vhnt, số 235
9 October 1996
Trong số này:
thư vhnt......................................................Phùng Nguyễn
T h ơ :
1 - Ðến Với Nhau ........................................Mimosa Ngọc Nga
2 - Bốn muà yêu đương ..................................Lê Bích Châu
3 - 4 bài tháng sáu .................................... An Phú Vang (NNA)
4 - Thoáng tóc phủ ........................................ Lý Hồng Văn
5 - Mùa Thu trước .......................................Tôn Thất Hưng
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
7 - Giới thiệu Wislawa Szymborska .......................................
.............................Dean Ẹ Murphy / Nguyễn Tiến Dũng dịch
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
8 - Tản văn: Rau Muống ...................................... Tứ Diễm
9 - Áo trắng sân trường .............................Hoàng Quỳnh Lan
10- Cánh chim miền bão ............................... Trần Trung Ðạo
Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san
Nguyễn Du
Bạn thân mến,
Màu "quan san" là màu gì, bạn hỏi. Tôi e rằng bạn hỏi lầm người mất rồi! Ngày xưa ở Việt Nam, đến cây phong tôi còn không biết, nói chi đến màu lá phong. Ở đây có cây phong, có lá phong, và có mùa Thu, nhưng tìm mãi chẳng thấy màu quan san! Vậy mà khi đọc lại câu thơ của Nguyễn Du, thấy êm êm, thấy buồn buồn, thấy nhơ nhớ! Buồn nhớ gì thì cũng... không biết. Có lẽ nhớ... màu quan san! Có lẽ màu quan san là cái gì đó làm ta buồn buồn, nhơ nh Và màu quan san ở đâu đó trong mỗi chúng ta, khi mùa Thu nhuộn đỏ nhuộm vàng lá phong. Và nhuộm lên nỗi buồn buồn nhơ nhớ trong ta, phải vậy chăng?
Mong nơi bạn ở có nhiều lá phong.
thân ái,
Phùng Nguyễn
(viết thay PCL một kỳ)
Đến Với Nhau
Ðến với nhau như Thu yêu vàng lá
Như lời ca vang vọng đáy tim ta
Ðến với nhau, trong những lúc gần, xa
Ðể biết mãi đường tình là muôn ngã
Ðến với nhau, như triền miên giấc mộng
Ðôi ta cùng chung bước giữa đồi thông
Đến với nhau từ một thoáng mênh mông
Ðể biết rằng đời có nhau - nguồn sống
Ðến với nhau là linh hồn thương nhớ
Dẫu là xa, như vẫn mãi rất gần
Ðến với nhau, trong những lúc bâng khuâng
Ðời gieo thử thách, nhưng lòng tín cẩn
Ðến với nhau bằng con tim thành thật
Ðể chuông tình còn vọng mãi tiếng ngân
Ðến với nhau, trong lời nguyện xa, gần
Câu kinh thệ - Tình Yêu hoài rất thật.
Gặp nhau trong lời kinh,
Mimosa - Ngọc Nga
Oct-3rd 1996
Bốn Mùa Yêu Đương
Xuân sang nắng ấm tuyết tan
Sân trường nở rộ hoa vàng ngát hương
Tình nhân thỏ thẻ yêu đương
Bước chân hòa nhịp theo hương hoa tình
Hạ về có nắng thủy tinh
Mơn man làn gió tình mình mong manh
Dạo bước trên thảm cỏ xanh
Ðôi chân lặng lẽ đi quanh cuộc tình
Thu sang nắng nhạt bình minh
Cây buồn trút lá tình mình chia phôi
Sân trường lặng lẽ đơn côi
Nghe tim run.g vỡ bồi hồi tâm can
Ðông về lạnh lẽo ngút ngàn
Vi vu tiếng gió miên man nỗi buồn
Mất rồi đâu thuở daị cuồng
Tình ta tan vỡ sẽ luôn nhói lòng...
BC
Tháng Sáu Bài Hai
Cùng thế biệt bỏ ra ngoài biển
Biến tan đi hay hiển hiện ngày đầu
Cùng thế biệt đêm vàng trăng sóng quyện
Chân người đâu theo có kịp ngày sau
Ði xuống đi lên biển và dêm tối
Tình như chim về núi quạnh lòng nhau
Tôi trở lại thề cùng đêm tối
Sẽ không gặp nhau... mà nhớ lần đầu
8 tháng 6, 95
Tháng Sáu Bài Ba
Chờ tận thế cứ yêu người, không hối
Ngủ trọ đời, bóng tối, áo xanh ơi
Chờ tận thế nhớ nhau nằm đếm tuổi
Tôi trăng khuya, trở lại vẫn yêu người
Xin hỏi lòng đêm, hỏi tay thon, hỏi nhớ
Ðụng khẻ bàn chân, hay tiếng tỏ tình. Lo !
