vhnt, số 220
26 August 1996
Trong số này:
thư vhnt..................................................................PCL
T h ơ :
1 - Thơ Robert Frost: The road not taken / Hoang lộ .........Trần Thuyên
2 - Dịch thơ Rabindranath Tagore (2/2) ........................Sung Nguyễn
3 - Thơ Nguyễn Hiện Nghiệp:
- Tịnh tâm / Cõi không / Giữa những phồn hoa .....................
- Nụ cười quan sương / Hòn đá hư vô / Tự trầm ...............
- Vẽ đời / Gặp người giữa phố ........Nguyễn Hiện Nghiệp
4 - Lá / Ðếm nắng ..........................................Hoàng Cầm
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
5 - Arthur Schopenhauer nói về bút pháp ..............Nguyễn Huy Thạch
6 - Bàn về Trần Mạnh Hảo và bài viết về Man Nương ..Ng T Dũng
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
7 - Súp cho người bệnh .................Hennie Aucamp/ Trần Phú dịch
8 - Vì sao lạc ....................................................Vũ Trung
vhnt #220 đầu tuần nội dung gồm nhiều sáng tác dịch thuật. Ngoài phần thơ tuyển dịch do Trần Thuyên và Sung Nguyễn phụ trách, vhnt sẽ tiếp tục gửi đến bạn đọc những sáng tác đặc sắc được chuyển ngữ để giới thiệu những tác phẩm văn học thế giới có bản sắc đặc biệt và mới lạ. Xin giới thiệu "Súp cho người bệnh" của Hennie Aucamp, một nhà văn của Nam Phi, được Trần Phú giới thiệu và chuyển ngữ.
Phần "Diễn đàn văn học", để tiếp nối cho đề tài thảo uận về Phạm Thị Hoài và Trần Mạnh Hảo, xin gửi đến vhnt một bài viết ngắn góp ý của anh Nguyễn Tiến Dũng đã đăng trên diễn đàn o-thuoc.
Chúc bạn đọc một ngày thứ hai vui và hăng say .
thân ái,
PCL/vhnt
The Road Not Taken
Two roads diverged in a yellow wood,
And sorry I could not travel both
And be one traveler, long I stood
And look down one as far as I could
To where it bent in the undergrowth;
Then took the other, as just as fair,
And having perhaps the better claim,
Because it was grassy and wanted wear;
Though as for that, the passing there
Had worn them really about the same,
And both that morning equally lay
In leaves no step had trođen black.
Oh, I kept the first for another day!
Yet knowing how way leads on to way,
I doubted if I should ever come back.
I shall be telling this with a sigh
Somewhere ages and ages hence:
Two roads diverged in a wood, and I -
took the one less traveled by,
and that has made all the difference.
Hoang Lộ
Hai lộ nhỏ giao nhau nơi rừng vàng lá
Ta không thể phân thân theo lối cả hai
Lặng đứng nhìn theo một đường vào cuối ngã
Uốn khuất vào sau bụi cỏ mọc la đà
Lữ khách là ta, một đời, mãi mãi.
Ta chọn đường kia, vì đường nào cũng mới
Với những mọc mời lôi cuốn bước chân ta,
Với lối cỏ xanh mong lót gót chân đời,
Cả hai, chẳng mấy khi người biết tớị
Ta vẫn là ta. Vẫn quen. Và vẫn lạ.
Buổi bình minh ấy, hai con đường nằm như thế
Trong lá vàng khô chưa đậm vết chân hằn.
Con đường thứ nhất, dành khi khác nhé!
Dẫu biết ngày mai chốn cũ khó quay về.
Ðường nối theo đường, đời ta, ắt hẳn.
Sẽ một ngày xa kia chuyện ta ngồi kể
Trong buổi hoàng hôn lên hơi thở linh hồn:
Ðã có lần ta trước đời hai lối rẽ,
Ðã chọn riêng ta nẻo vắng kẻ đi về,
Ðể tận cùng ta sống một lần rất trọn.
Trần Thuyên chuyển ngữ
(cho L.)
31.
My heart, the bird of the wilderness, has found its sky in your eyes.
They are the cradle of the morning, they are the kingdom of the stars.
My songs are lost in their depths.
Let me but soar in that sky, in its lonely immensity.
Let me but cleave its clouds and spread wings in its sunshine.
Trái tim anh, cánh chim hoang dại
Ðã tìm thấy trong mắt em một khung trời
Ôi, ánh mắt êm đềm như nôi hiền buổi sáng
Là vương quốc tuyệt vời của các vì sao
Và những bài ca chìm đáy mắt em sâu
Hãy đôi cánh tim anh
vút cao lên trong bầu trời em mở
đắm lao vào sự cô vắng mênh mang
Hãy đôi cánh tim anh
xé cụm mây phiêu lãng
và xoải bay trong rực rỡ nắng vàng
57.
I pluck your flower, O world!
I press it to my heart and the thorn pricked.
When the day waned and it darkened, I found that the flower had faded,
but the pain remained.
More flowers will come to you with perfume and pride, O world!
But my time for flower-gathering is over, and through the dark night I
have not my rose, only the pain remains.
Cuộc sống ơi, hoa đời anh hái
Ôm mạnh vào tim, gai nhọn buốt hồn
Ngày sẽ nhạt đi và đêm đen dần lại
Hoa kia đã phai rồi, chỉ còn nỗi niềm đau
Cuộc sống ơi, sẽ có nhiều hoa thơm và đẹp nữa
Nhưng
anh đã qua rồi thời đuổi bướm nhặt hoa
Ðêm vắng lặng, khi nụ hồng đã khuất
Chỉ còn anh, chỉ còn nỗi niềm đau
58.
One morning in the flower garden a blind girl came to offer me a flower chain in the cover of a lotus leaf.
I put it round my neck, and tears came to my eyes.
I kissed her and said, "You are blind even as the flowers are.
"You yourself know not how beautiful is your gift."
