cớ gì chị đào hầm mặt đất? - Tôi không biết.
Bao lâu rồi chị trú ẩn ở đây? - Tôi không biết.
Sao chị nắm chặt tay thân thiện? - Tôi không biết.
Chúng tôi không hại gì, chị có tin không? - Tôi không biết.
Chị theo phía bên kia hay ở phía bên này? - Tôi không biết.
Chiến tranh đã xảy ra, chị đành phải chọn. - Tôi không biết.
Xóm làng chị còn nguyên vẹn chứ? - Tôi không biết.
Ðây là con của chị phải không? - Vâng.
Việt Nam
Chị ơi, tên chị gọi sao?
Vùng nào nguyên quán, nơi nào đến đây?
Chị đào hầm hố chi đầy?
Thân thương chị nắm chặt tay cớ gì?
Bao lâu trú ẩn mỗi khi?
Chúng tôi không hại chị gì, chị tin?
Chị theo phía đó, bên mình?
Chiến tranh đã vậy chị đành chọn thôi.
Xóm làng chị có tơi bời?
Lắc đầu không biết, chẳng lời nào thông
Còn đây con chị phải không?
Ngật đầu thưa dạ, tấc lòng hiểu nhau.
Ðông A dịch
THE JOY OF WRITING by Wislawa Szymborska - 1967
Where through the written forest runs that written doe?
Is it to drink from the written water,
which will copy her gentle mouth like carbon paper?
Why does she raise her head, is it something she hears?
Poised on four fragile legs borrowed from truth
she pricks up her ears under my fingers.
Stillness- the word also rustles across the paper
and parts
the branches brought forth ny the word "forest."
Above the blank paper lurking, set to spring
are letters that may compose themselves all wrong,
besieging sentences
from which there is no rescue.
In a drop of ink therés a goodly reserve
of huntsmen with eyes squinting to take aim,
ready to dash down the steep pen,
surround the doe and level their guns.
They forgot that this is not real life.
Other laws, black on white, here hold sway.
The twinkling of an eye will last as long as I wish,
will consent to be divided into small eternities
full of bullets stopped in flight.
Forever, if I command it, nothing will happen herẹ
Agaisnt my will no leaf will fall
nor blade of grass bend under the full stop of a hoof.
Is there such a world
over which I rule sole and absolutẻ
A time I bind with chain of signs?
An existence perpetuated at my command?
The joy of writing.
The power of preserving
The revenge of a mortal hand.
*Source: http://redfrog.norconnect.no/~poems/poems/0068.html
NIỀM VUI CẦM BÚT
Con hoẵng cái trong truyện chạy đi đâu qua khu rừng trong truyện?
Phải chăng nó sẽ uống nước từ nguồn nước trong truyện,
bắt chước cái miệng dịu dàng của nó như tờ giấy than?
Tại sao hoẵng này lại ngẩng đầu, như nghe được điều chi?
Ðứng vững trên 4 chân dễ gẫy mượn từ chân lý
nó vểnh tai lên dưới những ngón tay của tôi.
Sự tĩnh lặng - cả câu đó cũng làm cho giấy kêu xoàn xọat
và chia phân những nhánh được mang lại bởi chữ "rừng."
Trên tờ giấy trắng rình mò, đã vọt ra
những mẫu tự có thể bao gồm
những câu văn sai lệch vây hãm , không được cứu độ.
Trong một giọt mực đã có sẵn
cây bút đã sẵn sàng lia xuống,
để những người thợ săn mắt lé vì ngắm,
bao quanh con hoẵng cái và ngắm bắn.
Họ quên rằng đó không phải là đời thực.
Những lề luật khác, đen trắng lẫn lộn, đã kiểm sóat ở đây.
Cái nháy mắt sẽ kéo dài lâu như ý tôi muốn,
sẽ được chia thành từng mảnh nhỏ vĩnh cửu
đầy những viên đạn bị tốp lại trên không.
Nếu tôi chủ động, mãi mãi sẽ không có gì xảy ra.
Ðối lại ý muốn của tôi, là sẽ không rơi
cũng như nhánh cỏ sẽ không cong dưới một chân thú dẫm lên.