Mình yêu nhau, đêm đèn vàng đứng ngó
Mình chào xa nhau dạo nọ ai ngờ
Áo xanh đêm xưa bây giờ em tặng
Phơi nắng bên hàng rào
thấy sương khói mênh mông
8 tháng 6, 95
Tháng Sáu Bài Bốn
Bỏ đi, đi mất, nghỉ chơi
Giữa đêm nằm ngủ
đất trời ngó nhau
Dài năm giữ lại đời sau
Màu xanh của áo
tình sầu của đêm
Bỏ đi, đi mất, tìm quên
Sáng nay bỗng nhớ
lại thêm ngày dài
9 tháng 6, 95
Tháng Sáu Bài Năm
Tôi theo mệt, thôi em về đi nhé
Ngày vẫn vui mở hội chào mời
Trưa em đi về phố xá đông vui
Có lời tình si tụng ca em - Ðức Mẹ
Tôi theo mệt, thôi em về đi nhé
Anh làm con chim ngủ đậu cành tre
Buồn hót nhau nghe bên hè, ngoài phố
Khi nhớ nụ cười trống vắng lòng xe
Tôi theo mệt, như bên hè con dế
Rỉ rã buồn dăm tiếng đợi đêm nghe
Em vẫn sống vui như lời tình kể
như đời cận kề mời gọi ngựa xe
9 tháng 6, 95
Nguyễn Nam An
Thoáng Tóc Phủ
Viết cho bạn tôi và lòng đam mê không giảm
Thoáng tóc phủ
Dòng định mệnh đã vẽ một bức tranh
huyền thoại... hoang vu
rực rỡ... bối rối
xa xôi... thân mật
Anh
Thời gian mang đi phần son trẻ
để lại nhiều dấu vết
Với tâm tình nầy
Thoáng tóc phủ
Ta yêu nhau
Trong bối rối xác thân
và những cơn thiền định nửa chừng
Phá vỡ tâm tư
Tuôn trào từng đòng sầu đọng
Có lúc anh ca
cũng có lúc ngâm
Lúc như một thiền sư
nhiều lần như tên hát dạo
Mới hôm qua
Sau một đêm không ngủ
Anh đã thực sự trở về
Cơn hôn mê điên cuồng của tuổi hai mươi
Lúc mảnh hồn còn xanh mướt
Bụ bẫm và nóng bỏng thanh xuân
Anh muốn đem tất cả
ấp ủ thế giới em qua
Thoáng tóc phủ
Cuối cùng
Anh không trốn nữa
Ðứng lại để ngắm thời gian
Anh lúc như một dòng lửa
từ sâu kín địa cầu
tuôn trào về hư vô
Anh lúc như một dòng sữa
Tất cả tình yêu môn loài
Ðổ dồn về đây
Ấm áp... mềm mại
Anh lúc như mặt hồ
phẳng yên, không gợn sóng
Vài câu kinh xa xăm
Bay qua cuối trời thơ mộng
Lý Hồng Văn
Mùa Thu Trước
Mưa trời
thả bong bóng
trôi
ngày xưa
thả lá
đò xuôi
đón nàng
Lên rừng
hái nhánh dâu hoang
giả làm quà cưới
mời nàng
cùng tôi
trăm năm
thề hẹn một lời
sân hoa bưởi, bãi cát bồi
có nhau...
Mùa thu trước
mùa thu sau
trời thu
thả lá vàng
thu
một màu
xa xăm mắt mỏi
tìm nhau
người về
thả cánh thơ sầu
mỗi thu.
TTH
9/1996
Tuần qua, tại Stockholm, viên hàn lâm Thụy Ðiển đã công bố giải Nobel văn chương năm 1996 thuộc về nhà thơ nữ Ba Lan Wislawa Szymborska, người được mệnh danh là "Mozart của thi ca."
Mặc dù có lẽ bà là nhà văn nữ nổi tiếng nhất của Ba Lan, Szymborska đã bị hai nhà thơ Zbigmiew Herbert và Tadeusz Rozewicz làm lu mờtrong giới văn học Ba Lan một thời gian. Hai người này cũng là ứng viên của giải Nobel.
" Bà đã trải qua một quá trình phát triển dài và đạt tới độ chín mùi", đó là nhận xét của nhà thơ Ba Lan nổi tiếng Czelaw Milosz, giáo sư tại đại học California, Berkeley, người đã đọat giải Nobel năm 1980. "Thi ca Ba Lan ở thế kỷ 20 đã đạt tới một vị trí quốc tế vững mạnh tại châu Âụ Szymborska đã thể hiện điều này một cách tuyệt vời."
Ở tuổi 73, Szymborska được coi là bà mẹ của các nhà thơ Ba Lan, với tuyển tập đầu tiên được xuất bản năm 1952 và tập thơ gần dây nhất của bà vẫn đang được viết khi chuông điện thoại reo từ Stockholm. Mặc dù khối lượng tác phẩm của bà tương đối khiêm tốn, viện hàn lâm Thuỵ Ðiển đã xem đó như là nghệ thuật đầy quyền năng bao gồm sự sáng tạo, dũng mãnh và cảm thông.
Ðặc biệt ở người góa phụ nhút nhát này là bà có ý định hiến hết 1.1 triệu đô la tiền thưởng cho hội từ thiện và ở lại trong căn hộ hai phòng ở phía nam thành phố Krakow.
Sau đây mời các bạn thưởng thức bài thơ "In Praise of Feeling Bad about Yourself" của bà, một trong những vần thơ được giải:
In Praise of Feeling Bad about Yourself
by Wislawa Szymborska, winner of the 1996 Nobel Prize in Literature
The buzzard never says it is to blame.
The panther wouldn't know what scrupples mean.
When the piranha strikes, it feels no shame.
If snakes had hands, theýd claim their hands were clean.
A jackal doesn't understand remorse.
Lions and lice dont' waver in their course.
Why shoud they when they know they're right?
Though hearts of killer whales may weigh a ton,
in every other way theýre light.
On this third planet of the sun
among the signs of bestiality
a clear conscience is Number One.
Dịch xuôi:
Ca ngợi cảm nghĩ xấu về chính mình
Con quạ không hề nói biết kết tội
Con hổ sẽ không biết lương tâm là gì
Khi cá chích, nó không cảm thấy xấu hổ
Nếu loài rắn có tay, chúng sẽ nói là chúng có bàn tay sạch
Chó rừng không hiểu sự cắn rứt lương tri
Sư tử và chấy rận không lưỡng lự khi săn đuổi
Tại sao phải vậy khi chúng biết chúng đúng?
Dù những quả tim của loài cá mập giết người có thể cân nặng một tấn
mặt khác chúng rất nhẹ
Ở tinh cầu thứ ba của mặt trời
Giữa những dấu hiệu hoang dã
Rõ ràng lương tâm là Số Một
Dịch thơ:
Ngợi Ca Tự Thán
Quạ hề biết kết tội ai
Hổ lương tâm gán không ngoài chữ vộ
Cá kia đi chích không ngờ,
Xà trườn tay sạch lờ lờ đi hoang.
Cẩu không hiểu nổi chữ tâm,
Chúa sơn lâm,(và) chấy vẫn thầm đi săn.
Phải chăng lý sự đã oằn,
Quả tim cá mập vẫn cằn nhẹ tênh.
Tinh cầu vụt sáng mông mênh,
Chữ lương tâm một lăn kềnh thế gian.
Nguyễn Tiến Dũng lược dịch
(10/07/1996)
(*) Source: The Herald, October 4 1996 - Author: Dean E. Murphy Los Angeles Times Service.