Một buổi sáng, trong vườn hoa,
Có cô bé mù lòa
đến và tặng ta một vòng hoa trong chiếc lá sen
Nước mắt lưng tròng, khi choàng hoa vòng quanh cổ
"Cô bé ơi," - Ta nói với nụ hôn -
"Em cũng như hoa chẳng thấy được gì
Cũng không biết món quà em tuyệt mỹ"
85.
Who are you, reader, reading my poems an hundred years hence?
I cannot send you one single flower from this wealth of the spring, one
single streak of gold from yonder clouds.
Open your doors and look abroad.
From your blossoming garden gather fragrant memories of the vanished
flowers of an hundred years before.
In the joy of your heart may you feel the living joy that sang one
spring
morning, sending its glad voice across an hundred years.
Là ai?
Người đang đọc những vần thơ từ trăm năm trước
Ta chẳng gởi được cho người
một cành hoa của mùa xuân trù phú,
một nét mây vàng, rượm cuối chân trời
Hãy mở cửa ra
Và hãy nhìn xa hơn nữa
Từ vườn hoa, đời người đang nở rộ
Xin góp nhặt dư hương của hoa tàn trăm năm cũ
Nghe trong tim vào một sáng mùa xuân
Hát bài hoan ca tràn nhịp sống,
Gởi tiếng lòng vượt tiếp cả trăm năm.
Rabindra Nath Tagore
(The Gardener - 1913)
Sung Nguyễn dịch
tịnh tâm
có đâu cuộc sống trăm năm
chỉ là một phút tịnh tâm, thấy mình
cõi không
biết mình đang đứng nơi nầy
nhưng nào đâu biết nơi nầy là đâu
lạc ta vào cõi hư vô
sắc không, không sắc - ta tô một màu
rồi về giữa bến sông sâu
giũ tay áo rộng, qua cầu tử sinh
giữa những phồn hoa
ta trôi vào những giòng đời
đời trôi vào những đổi dời trong ta
ta đi giữa những lời ca
như đi bên những phồn hoa cuộc đời
nụ cười quan sương
trên môi em, gửi nụ cười
trăm năm sau, giữ, gọi đời quan sương
tìm nhau giữa một thiên đường
thấy nhau giữa những vô thường trong nhau
hòn đá hư vô
một viên đá lăn xuống hồ
lăn tăn sóng nước hư vô nại hà
một ta ôm gốc thông già
nghêu ngao vọng tiếng hát ca giữa đời
tự trầm
ta-bây-giờ đã bặt xa
ta-trên-trái-đất vốn là dư âm
ta-bây-giờ đứng trầm ngâm
nhìn ta-trên-trái-đất nằm vô ưu
vẽ đời
gặp người trên phố vẽ tranh
bảo rằng: Ta vẽ âm thanh cuộc đời.
trên tranh, nét vẽ rối bời
người than: Chắc vẽ cả đời chưa xong.
gặp người giữa phố ngồi không
bảo rằng: Tranh đã vẽ xong, lâu rồi.
một tờ giấy trắng xé đôi
ném lên hóa đám mây trôi lững lờ
gặp người giữa một cơn mơ
nguyễn hiện nghiệp
Lá
Có nét buồn khôi nguyên
Chìm sâu vào đằng đẵng
Có tiếng ca ưu phiền
Chìm sâu vào lẳng lặng
Và dai dẳng em ơi
Là cơn say khát lá
Cứ thon mềm xanh lả
Trong men quê bồi hồi
Ðếm nắng
Sơn ca chắt nắng
Chuỗi trân châu trút xuống mâm vàng
Tiếng gì dưới ấy
có phải tiếng vang
Tìm tiếng vang mình
Chui vào cửa hẹp
Cửa khép
Trách gì ai sáo trúc gây mê
Trách gì ai cặm cụi vót tre
đan lồng vàng tía
ngỡ trời mây trăm sắc ước ao
Chị Bỏ Em Đi
Cánh nhẹ trên sông
Chiếc lá mơ rừng
Hát lừng ngọn gió
Khóc đỏ chiều quê
Nhớ về mắt Em
ới thương là thương
Ðộng gót mưa xuân
Cưới mặt trời hè
Ới thương là thương
Gà con nhớ mẹ
Cỏ vàng rung chân
Ới thương là thương
Hoàng Cầm
Arthur Schopenhauer Nói Về Bút Pháp
Arthur Schopenhauer (1788-1860), nổi tiếng là một triết gia. Tác phẩm lớn nhất của ông có tên là Thế Giới Như Ý Chí Và Ý Tượng. Ông chủ trương ý chí là nền tảng của vũ trụ và tự căn bản ý chí là tội lỗi. Và ông suy ra cứu cánh của đời người là tiêu diệt ý chí ấy. Schopenhauer hy vọng tác phẩm này của ông sẽ được tiếp nhận như một cuộc cách mạng trong triết học. Thế nhưng, trái với lòng mong mỏi của ông, người ta bỏ quên tác phẩm này. Người đọc thường cho Schopenhauer có tư tưởng bi quan, và ghê sợ xa lánh ông vì tính cách tàn bạo của tư tưởng ông. Khi Nietzsche, một môn đệ của Schopenhauer, tìm cách "triết lý với một cây búa", người ta hiểu rằng chính Schopenhauer đã cho Nietzsche mượn "cái búa" ấy. Tuy nhiên, dù thích hay không thích triết lý của ông, người đọc không thể không công nhận Schopenhauer là một nhà văn tài ba. Trong một bài viết bàn về bút pháp, cách đây hơn 100 năm, ông đã cho thấy những suy nghĩ về mặt bút pháp của ông. Những suy nghĩ đó cho đến nay vẫn còn giá trị, rất giá trị, rất hiện đại. Nietzsche nhận xét: Bút pháp của Schopenhauer đôi khi khiến tôi nhớ tới bút pháp của Goethe, nhưng không nghĩ tới một mẫu mực nào khác ở Ðức. Vì ông biết nói một cách đơn giản những điều thật sâu xa... *
1.