Có không một thế giới
nơi tôi cai trị một mình và tuyệt đối?
Có chăng một thời tôi gắn liền với chuỗi dấu hiệu?
Một thực thể được kéo dài do lệnh của tôỉ
Niềm vui cầm bút.
Năng lực duy trì.
Sự trả thù của bàn tay tử thần.
Nguyễn Tiến Dũng chuyển ngữ
(10/18/1996)
John Updike: Sinh năm 1932 tại Pennsylvania. Tốt nghiệp đại học Harvard và sau đó theo học trường nghệ thuật ở Anh, ông có tài năng đa dạng: viết tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ, kịch, viết lời hát cho nhạc kịch, truyện cho trẻ em... Tác phẩm của ông viết về những người bình thường trong cuộc sống, những việc thường ngày, những kinh nghiệm thường thấy, bằng một giọng văn chính xác và mạch lạc.
Pygmalion lần đầu tiên đăng trong tập san The Atlantic, 6/1981. In lại trong tuyển tập nhiều tác giả Sudden Fiction, do Robert Shapard và James Thomas tuyển chọn; Peregrine Smith Books, Salt Lake City, xuất bản năm 1986. Pygmalion là tên một nhà điêu khắc trong thần thoại Hy Lạp. Pygmalion yêu bức tượng vệ nữ do chính tay mình tạo ra, nên cầu xin cho tượng có sự sống; cuối cùng thần thánh cho Pygmalion được toại nguyện.
oOo
Pygmalion (*)
Cái mà hắn thích ở người vợ trước là tài bắt chước của nàng; sau bữa tiệc của họ hay của một cặp khác, nàng sẽ làm sống động lại cho hắn những gì họ đã thấy, khuôn mặt, giọng nói, vặn vẹo cái miệng xinh xắn của nàng thành những cái méo mó, mang lại trong loá mắt sự hiện diện của những người quen vắng mặt.
- Ôi dào, nếu tôi th...thiệt tình - Gwen nói làm sao? - nếu tôi th...th...thiệt tình chú ý tới chuyện _dy chì_ -
Và hắn, người chồng, sẽ cười lăn cười bò, dù cho Gwen là nhân tình bí mật của hắn và sẽ trở thành người vợ thứ hai của hắn. Cái mà hắn thích ở nàng là sự sống động trên giường, và cái mà hắn không thích về người vợ trước là cách nàng nhờ hắn xoa lưng, và rồi dưới bàn tay lao động của hắn, đêm này qua đêm khác, nàng rơi vào giấc ngủ.
Trong những năm đầu của lần cưới vợ sau, sau khi hắn và Gwen dự tiệc trở về, hắn chờ đợi trong vô thức trò bắt chước, trò biểu diễn của nàng bắt đầu. Hắn còn gợi ý:
- Em thấy em trai người chủ nhà ra sao?
Gwen chỉ nói:
- Ồ, ông ta có vẻ rất dễ chịu.
Bản năng phụ nữ cảm thấy hắn vẫn còn trông đợi, nàng nói thêm:
- Vô hại. Có lẽ hơi chán.
Mắt nàng lấp lánh khi nghe thấy trong sự yên lặng chờ trông của hắn một đòi hỏi không lời, và với giọng hơi ngọng dễ thương như trẻ con, nàng bật ra:
- Th...thiệt tình anh muốn nói gì?
- Ồ, không. Không có gì. Chỉ là - Marguerite gặp hắn một lần vài năm trước và đã phải chú ý ngay về sự ngu đần huênh hoang của hắn. Cách mà hắn ngậm ống điếu và chấm dứt mỗi câu nói bằng "Anh có theo kịp tôi không?"
Gwen lạnh lẽo nói, và quay lưng lại để cởi cái áo dự tiệc mầu bạc bó sát của nàng:
- Em nghĩ ông ta rất dễ chịu.
Trong khi uốn éo cởi áo xuống mông, nàng quay đầu lại và thách thức nói thêm:
- Ông ta biết rất nhiều kẽ hở để tránh thuế.
- Anh dám cá là hắn biết.