Phiếm Luận Về Rau Muống
Hôm nay, trời thật trong và thật nắng khiến lòng thoáng nhớ đến những buổi trưa nắng ở quê nhấ Tự dưng, muốn viết đôi dòng theo dòng suy nghĩ vẩn vơ...
Chẳng hiểu ai là người tìm ra rau muống nhỉ? Tại sao lại đặt tên là rau "muống" mà không phải bất cứ tên gì khác? Và cũng thật tình khâm phục những người đã khéo nghĩ ra cách biến chế những cọng rau xanh, cứng và ròn ấy thành những món thật giản dị, đơn sơ nhưng mà lại ngon tuyệt vời.
Này nhé, chỉ cần cho một vài lát gừng thái mỏng, nêm thêm chút tương bắc cho đậm đà vào nồi rau muống luộc xanh ngăn ngắt là đã có món canh rau muống tương gừng rồi đấy. Thật đơn giản quá phải không? Mà cũng thật là tuyệt vời đấy bạn ạ. Cứ thử tưởng tượng mà xem. Những cọng rau xanh vừa đủ độ chín tới, mềm mà vẫn ròn tan dưới hai hàm răng, nước rau thoang thoảng nhẹ đưa mùi thơm ngọt dịu của tương bắc hoà quyện cùng mùi gừng tươi. Nếu điểm thêm một vài miếng cà pháo muối xổi, vài lát ớt cay cay thì càng làm tăng vị ngon hơn nữa.
Cũng vẫn với những cọng rau muống xanh mát mắt đó, nếu đem nấu với khoai sọ, tôm khô thì lại thành một món canh khác cũng tuyệt vời không kém: canh rau muống khoai sọ. Ðơn giản thôi, khoai sọ (khoai môn) luộc vừa chín tới, đem lột vỏ, rửa sơ, rồi cắt thành từng miếng vừa vừa. Xong đem nấu cùng với tôm khô, nêm thêm chút nước mắm cho đủ vị đậm đà, rồi cho những cọng rau muống (đã cắt ngắn, rửa sạch) vào nấu vừa chín tới. Thế là ta đã có một món canh cũng ngon vô cùng. Vị ròn của rau, xen cùng vị ngọt của tôm khô, vị bùi bùi của khoai sọ quả thật là một sự kết hợp khéo léo tuyệt vời đấy, bạn ạ.
Cũng có khi muốn đơn giản hơn nữa, ta chỉ dùng tạm một món rau muống luộc ăn kèm cùng với những miếng cà pháo ròn tan cũng có một bữa cơm ngon miệng. Muốn tăng vị ngon hơn một chút, có người lại vắt chút chanh, dầm trái cà chua hay trái sấu, hay dùng lá me chua đánh vào bát nước rau luộc làm món canh. Giản dị mà ngon quá đi thôi, bạn cứ thử nếm một lần thì sẽ biết ngay.
Nhưng mà này, cái món rau luộc đơn giản như trên cũng đòi hỏi vài điều hơi cầu kỳ đấy bạn ơi. Này nhé, đĩa rau phải luộc sao vừa đủ độ chín, mềm mà vẫn giữ được độ ròn và vẫn còn giữ được màu xanh như ngọc thạch. Những cọng rau phải ngắt sao vừa đúng độ, không quá ngắn, không quá dài. Khi bày trong đĩa thì những cọng rau quấn quít lẫn nhau, nhưng mà vẫn phải tơi, không rối nùi khi dùng đũa gắp. Mới thoạt nghe diễn tả cứ ngỡ quá khó khăn, nhưng đừng lo bạn ạ, chỉ cần để ý tí ti thì mọi chuyện cũng không đến nỗi nào đâu. Này nhé, chỉ cần nêm chút muối vào nồi nước thật sôi, cho những cọng rau đã cắt sẵn, rửa sạch vào, và nhớ đừng đậy nắp, kẻo rau đổi màu. Sau đó, liệu chừng rau vừa đủ độ chín thì hãy vớt ra liền. Thế là xong, đâu đến nỗi quá khó, phải không hở bạn?
Vẫn với cái món rau muống luộc này, nếu đem ăn kèm với một tô canh bún, điểm thêm chút mắm tôm, chút ớt cay thì lại thành một món ăn thật ngon, và cũng thật đẹp vô cùng, bạn ạ. Cứ hình dung thử nhé, những cọng bún to sợi, trắng muốt, ẩn hiện dưới lớp cái cua sậm màu, lớp nước mầu cam đỏ óng ánh, xen kẽ với những cọng rau muống luộc xanh ngắt hòa lẫn với màu tím nâu đỏ nhạt của mắm tôm thì quả là một bức tranh đủ màu sắc. Chưa kể đến mùi thơm dìu dịu, ngọt mà vẫn thanh của nước dùng khẽ thoảng vào mũi, khiến ta chỉ thoạt nhìn mà đã thấy thèm rồi, phải không?
Cũng tương tự như món canh bún là món bún riêu. Cũng vẫn với ngần ấy thứ vật liệu, nhưng mà lại thành một món ăn khác hẳn nhưng không kém phần hấp dẫn vị giác, khứu giác và cả thị giác, bạn nhỉ. Hãy nhìn thử một tô bún riêu mà xem. Màu đỏ cam của những lát cà chua, màu vàng của những miếng đậu hũ chiên, màu gạch của cái riêu cua, màu trắng của bún, màu xanh của những cọng hành lá thấp thoáng dưới những váng màu của nước riêu quả thật là đẹp mắt vô cùng. Nhưng vẫn chưa hết, hãy nhìn rổ rau tươi ăn kèm sẽ thấy biết bao nhiêu là loại rau nhỉ. Này nhé, những cọng rau bắp chuối màu tím đỏ lợt, những cọng giá trắng muốt, những phiến rau sà lách cắt nhỏ xanh mát mắt xen lẫn với màu trắng tinh khiết của những cọng rau thân chuối mảnh dẻ, xen lẫn với những màu sắc của nhiều loại rau khác nữa. Nhưng nổi bật nhất vẫn là những cọng rau muống chẻ. Chẳng hiểu có phải vì cái màu xanh ngắt của những cọng rau muống quá đặt biệt, át hết những màu sắc khác, hay chỉ vì cái hình dạng cong cong của những cọng rau đã đập vào mắt ta khi nhìn vào rổ rau, hay chỉ vì ta đã quá ưu ái cho loại rau này. Nhưng quả thật là cái vị ròn ròn, man mát của những cọng rau muống chẻ đã làm tăng hương vị ngon ngọt của tô bún riêu lên gấp bội lần, phải không hở bạn...