Từ lâu, rất lâu cho mãi đến hôm nay, trong sinh hoạt văn học nghệ thuật của chúng ta có khá nhiều, nếu không muốn nói là quá nhiều bài viết, sách vở, sáng tác... loại nhiều lời, ít ý; quá nhiều những lối viết khoa trương, rỗng tuếch; quá nhiều ngòi bút "chuyên dùng loạn đao, chửi bới lung tung, đập phá lung tung, ca ngợi lung tung, tâng bốc lung tung... như một cách tiến thân" trên đường văn chương". Lý do nào văn chương loại này vẫn tiếp tục tồn tại? Cớ gì người cầm bút vẫn theo đuổi một cách viết nghèo nàn như thế? Những người làm báo viết văn "đao to búa lớn", những nhà văn viết những câu văn dài lê thê, lết thết, rườm rà, đi vòng tròn, loanh quanh, lẩn quẩn... là đối tượng của Schopenhauer.
Ðúng, chính Schopenhauer là ngưòi lên án những lối viết khoa trương rỗng tuếch. Chính ông là người chỉ trích nặng nề những kẻ dùng đao to búa lớn. Ông cũng lột mặt nạ một cách tàn nhẫn những kẻ bịp bợm chuyên dùng kiếm khí giả. Ông cho rằng những người cầm bút này thay vì diễn tả điều mình muốn nói, thì lại che giấu điều đó đi, bởi vì họ biết rằng những điều mà họ muốn nói đó quá tầm thường, không hấp dẫn nổi ai. Cho nên họ phải nói những điều tầm thường ấy bằng một thứ ngôn ngữ "kỳ dị khủng khiếp" hi vọng che giấu được sự nghèo nàn của tư tưởng họ. Schopenhauer cũng không tha thứ những ngòi bút "chuyên dùng loạn đao, chửi bới lung tung, tâng bốc lung tung... như một cách để tiến thân." Schopenhauer cho rằng bút pháp là diện mạo của tâm hồn và bảo đảm hơn cả nét mặt. Bút pháp là dấu chỉ của tính tình.
Theo ông, bắt chước bút pháp của người khác chẳng khác nào đeo mặt nạ, không những nó chả làm cho mặt mũi mình đẹp đẽ gì hơn mà nó còn tạo ra sự kinh tởm gớm ghiếc. Thà là một khuôn mặt xấu xí còn hơn là một khuôn mặt mang mặt nạ.
Ông cho rằng tất cả những ngòi bút t*m thường đều cố gắng che đậy bút pháp tự nhiên của mình, bởi vì trong thâm tâm họ biết rằng họ không thể viết đúng như họ nghĩ. Họ cố gắng làm cho độc giả tin rằng tư tưởng của họ còn đi xa hơn thế rất nhiều. Họ nói bằng những câu dài lê thê lết thết, quanh co ngoắt nghéo, thiếu tự nhiên. Họ đặt ra những chữ mới và viết những câu văn rườm rà đi vòng quanh, lẩn quẩn trong một hình thức trá hình, giả dối.
Vẫn theo lời Schopenhauer, không có gì dễ bằng viết để cho không ai hiểu gì cả. Và ngược lại, cũng không có gì khó bằng viết để diễn tả những điều sâu xa bằng một ngòi bút đơn giản, để ai cũng có thể hiểu được.
Không gì khiến cho một nhà văn sơ hở hơn là khi ông ta cố gắng trưng bày một cách lộ liễu thứ trí thức mà ông ta không có. Bởi vì bao giờ cũng vậy, nếu một người làm bộ có bất cứ điều gì thì y như rằng hắn ta khiếm khuyết điều đó.
Schopenhauer nói đây là lý do tại sao chúng ta ca ngợi một nhà văn khi nói rằng ông ta ngây thơ. Bảo rằng ông ta ngây thơ, bởi vì ông ta không cần trốn tránh việc tự biểu lộ con người chân thật của mình. Trong khi một ngòi bút thiếu tự nhiên bao giờ cũng bị người đọc loại bỏ, thì một nhà văn ngây thơ đồng nghĩa với quyến rũ.
Trên thực tế bất cứ một nhà văn lớn nào cũng đều cố gắng trình bày tư tưởng của mình một cách gọn gàng và minh bạch. Sự đơn giản bao giờ cũng được coi như là dấu hiệu của sự thật. Nó còn là dấu hiệu của tài năng. Bởi vì bút pháp không là cái gì hết ngoài cái bóng của tư tưởng. Và một bút pháp tối tăm hay tồi tệ có nghĩa là một đầu óc trì độn hay rối loạn. Và vẫn theo Schopenhauer qui luật thứ nhất cho một bút pháp hay đó là tác giả có điều gì để nói.
Ông vẫn thường nhắc đi nhắc lại rằng nhiều nhà văn muốn tỏ ra có điều gì để nói, nhưng thực ra họ chẳng có gì để nói cả. Lối viết lách kiểu này đẻ ra thứ văn chương chải chuốt và mơ hồ, đẻ ra lối diễn tả lê thê và bừa bãi, đẻ ra lối văn phí phạm vô ích, tuôn ra "một trận lụt lội" đầy những tĩnh từ. Nó cũng đẻ ra sự dối trá che đậy sự nghèo nàn ý tưởng dưới hình thức một bài viết lết thết không bao giờ dứt.
2.
Một nhà văn thực sự là người có điều gì muốn nói, để nói và diễn tả điều đó một cách đơn giản nhất, thẳng thắn nhất. Ông ta hiểu rõ ý nghĩa những chữ mà ông sử dụng.
Một tác phẩm tẻ ngắt khi tác giả của nó không có ý tưởng nào minh bạch để truyền đạt. Tuy nhiên cần phải lưu ý điều này: sự buồn tẻ chỉ có tính cách tương đối.
Thật vậy, một độc giả có thể nói "tác phẩm này tẻ ngắt" bởi vì ông ta không thấy thích thú vấn đề được đề cập trong tác phẩm đó. Ðiều này có nghĩa là tri thức người đọc ấy bị giới hạn.
Do đó, một kiệt tác có thể tẻ ngắt một cách chủ quan cho một cá nhân này hay một cá nhân khác, và ngược lại, một tác phẩm tệ nhất cũng có thể lôi cuốn một cách chủ quan một cá nhân nọ hay một cá nhân kia.