Pygmalion lơ mơ chế giễu, tê người vì cái cảnh vợ hắn rướn tới trước, trần truồng, về phía hắn và cái giường ân ái của vợ chồng hắn. Hắn cảnh cáo vợ:
- Khuya quá rồi.
Nàng nói, tắt đèn:
- Ồ, thì có sao.
Lần bắt chước đầu tiên của Gwen là về Ed, người chồng sau của Marguerite; họ gặp nhau hoàn toàn bất ngờ ở buổi khiêu vũ gây quỹ cho hội Cứu Lấy Cá Voi có thiệp mời gửi đi bừa bãi. Sau đó nàng oang oang trong phòng ngủ riêng tư của họ:
- Ô-hô-hô, vậy anh là tiền thân cao quý của tôi đó!
Nàng còn nói thêm:
- Cao quý, cái đít tôi. Lão ghét anh đến nỗi anh làm lão gây sự.
Hắn nói:
- Anh làm lão gây sự? Anh nghĩ lão rất dễ chịu, trong một tình trạng có thể thành lúng túng.
- Ừ, đúng... úng rồi.
Nàng đồng ý, bắt chước lão Ed nhiệt tình, và trong loá mắt để hình ảnh hơi đờ đẫn và uể oải của một gã đàn ông đạo đức giả nhập vào thân hình thường khi nhỏ nhắn và tròn trịa của mình.
- Giữa _chúng mình_ không có gì lúng túng, hô hô.
Ðược khuyến khích, nàng thêm:
- Và nói nghe coi, ông bạn già, tại sao chi phiếu trả tiền cấp dưỡng con của ông bạn không còn đến đúng ngày giờ nữa vậy?
Hắn cười lăn cười bò, mê mẩn thấy cô vợ của hắn đã đến chỗ hắn cho là đúng mực nữ tính - cảm tính uyển chuyển nhạy bén với môi trường con người, sự đáp ứng dễ biến đổi bị đưa đẩy theo những giòng cuốn của Tự Nhiên. Nỗi sợ hãi của hắn là không hiểu thế gian, trừ phi có một người đàn bà diễn dịch lại cho hắn. Giờ đây, mỗi khi đi dự tiệc trở về, hắn sẽ hỏi nàng nghĩ sao về người này người kia. Gwen sẽ đứng trong bộ đồ lót, và nghĩ ngợi như trên sân khấu. Nàng sẽ bất chợt tuyên bố, thánh thót nhại lại:
- Nà...ào, cưng của em, nếu không vì Bồ Ðào Nha tập hợp lại thì _th...thiệt tiình_ Âu châu sẽ không còn quốc gia nào tồn tại.
- Ồ, thì có sao.
Hắn sẽ phản đối, vui thích nhìn nét mặt xinh đẹp của nàng vặn vẹo thành vẻ vụng về quái lạ và hợm hĩnh.
Gwen sẽ hỏi như đóng kịch nhà nghề:
- Bà ta làm như thế nào? Cái cằm làm sao, kiểu như lăn từ bên này qua bên kia mà không nghiến răng.
Hắn hoan hô:
- Em làm đúng rồi!
Nàng tiếp tục bằng giọng giả vờ:
- Dĩ nhiên anh bbb...iết đó, hồi xưa là Hy Lạp, nhưng bây giờ toàn là lũ Ả RRRập gớm ghiếc...
- Ô, đúng, đúng.
Hắn nói, mặt nhức vì cười quá nhiều, quá tự hào. Nàng đã trở nên hoàn toàn đối với hắn.
Trên giường nàng nhắc:
- Khuya quá rồi.
- Muốn xoa lưng không?
- Mmmm. Như vậy th... thiệt là sướng.
Trong lúc tay trái hắn lao động trên làn da mịn, ấm và mềm, vợ hắn - phần nhỏ nhoi trong nàng chỉ thuộc riêng nàng - chìm ra ngoài tầm với; đêm này qua đêm khác, nàng rơi vào giấc ngủ.
Y Cựu dịch
chú thích:
Pygmalion là vua xứ Cypreus
Aphrodite là vị thần biến tượng thành người