Cũng vẫn những cọng rau muống chẻ đó, nếu đem trụng sơ để làm món gỏi rau muống thì lại thành một món ăn ngon và lạ miệng cho khách phương xa. Nhưng nếu cứ để nguyên như thế, đem ăn kèm với các loại rau khác khi ăn món chả giò thì cũng tuyệt vời vô cùng, bạn cứ thử mà xem.
Trong những mâm cơm gia đình thường ngày, rau muống lại được chế biến thành nhiều món khác nhau, và dường như món nào khiến ta thấy ngon miệng cả, thế mới lạ chứ. Ðem xào rau muống vừa đủ chín, điểm thêm vài lát tỏi thế là đã có một món ăn thật ngon. Những ai thích ăn ngon hơn nữa, thì có thể ăn món xau muống xào thịt bố Xào thịt bò ướp nước mắm, tỏi bầm nhỏ trong một chảo mỡ thật nóng, lửa thật lớn, vừa tai tái thì đem đổ ra đĩa. Rồi xào rau muống, nêm vừa ăn, điểm thêm chút tỏi và trộn thịt bò đã xào ở trên vào. Ðơn giản thế thôi, mà cũng ngon miệng vô cùng.
Rau muống xào nêm nước mắm cũng ngon, mà nếu nêm bằng chao thì lại thành một món ăn chay cũng khá ngon miệng, chỉ tiếc là thiếu vị tỏi thì đĩa rau sẽ kém vị ngon đi nhiều.
Còn nhiều, nhiều nữa kể sao cho hết những món ăn dùng rau muống nhỉ, vả lại cứ càng kể thì lại càng thấy nhớ nhung, và tiếc nuối những cọng rau xanh ngát của quê nhấ Nên có lẽ cũng nên chấm hết bài viết này nơi đây, kẻo không hồn cứ mãi thả trôi theo những đoá hoa rau muống màu tím nhạt, mong manh theo gió thổi nhè nhẹ điểm tô vẻ đẹp cho những bè rau muống xanh ngắt, tươi mơn mỡn đang bồng bềnh trong một vùng ký ức. Và rồi một nỗi buồn da diết lại len lén trở về trĩu nặng cả lòng của kẻ xa quê hương ...
Tứ Diễm
Áo Trắng Sân Trường
Em quen Hưng năm học lớp tám. Lúc đó chàng học lớp mười hai.
Lớp tám, em chẳng biết gì nhiều ngoài những chiều đi học. Buổi trưa, em còn xách cặp ra đầu ngõ đứng ngóng chuyến xe trường màu trắng có mang hiệu đoàn Gia Long, vẫn chưa được tự một mình đạp xe đến trường. Mẹ không cho vì sợ xe cộ chạy lung tung dễ gây tai nạn, phần khác mẹ sợ giờ nghỉ học, em theo bạn bè đạp xe đi chơi về trễ. Khi lẩn quẩn ở đầu ngõ đợi xe trường, em thường nôn nao nhìn những cô bé đạp xe đạp mini đi học, áo bay trong gió, dịu dàng và dễ thương làm sao. Ở trường, em chỉ biết chăm chỉ học hành, và năm nào cũng đứng đầu lớp. Năm lớp sáu, mẹ hứa nếu cuối năm em hạng nhất thì sẽ thưởng cho em chiếc xe đạp. Tuy nhiên, từ khi chiếc xe đạp mini xanh có mặt trong nhà, nó vẫn ngạo nghễ nằm trong garage và chưa bao giờ được cô chủ bé đạp xe xa hơn khu cư xá. Bù lại, vì cuối năm lớp sáu em đứng đầu lớp, nên lên lớp bảy, em được bầu làm trưởng lớp, và cứ như thế cho đến năm lớp tám.
Lớp tám, mấy nhỏ bạn em đã bắt đầu biết mơ mộng. Hoài Trang, Bích Huyền, Diễm Thư và em đóng đô ở bàn chót. Tụi nó ngồi đó có thể là vì lớn xác, còn em thì ngồi đó chỉ vì thân với Hoài Trang. Giờ việt văn, em chợt phát giác Diễm Thư chuyền một tờ giấy gì cho Hoài Trang rồi cả bọn gục mặt xuống bàn cười khúc khích. Cuối giờ học, em lôi Bích Huyền ra hỏi nhỏ, thì chuyện bắt đầu từkhi Diễm Thư sai nhỏ em mang đến một phong thư nhờ trao lại cho Hoài Trang. Mở ra đọc, là lá thư tán tỉnh hết sức là văn hoa của một anh chàng nào đó, làm nhỏ Hoài Trang thắc mắc mấy ngày trời, tìm kiếm người ái mộ rồi thấp thỏm không yên. Hoá ra chỉ là Diễm Thư giả mạo lá thư mà thôị Hoài Trang biết được, không giận mà còn cười ngặt nghẽo vì thú vị. Em nghe Bích Huyền kể chuyện, cũng bật cười, rồi hắng giọng. À, tụi mi xí xọn quá, bây giờ lại bày đặt bồ với bịch nữa à?