Nếu một người có thể suy nghĩ về bất cứ điều gì thì bao giờ hắn cũng có thể diễn tả nó bằng những từ ngữ trong sáng, dễ hiểu và khúc triết. Những ngòi bút nào tạo ra những câu văn khó hiểu, tối tăm, rắc rối và mơ hồ, chắc chắn họ không hiểu rõ điều họ muốn nói là điều gì. Họ muốn tỏ ra hiểu biết điều mà họ không biết, tỏ ra có suy nghĩ điều mà họ không suy nghĩ.
3.
Vì sự phóng đại thường tạo ra hiệu quả trái ngược với điều mà người ta nhắm tới, cho nên một chữ thừa luôn luôn làm hỏng mục tiêu của người viết. Ðó là điều Voltaire muốn nói khi ông phát biểurằng: Tĩnh từ là kẻ tử thù của danh từ.
Thế nhưng, như chúng ta vẫn thường thấy, đa số người viết cố gắng che đậy sự nghèo nàn của ý tưởng dưới những câu văn dài lê thê, tràng giang đại hải. Schopenhauer nhắc người viết cần ghi nhớ: Ðiều gì vô nghĩa, điều đó không đáng đọc.
Một nhà văn phải biết tiết kiệm thì giờ, lòng kiên nhẫn, và sự chú ý của người đọc. Lược bỏ một vài điểm hay ho nào đó bao giờ cũng tốt hơn là thêm thắt điều không đáng nói. Bởi vì bí quyết để làm cho những bài viết trở nên tẻ ngắt là nói tất cả. Do đó, nếu có thể, chỉ nên nói cái cốt yếu thôi. Dùng nhiều lời để truyền đạt ít ý là dấu hiệu của một ngòi bút tầm thường. Thâu tóm nhiều ý trong ít lời là dấu hiệu của một tài năng. Tất cả những chữ, những câu có thể bớt đi thì nên bớt đi, bởi vì nếu giữ lại, thì chính những chữ, những câu đó sẽ gây tổn hại cho tác phẩm.
Kẻ nào viết cẩu thả, kẻ đó đã vô tình thú nhận ngay từ đ*u rằng hắn chẳng chú trọng bao nhiêu tới chính tư tưởng của hắn. Cũng như sự ăn mặc cẩu thả tố cáo sự khiếm nhã đối với người bạn ta gặp, một bút pháp khinh suất cho thấy một thái độ thiếu tôn trọng người đọc.
4.
Theo Schopenhauer người viết văn phải tuân theo qui luật là trong một lúc, một người chỉ có thể suy nghĩ sáng suốt về một điều mà thôi. Do đó, người ta không nên mong đợi ông ta suy nghĩ về hai điều hoặc nhiều điều trong cùng một lúc. Về điểm này, Schopenhauer thú nhận rằng đồng bào ông, người Ðức, mắc phải nhiều nhất. Ông viết:" Ðức ngữ thích hợp với lối viết này, nhưng không thể biện minh cho nó." Và theo ông, không có văn xuôi nào dễ đọc hơn hoặc thú vị hơn Pháp văn. Vì như một quy luật, Pháp văn thoát khỏi lỗi lầm trên. Người Pháp hết sức bó kết ý tưởng của họ lại với nhau, theo một trật tự hợp luận lý và tự nhiên nhất, đặt chúng trước mắt độc giả thuận tiện cho sự xét đoán, khiến cho mỗi một ý tưởng có thể nhận được sự chú ý không phân hoá.
Người Ðức, ngược lại, đan bện chúng lại với nhau trong câu văn, mà hắn vặn vẹo và bắt tréo, bắt tréo và vặn vẹo nữa. Bởi hắn muốn nói mươi mười ý tưởng thay vì tuần tự từng ý tưởng này kế tiếp ý tưởng kia. Tiếng Việt chúng ta có cơ may g*n với tiếng Pháp và xa hơn tiếng Ðức. Sự giản dị và trong sáng trong tiếng Việt chúng ta thừa sức để cho những người cầm bút có trong tay thứ dụng cụ chữ nghĩa đa dụng đa năng này.
Chúng ta đã có Truyện Kiều của Nguyễn Du, đã có thơ Cao Bá Quát, đã có Ði Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp, Ông Ðồ của Vũ Ðình Liên... Chúng ta cũng đã có thơ Xuân Diệu, Huy Cận tiền chiến, thơ Nguyên Sa hiện đại, truyện Thạch Lam, Khái Hưng, truyện Võ Phiến, Nguyễn Ðình Toàn, đã có nhiều cây bút tránh khỏi được lối chỉ trích tàn nhẫn không thương xót của Schopenhauer. Nhưng chúng ta cũng biết rằng trong chúng ta không thiếu những người cầm bút kiểu "ít ý, nhiều lời", kiểu lấy lối vòng quanh lẩn thẩn che giấu sự nghèo nàn của ý tưởng... Ðọc lại những gì Schopenhauer viết sau hơn một trăm năm, người ta vẫn nhận ra được giá trị của những suy nghĩ của ông. Bao lâu còn có những ngòi bút "lấy chửi bới lung tung, ca ngợi lung tung" làm con đường tiến thân trong văn chương, những suy nghĩ của Schopenhauer vẫn còn nguyên vẹn giá trị của nó.
Nguyễn Huy Thạch
*Bài này sử dụng tài liệu từ bản dịch của Nguyễn Hữu Hiệu trong Con Ðường Sáng Tạo, nhà xuất bản H.T. Kelton. Không ghi năm xuất bản.
Bàn về Trần Mạnh Hảo và bài viết về Man Nương!