Vào dịp gần Tết, trường có tổ chức lễ ra mắt Ban Chấp Hành toàn trường. Năm nào trường cũng làm lễ ra mắt ban đại diện, nhưng năm nay em đặc biệt vui vì nhỏ Hoài Trang được trúng cử làm Phó Khối Văn Nghệ lớp chiều. Sau khi làm lễ, trường thường tổ chức một buổi tiếp tân ở giảng đường và có mời ban đại diện của tất cả các trường bạn đến tham dự Vì làm trưởng lớp, đúng ra em chỉ được dự lễ ra mắt ban đại diện và ngồi chung với ban chấp hành các lớp mà thôi. Nhưng không hiểu Hoài Trang đã rỉ tai cô Như Mai thế nào mà sau khi tan lễ, cô ngoắc lại rủ em vào ban tiếp tân. Vì thế, em tình cờ quen Hưng trong buổi tiệc khoản đãi ấy. Hưng là Trưởng Khối Báo Chí của trường Hồ Ngọc Cẩn, chàng nói giọng Bắc dễ thương và rất lém lỉnh. Chàng làm quen với em, có thể vì thấy em hiền lại hơi nhát (và chàng tự hỏi nhát thế này thì làm sao mà lại làm tiếp tân cũng nên), hoặc có thể vì thấy em chỉ đứng một mình (và đang rủa thầm Hoài Trang đã "tàn nhẫn" bỏ em biến đi đâu tự lúc nào). Khi chàng hỏi chuyện, em cố gắng trả lời lại một cách tự nhiên, rồi chàng còn rủ em ra khỏi giảng đường ngột ngạt, cùng đi dạo trên "con đường cái quan" rợp bóng phượng. Em thấy chàng nhìn em dịu dàng, mà lòng em cũng là lạ mênh mang... Chỉ nhớ hôm ấy trời rất xanh. Tàn phượng đong đưa trong nắng, chưa nở những bông hoa đỏ thắm đầu mùạ Và cái nắng vàng hoe muà Tết vẫn luôn gợi cho em một cảm giác nồng ấm mỗi độ xuân về.
Sau bữa ấy, Hoài Trang, Diễm Thư và Bích Huyền bắt đầu nhìn em khác lạ. Có khi em bắt gặp ba đứa chụm đầu xầm xì với nhau rồi quay qua em hỏi trống không: "Cái anh chàng... "Hội Người Cùi" ấy giờ ra sao rồi ?"... Em thật là mắc cở lắm, chắc cũng là Hoài Trang kể lại mà thôi. Ðành phải hứa hẹn là em sẽ "thành thật khai báo" nếu có gì tiếp xảy ra. Mà, em nghĩ, làm gì có thể có chuyện gì tiếp xảy ra...
Vậy mà Hưng cũng tìm cách gặp lại được em. Thường thường lúc tan học, em đi thẳng ra xe trường vì nếu ra chậm thì xe bỏ đi mất, lúc đó chỉ có nước khóc vì biết gọi ai để đưa về nhà bây giờ? Hôm ấy, lớp em được nghỉ giờ cuối, cô Kim Ánh bị bịnh nên cả lớp được cho về sớm. Vì phải đợi xe trường về đúng giờ nên em theo mấy nhỏ Trang, Thư, Huyền đi bộ qua chuà Xá Lợi ăn bò biá và tán dóc. Bà bán bò biá rất là quen mặt bộ bốn của em, nên vừa thấy mặt là đã nhanh tay cuộn mấy gói bò biá nho nhỏ. Em đang lơ đãng ngắm mấy khung cửa xám cũ kỹ trên lầu hai, rồi ánh mắt chuyển xuống cánh cổng xám nặng nề dãy Ngô Thời Nhiệm, thì chạm phải Hưng. Hình như chàng cũng nhận ra em đang tư lự bên... hàng bò bía nên em thấy chàng bắt đầu đạp xe về phía chuà Xá Lợi. Có nhỏ nào đang hích vào tay em... Lòng em chợt rộn lên khi thấy lại hình bóng chàng, nhưng bước chân em đến gần chàng sao lại vô cùng khổ sở. Em biết ở đằng sau có sáu con mắt xoe tròn đang nhìn theo em, ba cái đầu xinh xinh đang tụm lại và ba cái miệng, ôi chao ba cái miệng... Chắc Hưng biết là em đang mắc c Và khổ s Chàng chỉ cười, hỏi em có vui không, nói rằng chàng đã đợi em từ mấy ngày nay và hôm nay mới gặp được em. Tất cả vẻ tự nhiên của em hôm tiếp tân giờ đã bay đi đâu mất, em chỉ lí nhí trả lời chàng một cách rất là thụ động, rồi im bặt. Chàng không nói gì, chỉ rút ra trong tập một lá thư, nhét vội vào tay em rồi chào em đi về. Em dấu lá thư vào cặp thật nhanh rồi chạy như bay về phía xe trường. Hình như có tiếng Thư, Trang, Huyền gọi em í ới. Hình như chuông tan học chợt vang và đàn bướm trắng túa ra cổng trường. Em chui nhanh vào thân xe, vội vàng tìm nơi trú ẩn, và thấy tim mình đập ghê quá. Em có cảm tưởng như mọi người đều nghe được tiếng vỗ nhịp nhàng của dòng máu vào bờ tim, và cả từng tiếng thở, khi em vụt chạy đi trong cơn gấp gáp...
ngày... tháng... năm
Quỳnh,
... Chiều nay nhỏ có đi học không? Anh bắt đầu đợi nhỏ từ hôm qua. Buổi chiều trời nắng úa, đàn bướm trắng tan học tung cánh vô tư. Anh đứng ở bên đây đường nhìn theo đàn bướm ấy, sao chẳng tìm ra được bóng em. Anh nhớ giọng nói nhỏ dịu dàng, nhớ dáng nhỏ hiền và dễ thương, nhớ con đường rợp mát in bóng nhỏ và anh tình cờ. Chiều, anh lại đến cổng trường để chờ nhỏ. Quỳnh, anh nhớ nhỏ lắm...
Hưng
Tim em thật là muốn ngừng đập. Em mắc cở ghê lắm, làm như mọi người trên xe đều biết là em đang đọc thư tình, lá tình thư đầu tiên khi em mới mười ba. Em xếp lá thư lại ngay ngắn và bỏ vào trong cặp, biết rằng ngày mai thế nào cũng phải đem nộp lá thư ấy cho ba nhỏ Thư, Trang, Huyền. Rồi tụi nó cật vấn em những gì, em không muốn nghĩ tiếp... Rồi em trả lời anh Hưng như thế nào, em cũng không muốn kể thêm...
hoàng quỳnh lan
10/05/96
Cánh Chim Miền Bão
Tôi sinh ra và lớn lên trong một làng nhỏ nằm dọc theo một nhánh sông của sông Thu Bồn. Làng tôi có cái tên gọi dễ thương là làng Châu Hiệp theo nghĩa trong câu "Châu về hợp phố" nhưng mọi người thường biết dưới một tên khác quen thuộc hơn là làng Mã Châu. Sở dĩ làng được nhiều người biết đến vì nơi nầy nổi tiếng về nghề ươm tơ dệt lụa. Làng không lớn lắm, chỉ chừng vài cây số vuông, chạy dài từ giếng Tứ Trụ đến Chùa Ba Phong. Theo nhà thơ Trung Nhân, thì dù cùng uống nước chung một giếng nhưng dân ở bên nầy đường nói giọng khác dân ở bên kia đường. Tôi vẫn dặn lòng mai nầy có dịp trở về sẽ tìm cách kiểm nghiệm lời anh Trung Nhân kể. Tuổi thơ của tôi gắn liền với màu áo lam hiền hòa của Gia Ðình Phật Tử, với những bài hát dễ thương, những cái gút, những tiếng còi, tiếng ve, những trò chơi lớn, những đêm lửa trại và cả tiếng chuông chiều, kinh tối của chùa Ba Phong, trung tâm sinh hoạt tinh thần cho cả làng.
Tôi còn nhớ ngày đầu tiên tôi gia nhập Gia Ðình Phật Tử, cha tôi may một bộ đồ đoàn sinh gồm một chiếc áo lam và một quần ngắn có hai chiếc dây quàng tréo qua vai. Tính cha tôi hà tiện nên may phòng hờ khi tôi sẽ lớn hơn vẫn còn mặc được. Nhưng khổ nỗi ông lại quá lo xa nên bộ đồ đoàn sinh vừa rộng và cũng vừa dài trông chẳng khác gì mặc đồ người lớn. Nhất là cái quần, quần ngắn mà trông chẳng khác gì quần dài trông thật chẳng giống ai. Tôi phản đối kịch liệt nhưng cũng biết đời nào ông ta chịu đem đi tiệm sửa ngắn lại. Và cứ thế, giống như bao nhiêu đứa bé khác trong làng, thời thơ ấu của chúng tôi được che mát dưới mái chùa Ba Phong của làng Mã Châu tơ lụa.
Nhưng mái chùa cũng chẳng che chở được bao lâu thì chiến tranh tràn đến. Làng Mã Châu không còn những ngày tháng thanh bình như trước. Những trận đánh lẻ tẻ đã diễn ra. Tiếng súng đêm đêm đã vọng về từ bên phía kia sông. Trong làng đã có vài anh thanh niên chết trận. Màu hỏa châu soi bói và đe dọa đã thay thế cho ánh trăng vàng thân thương quen thuộc. Nhiều đơn vị lính Mỹ từ Ðà Nẵng đã đổ lên và thỉnh thoảng dừng lại ở làng Mã Châu vài hôm. Sự hiện diện của người Mỹ, ít nhiều, đã làm xao động nếp sống bình thường của dân chúng trong làng. Họ thiện cảm với người Mỹ thì ít mà nghi ngờ thì nhiều. Ðiều đó chẳng có gì lạ, kinh nghiệm để lại từ suốt mấy nghìn năm lịch sử của dân tộc Việt Nam, chưa hề có một ngoại bang nào đến để thật sự giúp đỡ, khai hóa, nâng cao dân sinh, dân trí. Tất cả chỉ nhằm đồng hóa, nô lệ và bóc lột dân tộc tôi mà thôi. Nếu thực dân Pháp, trước đây, có xây một chiếc cầu, đắp một con lộ chẳng qua là để họ dễ dàng chuyển quân, để họ nhanh chóng trấn áp những cuộc nỗi dậy của ông bà tôi. Nếu họ có xây một trường học cũng chỉ để gieo rắc ảnh hưởng thực dân vào tâm hồn Việt Nam. Nếu họ có mở ra những phong trào thể thao thể dục như giải "Ðua xe đạp vòng Ðông Dương", giải "Quần vợt Ðông Dương", giải "túc cầu Ðông Dương" chẳng qua nhằm ru ngủ dân tộc Việt Nam để ông bà tôi sống trên những hào quang giả tạo mà quên đi thân phận nô lệ của mình. Nếu có vị nào cho là quan điểm của tôi thuộc thành phần ái quốc cực đoan, hẹp hòi xin hãy suy nghĩ lại đi, Thực Dân Pháp đổ không biết bao nhiêu tiền của, máu xương từ một nơi xa xôi trên trái đất đến để "nâng cao dân trí" cho một dân tộc nhỏ nhoi, nghèo nàn, một dân tộc mà suốt dòng lịch sử đã không ngừng tranh đấu để mưu tìm hai chữ bình an như dân tộc Việt Nam. Sự hiện diện của người Mỹ, do đó, dù có trăm miệng cũng không sao một sớm một chiều mà đáng tan những hoài nghi và định kiến đã bắt rễ sâu từ trong cây cổ thụ bảo thủ.
Trở lại câu chuyện tôi đang kể. Trong thời gian nầy du kích Cộng Sản thỉnh thoảng lén ra đặt bom trên con đường từ Nam Phước lên quận lỵ Duy Xuyên. Gia đình chị Bảy, chị họ tôi, đã bị mìn và chết tan xác trong lúc đang ngồi xe lam từ Cẩm Lệ về đám giỗ ông nội tôi. Chị và bé Phương, đứa con gái bốn tuổi, đã trở thành nạn nhân rất sớm cho cuộc chiến tranh gọi là "giải phóng dân tộc" của những người Cộng Sản Việt Nam. Xác hai mẹ con chị bị nổ tung ra thành những miếng nhỏ. Cha tôi và anh tôi phải đi nhặt quanh ruộng từng cánh tay, từng miếng thịt của chị Bảy và cháu Phương gom vào chiếc nong đặt trước sân nhà. Hình ảnh người anh họ tôi tìm được chiếc đầu đầy máu me của chị Bảy ôm về trở thành một trong những dấu ấn hãi hùng và phi lý của chiến tranh đã hằn sâu vào trong trí nhớ tôi và sẽ không bao giờ phai được. Ngày đó, tuy còn rất nhỏ nhưng tôi cũng đủ hiểu biết để thắc mắc rằng tại sao những người du kích Cộng Sản nỡ nhẫn tâm đặt mìn trên một con đường tấp nập nối liền hai cái chợ lớn nhất trong quận. Chẳng lẽ họ không biết rằng để giết một người lính họ phải giết cả hàng ngàn người dân vô tội, thế nhưng họ đã và đang làm từng ngày, từng bữa. Tại sao và tại sao.