Tôi nhớ đã có lần giới thiệu cuộc phỏng vấn TMH trên vhnt và Trác cũng đã viết cảm nhận của mình về bài thơ Ðêm phương Nam nhớ về Tổ quốc của TMH. Như vậy TMH không phải là một người khách lạ đối với chúng ta. Anh dạo này vẫn làm thơ nhưng công việc chính của anh là phê bình văn học trên một tờ báo, báo Văn Nghệ thì phảị Vậy chúng ta mong đợi gì ở một thi sĩ của Ðảng, một thi sĩ đã từng dõi về Tổ quốc khi đang trông cơn lửa đạn...khi phê bình Man Nương của PTH???
Hình như dạo sau này ở hải ngoại, chúng ta sính những tác phẩm viết từ trong nước có tính cách nổi lọan, chống chế độ. Mở đầu là Dương Thu Hương, Nguyễn Huy Thiệp... và bây giờ là Phạm Thị Hoàị Cứ viết có nét một chút, chửi cho nhiều vào, nói lên sự thật trần truồng cho nhiều vào, thế là ăn tiền, thế là được liệt vào những anh hùng của thời đại. Tôi có đọc PTH vài truyện ngắn, chưa được đọc Man Nương, nhưng gần đây nhất có đọc Marie Sến của chị. Thú thật tôi có đọc giới thiệu về quyển truyện này nên mua và đọc. Ðọc với nỗi đam mê nhưng sợ hãi. Hãi vì cái văn của chị cứ lành lạnh, như con dao cứa vào hồn mình.
Trở lại với TMH và bài viết của anh. Tự dưng tôi buồn cười khi nghĩ về chữ Man Nương. Chắc PTH muốn ghép chữ Mal của tiếng Pháp và Nương của Hán Việt : một người đàn bà không bình thường? Và như thế, TMH đã có sẵn bản án khi lên tiếng về tác phẩm này: một tác phẩm bôi bác giống nòi, một tác phẩm khi rẻ nhân cách phụ nữ, một tác phẩm điên loạn không kém, v.v...
Ðứng về quan niệm của Ðảng (Đảng của TMH), thì bài của TMH rất tốt. Tốt vì đã đả kích một tác phẩm có tính cách phỉ báng dân tộc, giống nòi (theo cách nói của TMH). Hơn nữa, TMH đã nói có sách mách có chứng. Những dẫn chứng của TMH đã làm người đọc chóng mặt, buồn nôn. Có lẽ người đọc bình thường sẽ không chịu nổi giọng văn chua chát, phẫn nộ, cay độc, dâm lọan của nhà văn nữ này. Ðành rằng đó là cảnh thật trong đời thường nhưng khi được viết lên mặt giấy, nó làm người đọc thấy sợ hãị Sợ hãi nhưng vẫn khoái đọc. Giống như người ta sợ ma mà vẫn thích nghe chuyện ma.
Dĩ nhiên về mặt văn học, TMH đã mang tính chủ quan khi phê bình tác phẩm. Nhưng làm gì có phê bình khách quan trong văn học? Chúng ta mong chờ gì đây ở ông, một thi sĩ được Ðảng và chế độ nuôi nấng thành tài? TMH đã làm đúng chức năng của ông, một người bảo vệ chế độ.
Tôi có vài góp ý về những gới ý của anh Phùng với tư cách người đọc:
1/ Tôi đồng ý với TMH khi ông cho rằng " văn học là một phương cách hy vọng vào một thế giới tốt đẹp hơn, nhân ái hơn và bao dung hơn." Tôi là một con người thích cái hậu nên thiên về xây dựng hơn đả phá. Một tác phẩm không tôn vinh cái đẹp mà chỉ nói về cái xấu sẽ làm người ta tiêu cực, chán nản. Và như thế, một tác phẩm nên hướng thiện. Dĩ nhiên đây chỉ là cảm nghĩ chung chung của tôi , áp dụng cho mọi trường hợp chứ không phải tôi ủng hộ những tác phẩm bốc thơm chế độ.
2/ Phê phán tác giả mà không dựa vào tác phẩm thì dựa vào đâu đây? Theo tôi, trong tác phẩm đâu đó cũng có hoá thân của tác giả. Ðọc tác phẩm của Mai Thảo, đa số nhân vật chính đều la cà phòng trà, hộp đêm, có tính cách playboy... Tôi nghĩ cũng có phản ảnh chút ít về con người Mai Thảo. Ðọc PTH tha hồ cho chúng ta tưởng tượng về chị.
3/ Nếu dựa vào những đọan trích của TMH về Man Nương thì TMH đúng.
4/ Không ý kiến.
Trên đây chỉ là những cảm nghĩ chủ quan của tôi về bài viết của TMH. Mong đọc các ý kiến khác của các quạ.
Dũng Florida
Hennie Aucamp - Viết truyện ngắn bằng tiếng Nam Phi. Ông hiện dạy môn giáo dục ở Ðại học Stellenbosch, Nam Phi.
Soup for the Sick (Súp Cho Người Bệnh) là một truyện ngắn trích trong Home Visits, do Ian Ferguson dịch sang Anh ngữ; Tafelberg Publishers Ltd., Cape Town, xuất bản năm 1983. In lại trong tuyển tập nhiều tác giả Vital Signs, do Dorothy Sennett và Anne Czarniecki tuyển chọn; Graywolf Press, Saint Paul, xuất bản năm 1991.
Súp Cho Người Bệnh
Tant Rensie mất đã nhiều năm trước, nhưng bà vẫn là một trong những người quyến rũ nhất mà tôi còn nhớ từ thời còn thơ ấu. Quyến rũ không phải về những gì chúng tôi biết về bà, mà về những gì chúng tôi còn ngờ. Trong thực tế, bà không phải là một người đặc biệt, bà ít giao du, nhưng không phải là người ẩn dật. Bà đi nhà thờ và dự hội hè thường xuyên, và đôi khi đến thăm ông bác sĩ người Tô Cách Lan hay ông bà cụ Verwey nhưng rất thỉnh thoảng và sau đó không còn đi lại nữa. Sức khoẻ của bà gây khó khăn cho bà.