Trong gia đình Phật Tử chúng tôi, thì tôi và Hương là thân nhau nhất. Cô ta trạc tuổi tôi, cùng học một trường và cùng đi về chung một đường. Nói chung, ngoài khi ăn khi ngủ, chúng tôi chia xẻ nhau hết những thời gian còn lại. Chúng tôi đi chùa chung, học bài chung, tập hát chung. Hương thích nghe kể chuyện nhưng tôi cũng chỉ là một cậu bé thì biết chuyện gì mà kể. Cũng may tính tôi từ khi biết nói đã thuộc loại "cà kê dê ngỗng" nên bịa ra trăm thứ chuyện chẳng đâu vào đâu nhưng cô ta vẫn chăm chú nghe ra bề thích thú. Ba tôi cũng dành cho cô bé một tình thương chân thành như tình thương dành cho người con. Có cái gì ngon ông cũng để dành cho cô bé một phần. Hương không có cha nên thường dùng những lời khuyên nhủ và sự săn sóc của ba tôi như một niềm an ủi tinh thần tự nhiên và cần thiết. Có lần tôi hỏi Hương có phải cha cô ta đã chết thì Hương lại lắc đầu, quay đi và trả lời là không biết. Tôi hỏi dì Năm, mẹ Hương, thì dì Năm cũng không trả lời, chỉ ậm ừ cho qua chuyện. Tôi về nhà hỏi ba tôi thì ba tôi cũng không trả lời. Tôi cảm nhận ra có một chuyện gì đó không ổn về số phận của cha Hương nhưng vẫn không tìm đâu ra một lời giải đáp thỏa đáng. Còn tôi thì không có em gái nên bao nhiêu tình thương tôi chỉ dành cho Hương, một tình thương tự nhiên và thánh thiện.
Chiến tranh cũng đã hạn chế rất nhiều sinh hoạt trong gia đình phật tử chúng tôi. Không còn những đêm trăng sáng quây quần bên lửa hồng. Không còn những buổi đóng trại ở lại suốt hai ba ngày đêm. Ðến những năm 1966, 1967 thì phần cuối của làng, trong đó có chùa Ba Phong, đã trở thành vùng tranh chấp. Chúng tôi vẫn đi chùa nhưng phải về nhà sớm hơn. Chúng tôi vẫn cấm trại vào những ngày lễ lớn nhưng trại thường bế mạc trước khi trời tối trong cùng ngày. Nhưng một chủ nhật nọ chúng tôi bị kẹt lại chùa vì chiến trận bùng nổ ác liệt giữa một đơn vị địa phương quân của quận Duy Xuyên và các đơn vị Cộng Sản từ bên kia sông tràn qua. Cả đoàn chúng tôi, ngoại trừ các anh huynh trưởng, đều phải ở lại chùa đêm đó.
Thật ra chúng tôi không ai dám ngủ, chỉ nằm sát dưới chánh điện, chờ cho trời sáng và ngưng tiếng súng để ra về. Có vài đoàn sinh sợ quá miệng không ngớt niệm hồng danh Ðức Quan Thế Âm. Khoảng nửa đêm thì một toán du kích Cộng Sản đột nhập vào chùa. Ánh sáng của chiếc đèn dầu nhỏ trên bàn thờ Phật không sáng lắm nhưng cũng đủ để biết là có người đeo súng đi vào phía chánh điện. Toán du kích đi vào chùa từng người như những bóng ma trơi trong truyện kinh dị. Hai chị huynh trưởng biết có chuyện nên ngồi dậy và bước ra phía trước. Tôi không nghe hai chị nói gì với họ nhưng sau đó thì một chị bước về phía Hương và khẽ lay Hương dậy. Chị dắt Hương đi về phía người du kích lớn tuổi, có vẻ là người chỉ huy của toán. Người du kích già nầy để súng xuống và ngồi bên cạnh Hương. Ông ta đưa tay vuốt tóc cô bé một cách trìu mến. Họ nói chuyện với nhau chừng vài phút, rồi tôi nghe tiếng Hương vừa lắc đầu vừa khóc lớn. Thế là sự thắc mắc bấy lâu nay về số phận của cha Hương đã được giải tỏa. Một hồi sau người du kích già đứng dậy và lặng lẽ ra đi. Hương trở về chỗ ngủ. Sáng hôm sau chúng tôi trở vềnhà nhưng Hương không còn vui vẻ, tươi tắn như hôm trước nữa. Cô bé dường như đang băng khuâng, lo sợ một điều gì.
Khi tôi lên mười bốn tuổi thì Hương cũng đã mười ba. Chúng tôi đã từ giã trường tiểu học Xuyên Châu để cùng lên Trung Học Duy Xuyên vài năm trước đó . Tình bạn giữa chúng tôi mỗi ngày cũng lớn lên cùng năm tháng. Nhưng mối tình tự nhiên, vô tư và thánh thiện của thời còn bé cũng vì thời gian mà mất dần đi ý nghĩa. Hương dưới mắt tôi không chỉ là một cô gái nhưng còn là một cô gái đẹp. Hương đẹp thật. Cô bé có đôi mắt thật tròn, mái tóc học trò đen lánh trong chiếc áo dài lụa màu trắng ngà. Những cái đụng chạm chân tay dù vô tình cũng đã bắt đầy gây cho tôi những cảm giác ngất ngây là lạ, và cũng là cho khuôn mặt trái xoan xinh xắn của cô bé đỏ như trái gấc một hồi lâu. Chúng tôi vẫn đi chung nhau một đường mỗi ngày hai buổi nhưng đã biết phải đi xa xa nhau một chút. Chúng tôi vẫn thường đi ra bờ sông coi bà con đào hến nhưng cũng đã bắt đầu thấy ngượng ngùng khi gặp một người khác có cái nhìn tò mò soi bói. Giống như tôi, Hương cũng đã bắt đầu biết ước ao, mơ mộng, xây dựng tương lai bằng những tháp ngấ Và chúng tôi cũng ý thức rằng bên kia khu vườn thơ mộng của tâm hồn hai đứa tôi là một bầu trời đầy mây đen và giông bão. Phải chăng chiến tranh đã làm tuổi thơ Việt Nam già nhanh hơn tuổi tác của mình. Bố của Hương thường viết thơ về nhà do một người giao liên đem đến. Ông cần thuốc tây, cần tiền bạc, cần gạo mắm, cần đủ thứ trong lúc mẹ Hương phải buôn tảo gánh tần, ngày tắt mặt tối để dành dụm từng đồng từng cắt. Nhưng bà để dành được đồng nào ông sai người về nhà lấy đi đồng đô Ba tôi có ý định gởi tôi ra Ðà Nẵng học và cũng đề nghị dì Năm dắt Hương đi Ðà Nẵng ở luôn để tránh phiền hà, sách nhiễu và cũng để lo cho Hương ăn học an toàn nhưng bà ta không chịu. Mẹ Hương là một bà mẹ nhà quê truyền thống, khái niệm gọi là chọn lựa dường như không có trong suy nghĩ của bà.