Bên ngoài bà không có ai giúp đỡ. Sofietjie, người chăm sóc suốt đời bà và là bạn bà, đủ cho bà. Ngay cả khi bà có vẻ sắp chết, gia đình bà không có ai đến thăm. Hai mươi năm trước đó, bà và Sofietjie đến làng Karoo của chúng tôi và dọn vào căn cao ốc cạnh lề thị trấn. Ngay hồi đó cũng không có ai trong gia đình bà đến thăm bà. Phải chăng bà từ bỏ gia đình, hay họ không thừa nhận bà? Có lẽ hai bên đồng ý xa nhau?
Bất cứ ai định nói với Tant Rensie về quá khứ của bà đều gặp phải chướng ngại vật là cái mỉm cười bí ẩn của bà, và ai cố phá vỡ cái chướng ngại vật đó đều tự đặt mình vào vị thế bị xúc phạm hay bị gạt bỏ vĩnh viễn.
Sau này mọi người ở Klipkraal đều biết là không nên tò mò vào quá khứ của Tant Rensie. Chỉ kẻ lạ mới rơi vào cái bẫy đó. Tuy nhiên mọi người vẫn thắc mắc. Có lẽ bà sinh ra ở một nước khác? Có lẽ bà đến Nam Phi vì lý do sức khoẻ? Trong cách nói của bà và cách bà giữ gìn nhà cửa có một điều gì đó làm bà khác biệt... Một điều - và ở đây họ thì thào về chuyện làm cả Klipkraal xào xáo một cách mơ hồ - có cái gì đó khang khác về mối liên hệ giữa bà với Sofietjie...
Người ta không nên thân thiết như thế với người giúp việc. Không phải là họ thân cận, hay họ tán gẫu với nhau. Chỉ là cái cách mà cả hai đều cảm nhận về nhau như thế. Nếu Sofietjie xuất hiện ở lối cửa, im lặng như một con mèo, Tant Rensie cũng biết dù bà đang ngồi quay lưng lại. Bà sẽ nói với Sofietjie: "Trà", và Sofietjie sẽ lướt nhẹ trở về lối hành lang mờ, như bị hút vào đó. Nói thật, trao đổi giữa họ ngắn ngủi, kể là cụt lủn. Sofietjie biết vị trí của mình, theo như các cụ vẫn nói. Tuy nhiên có điều gì đó giữa họ.
Một buổi tối, tôi nhận biết ra được mối liên hệ yên lắng giữa Tant Rensie và Sofietjie. Ðó là lần đầu tiên tôi thấy Sofietjie bước ra khỏi vị trí của mình. Tant Rensie bị ốm đã khá lâu, thường nằm trong giường. Ma, cô y tá quận, đưa tôi một nồi súp để mang tới nhà Tant Rensie.
Không có ai ra mở cửa nên tôi bước vào, vì cửa trước khép hờ. Cửa phòng ngủ của Tant Rensie cũng mở, và Sofietjie ngồi trên giường cạnh Tant Rensie, bàn tay nâu của bà ôm ấp bảo vệ bàn tay Tant Rensie. Hai người già, cả hai đều tóc bạc, một người da trắng và trầm lặng, người kia da nâu. Họ đang thì thào riêng với nhau, nhưng khi biết có tôi, họ ngưng nói và nhìn lên thanh thản, vô tư.
Tant Rensie cố tự gượng lên khỏi gối:
- Ồ, Stevie, súp.
- Súp gà gô. Cháu tự bắn đấy.
Tôi báo với niềm hãnh diện. Tant Rensie xoay trở trên những cái gối. Sofietjie đột ngột nói:
- Từ từ nào, tim bà.
- Không phải tim tôi, tim bà, Sofie. Bà không được nâng tôi nữa!
Sofietjie mỉm cười dịu dàng. Tôi chưa bao giờ thấy khuôn mặt khắc khổ của bà đẹp như thế. Bà cũng nhăn nhúm, bà có nhiều vết nhăn nếu nhìn gần, nhưng dường như bà trẻ hơn Tant Rensie rất nhiều. Bà không giống như bất cứ người da mầu nào tôi biết. Mũi bà thanh tú, miệng sang, và mắt bà sáng, có quầng đen bên dưới.
- Ði tìm đĩa và muỗng cho mọi người đi, Sofie...
Tôi bối rối từ chối khi một chốc sau Sofie đưa đĩa cho tôi. Tôi đã ăn rồi. Tant Rensie vỗ về:
- Chỉ cho vui mà. Ăn đi.
Một lần nữa Sofie lại ngồi lên giường, bình thản giữ lấy đĩa súp trong tay bà.
Tại sao Tant Rensie cư xử lạ như thế? Phải chăng tôi là thể hiện của trật tự xã hội mà bà đã chống lại một cách tiêu cực trong nhiều năm qua? Thật là một gánh nặng cho một cậu bé mười hai! Hay bà muốn "giáo dục" tôi? Hay chỉ vì bà quá già và không thiết tha gì đến tập quán xã hội nữa?
Chiều hôm đó vẫn còn như trước mắt tôi, đơn thuần như giây phút mặc khải phi thời gian. Qua bức màn cửa màu xanh lá cây, ánh sáng mát như trong hồ cá, lọc vào phòng của Tant Rensie. Bất ngờ có mùi hoa hồng - trong phòng hay ngoài vườn? Hoa phải ở trong phòng. Ðó là mùi hương nồng, toả khắp và hầu như tàn tạ. Thình lình tôi biết rằng giữa hai người này có mối nối kết ngoài tầm hiểu biết của mình. Tôi căng thẳng, thấy cần phải đẩy trực giác của mình xa trước tuổi.
Sofietjie mất trước Tant Rensie. Hồi đó tôi đang sống với mấy người anh em họ ở Khu Tự do. Khi trở về Klipkraal lần đầu tiên tôi nghe những chuyện lộn xộn về đám táng của bà. Tant Rensie muốn chôn Sofietjie trong mảnh vườn trước nhà bà. Hội đồng thị trấn không cho phép. Vì vậy Tant Rensie xin chôn Sofietjie bên cạnh người da trắng. Hội Phụ nữ và MSA tổ chức mít tinh phản đối, và cuối cùng Sofietjie đáng thương được chôn cất trong nghĩa trang ngay bên cạnh khu người da màu.
Oom Gawie, người tài xế tắc xi duy nhất của thị trấn, chở Tant Rensie đến mộ Sofietjie mỗi khi bà khoẻ. Bà ngồi đó rất lâu - mỗi bận đi đều mang ghế đẩu theo - lâu đến nỗi Oom Gawie có thói quen chạy vội về thị trấn nốc một ly rượu nhỏ. Một hôm, khi ông đã đi khỏi, Tant Rensie gặp bão và bị cơn bịnh cuối cùng: bà bị viêm phổi.
Oom Gawie bỏ rượu một thời gian, vì hối hận, nhưng vô ích: Tant Rensie không muốn sống nữa. Mọi người nói thế.
Bà để lại một di chúc lạ kỳ. Thị trấn được hưởng số tiền của bà để xây bịnh viện, nhưng bà đặt một điều kiện: bà muốn được chôn cất cạnh Sofietjie.
KLIPKRAAL có một bịnh viện đẹp đối với một chỗ nhỏ xíu như thế. Nhưng hội truyền giáo nói ai đó nên chăm sóc hai nấm mồ đó.
Hennie Aucamp
Trần Phú chuyển ngữ
Vì Sao Lạc
Trời cũng sắp khuya. Ðom đóm bên sân cỏ chớp cánh từng hồi. Ngàn sao trên trời đua nhau nháy mắt chuyện trò. Cuộc sống trong thành phố nhỏ đôi khi cũng thật là buồn. Ðêm đến là nỗi tịch mịch về ngự trị không gian, chỉ có tiếng côn trùng ngoài hiên cỏ, vài chiếc xe phóng qua nhanh rồi biến dạng trong màn đêm. Những hôm trời mưa thì còn buồn hơn nữa, đêm dài chỉ có tiếng nước rơi lên khung cữa, gió vi vu qua mấy vạc song thưa . Mỗi lần như vậy gã lại mất ngũ, suốt đêm làm bạn với bao thuốc đắng, kết quả là đôi mắt đỏ ngầu và một ngày dài ngũ gà ngũ gật trên bàn làm việc trong sỡ hôm sau.
Ðêm nay cũng như mọi đêm nhưng gã cảm thấy thoải mái lạ. Không muốn phá vở cái lặng lẻ cũa trời khuya, gã nằm yên nhìn lên vủ trụ mênh mông . Những vì sao vẻ nên muôn thú. Một con Aries đang húc vào vách núi, chú trâu vàng Taurus ngẩn ngơ bên đồi cỏ xanh, Hercules mang tảng đá nghìn cân trên vai qua sông nước, chiếc ngai vàng vua Zeus chểm chệ giữa giãi ngân hấ Một vài mũi tên bắn xuyên qua trái tim lẻ loi từ cây nỏ của thần Apollọ Gã cười thầm với ý nghĩ trẻ con của mình, những huyền thoại xa xưa còn xót lại từ thời thơ ấu.
Có tiếng điện thoại reng. Chống tay ngồi dậy từ trên chiếc ghế dài bên ngoài cái lan can nhỏ. Qua cánh cửa kiếng, gã đưa tay mở ngọn đèn ngũ trên bàn, ánh sáng yếu ớt soi lên vách làm cho căn phòng vốn đã bừa bãi lại càng thêm bừa bãị Cả chồng junk mails nào là quảng cáo, bills điện thoại, credit cards, gas, cable TV nằm đầy trên bàn ghế. Thật là bề bộn quá - gã thầm nghĩ. Sao lại có người mất trật tự đến như vậy được chữ Gã lại bật cười với mình. Nói chuyện điện thoại xong gã tính trở ra ngoài nhưng nhìn đồng hồ mới hay đã quá nữa đêm. Ðôi khi mấy đứa bạn ở xa hay gọi tán dóc lúc buồn. Có lẽ những giờ phút ấy m ới cãm được cái cần thiết cũa tình bạn trên đất lạ. Ðưa tay vặn ngọn đèn, mắt lơ đãng bắt gặp tấm hình bán thân cũa một người con gái. Tần ngần ngồi xuống, gã nhẹ tay mân mê khung kiếng nhỏ. Trên bức ảnh có hàng chử con gái dịu mềm nét mực, "Thương nhé, always. - Bích Thủy". Người con gái có nụ cười tươi tắn lắm, tươi hơn cã ngàn vì sao lấp lánh bên hiên.
- Bích Thủỵ Gã gọi khẻ.
Không có ai trã lời. Bảy tám người ngồi quanh bàn chia ra làm mấy nhóm nói chuyện, chẳng ai nghe ai. Ðối diện là cô bé đang cặm cụi ghi chép bài v Gọi là cô bé nhưng cô ta chẵng bé tí nào, ngược lại là khác. Cô bé đó là "Bích Thủy". Tuy đô con nhưng rất khả ái nên ai cũng mến. Gã gọi lần nữa:
- Bích Thủy.
- Dạ
Cô bé giật mình ngơ ngẩn. Khi nhận ra người gọi tên mình, Bích Thủy đổi giọng, "Gì hở?". Bao lâu rồi vẫn vậy, "Dạ" là tiếng đầu tiên khi có người gọi, hình như đó là chử duy nhất trong tự điể n cũa nàng. Gã nheo mắt:
- Tên đẹp dễ sợ!
- Hết tiền lẽ rồi.
- Không sao đâu, tiền chẵn cũng được mà.
- Ðang làm gì vậy? Gã đổi giọng.
- Bài tập, lát nữa là nộp đó cưng! Nàng nhoẻn miệng cười sau câu nói.
- Ði uống cà phê nha.
- Có ai học bài dùm hôm nay không dậy ha?
Hắn cười cười đứng lên:
- Vậy anh đi mua cafe uống cho đỡ buồn ngũ, lát nữa gặp nhen!
Rất tình cờ, gã quen Bích Thủy trong một lớp học năm trước. Bước vào giãng đường đầy sinh viên, mọi người tranh ngồi hàng đầu để nghe cho rõ nhưng đối với gã dãy ghế sau cùng là nơi lý tưởng nhất. Gã có thể dựa đầu vô tường một cách thỏai mái khi cơn buồn ngũ đến. Lớp học đặt rất nặng phần bài tập. Một hôm vì đi làm về khuya quá nên gã quên khuấy mất mà đi ngũ. Khi vào lớp mở tập mới hay chẳng bài nào dễ cả. Thế thì phải xài đến hạ sách rồi, gã nhình quanh thấy có cô bé đang ngồi chăm chú nghe giãng. Có lẽ cô bé đi trể không tìm được chỗ ngồi gần hơn, nàng phải nân g mắt kiếng lên để nhìn lên bảng đen cho rồ Trông cũng có vẻ thông minh đó chứ, gã lẫm nhẫm. Ðột nhiên có câu thơ chạy qua cái đầu thiếu ngũ:
Người đâu gặp gở làm chi
Trăm năm biết có... giúp gì được chăng?
Gã bật cười lớn. Người con gái quay lại đưa ngón tay lên môi ra hiệu nhỏ tiếng. Gã tinh nghịch đưa ngón tay lên môi ra vẽ đồng tình; không lãng phí một giây, gã hỏi mượn ngay xấp bài tập nàng xếp nga y ngắn trên bàn chờ nộp khi tan lớp. Những ngày sau đó gã mon men ngồi bên cô bé để cọp bi và quen nàng từ đó.
Bích Thủy học rất siêng và giỏi. Nàng có thể giãng cho gã những phương trình rắc rối một cách rành mạch. Nàng rất dịu dàng và lễ độ đối với mọi người. Nàng vui tươi nhí nhảnh như con chim nhỏ líu lo suốt ngàỵ Gã xem Bích Thủy như đứa em gái nên nói chuyện rất tự nhiên. Có lần gã hỏi đùa:
- Có thể nào Bích Thủy yêu anh không hả?
- Có thể lắm chứ nếu như em quên đi cái lười của anh!
Nàng cười cười trã lời và hỏi tiếp:
- Vậy còn anh thì sao?
- Có lẻ không đâu tại vì anh có hai người chị, một người tên "Bích", người kế tên "Thủy". Hai người dữ như như sư tử Hà Ðông, anh ngũ còn không dám mơ nói chi tới
yêu!
Hai người cùng cười lớn. Bích Thủy có nụ cười rất lạ. Ðồng tiền dưới môi thật tươi làm gã nhìn hoài. Một chút buâng khuâng len nhẹ, "Có khi nào mình sẽ yêu... không nhỉ ?".
Và rồi gã cũng sa vào cái bẩy tình yêu đó. Thật ra không phải một mình gã mà cã cô bé Bích Thủy nữa. Càng ngày gã thấy thêm nhiều ưu điểm của nàng. Ngoài học hành chăm chỉ, nàng còn rất đãm đa ng trong gia đình. Nhiều khi gã cũng tự thấy là mình rất diễm phúc. Uống hết ly cafe, gã nhìn đồng hồ rồi đi vô lớp. Hôm nay thi nên sinh viên vào lớp sớm để gạo lại bài . Ði tới chỗ ngồi quen thuộc, Bích Thủy đã giữ dùm gã một ghế bên nàng. Vốn quan niệm "học tài thi phận" nên ít khi nào gã quan trọng hóa đậu rớt. Cũng may là học không tệ nên dù ít có thời gian, gã vẫn bình bình trong lớp.
Bích Thủy thì ngược lại, nàng rất quan trọng việc học của mình, mỗi lần có thi là người gầy hẳn lại vì thức đêm.
Bài thi thật khó, gã làm vài bài còn lại thì viết tràng giang đại hải vào cho xong. Liếc nhìn Bích Thủy, nàng giương mắt nhìn ra xa có vẽ suy nghĩ mông lung lắm. Chợt nàng hỏi khẽ:
- Làm xong chưa?
- Xong rồi. Gã nói nhỏ.
Bích Thủy đưa tay giật nhanh đề thi cũa gã và chép lại lên giấy của nàng thật lẹ. Gã sững sờ nhìn nàng. Tuy học không khá gã vẫn chủ trương là tuyệt đối chẵng nên cọp bi bài thi. Nếu học mà không thi thì có gì đáng vinh dự khi nhận mảnh bằng? Chỉ là cướp cạn công của kẻ khác. Gã nhìn Bích Thủy thêm một lần nữa, nàng vẫn cặm cụi ghi chép như một sinh viên hiếu học. Gã chợt thấy lòng chùng lại. Tại sao lại phải làm như thế hả Bích Thủy? Nàng như viên ngọc hoàn mỹ không tỳ vết. Hôm nay nàng đã hạ thấp mình đổi lấy một vài điểm cho bài thi. Ngày mai nàng có thể làm gì nữa để trèo lên nấc thang xã hội sau khi rời ghế nhà trường bước chân vào ngưỡng cửa cuộc đời?
Gã ra trường sau khóa học năm ấy và đi về một nơi rất xa, xa hơn mong muốn. Như một kẻ hèn nhát, gã ra đi để trốn tránh một lời giải thích. Lần đầu tiên trong đời gã yêu một người con gái vì tính tình nhu mì của nàng, và cũng rời xa vì những đức tính ấy. Có lẽ gã đã đòi hỏi quá nhiều. Hy vọng rồi tình yêu sẽ theo ngày tháng ngũ yên.
Có lẻ đã khuya lắm, những vì sao nhỏ nằm im thôi nghịch ngợm. Vươn vai đứng lên, mấy khớp xương kêu răng rắt, gã cười thầm, "Hình như mình đã già thật rồi!". Ðốt thêm điếu thuốc, bước ra ngoài nhìn lên trời đêm, làn gió nhẹ thổi ngang làm gã thấy tỉnh hẳn. Một vì sao đổi ngôi trong lặng lẽ. Người ta nói rằng sao băng có thể biến ước mơ thành sự thật, gã chưa kịp nghĩ đến ước mơ nào thì vì sao lạc đã chìm vào màn đêm.
Vũ Trung