Mùa Xuân năm 1968, mùa Xuân mãi mãi sẽ được ghi nhớ trong lịch sử dân tộc Việt Nam như là một trong những trang bi thảm, đau thương nhất. Mùa xuân mà mỗi câu, mỗi chữ trong bốn câu thơ của Hồ Chí Minh đã được nhuộm bằng máu của hàng trăm, hàng ngàn thanh niên trong cả hai miền Nam Bắc. Cuộc tổng tấn công của Cộng Sản vào Tết Mậu Thân là một trong những cố gắng lớn nhất của họ nhưng lại hơi bất ngờ đối với quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Nhiều thành phố, quận lỵ, làng mạc miền Nam đã bị Cộng quân tràn ngập. Làng Mã Châu của tôi cũng nằm trong danh sách những nạn nhân mà Cộng Sản gọi là "tự nỗi dậy". Trước áp lực của Cộng quân, Quận trưởng quận Duy Xuyên đã di tản chiến thuật lên căn cứ quân sự Hòn Bằng ở gần Trà Kiệu. Quận lỵ từ đêm giao thừa đã hoàn toàn bỏ ngổ Khi tôi thức dậy sáng mùng một Tết thì đã thấy vài du kích mặc áo đen và vài chính quy Cộng Sản mặc áo xanh lá cây đi nghinh ngang ngoài đường. Lần đầu tiên tôi nghe những bài hát chiến đấu được phát ra từ cái loa phóng thanh họ chiếm được của phòng thông tin quận. Tôi quen nghe những bài hát như Dây Thân Ái, Sen Trắng nhẹ nhàng, tha thiết nên không thể có cảm tình với những giọng hát cao the thé, khó nghe, được lập đi lập lại tối ngày. Ba tôi bắt tôi phải ngồi ngay miệng hầm để khi có tiếng súng thì nhảy xuống tránh đạn cho kịp vì ông ta tiên đoán thế nào quân đội Cộng Hòa cũng sẽ phản công.
Ðúng vậy, mùng ba Tết quân đội Cộng Hòa từ Ðà Nẵng đã bắt đầu mở những cuộc phản công tái chiếm quận lỵ quận Duy Xuyên. Súng lớn súng nhỏ thi nhau nỗ đinh tai nhức óc. Chúng tôi nằm ngay giữa mặt trận và chịu đựng suốt bốn ngày đêm liên tiếp. Với tôi, đây lần đầu tiên tôi xa Hương lâu nhất. Bốn ngày đối với tôi tưởng chừng như vô tận. Tôi chỉ mong trận chiến sớm tàn để còn đi gặp Hương. Ngồi trong góc hầm trú ẩn tôi thầm cầu nguyện cho Hương được bình an. Sau trận chiến nầy, tôi tự nói với mình, nhất định sẽ cố thuyết phục Hương cùng đi Ðà Nẵng học với tôi như ba tôi đã hứa. Chúng tôi sẽ học thật giỏi và đổ đạt thật cao. Một ngày thật đẹp trời chúng tôi sẽ trở về với thôn làng xinh xắn của chúng tôi, về với dòng sông Thu Bồn, với bến đò Chợ Vạn, với tình thương yêu của ba, của mẹ và của bà con thân thuộc. Hương sẽ là một cô giáo như cô bé thường mơ ước và tôi sẽ là một kỷ sư xây dựng. Quê hương tôi sẽ không còn tiếng súng, không còn tiếng khóc, chúng tôi sẽ gầy dựng lại quê hương, sẽ cùng vui tươi quanh bếp lửa hồng trong những đêm lửa trại.
Ðến khoảng mùng sáu tháng giêng thì tiếng súng đã tạm yên. Loa phóng thanh từ phía quận lỵ không ngớt kêu gọi đồng bào bình tỉnh, chuẩn bị ra quận để nhận đồ cứu trợ nạn nhân chiến cuộc, quân đội đã hoàn toàn tái chiếm những lãnh thổ bị mất vào tay Cộng Sản trong dịp tết vừa qua. Tôi chỉ mong có thế. Ba tôi dường như cũng thông cảm cho tình bạn chúng tôi nên gật đầu đồng ý cho tôi đi sang nhà Hương. Trên đường đi tôi nghĩ thế nào cô bé cũng mừng đến khóc khi gặp lại nhau. Cả tuần lễ rồi chứ ít oi gì. Chúng tôi chưa bao giờ xa nhau lâu như thế. Chưa bước chân vào nhà tôi đã cất tiếng gọi Hương ơi thật lớn. Cánh cửa mở, dì Năm bước ra nhưng không có Hương theo sau như mọi ngày. Cả bầu trời như tối sầm lại khi dì Năm kể tôi nghe chuyện ba của Hương, trong khi rút đi, đã bắt Hương theo bất chấp lời van xin cầu khẩn của dì Năm. Lúc đó tôi mới để ý thấy đôi mắt dì Năm đỏ hoe. Chắc dì đã khóc vì nhớ Hương nhiều lắm. Bỏ mặc dì Năm đứng một mình trong sân, tôi chạy ra phía bờ sông. Dòng sông im vắng, không một bóng người. Tàn quân Cộng Sản đã rút đi từ lâu. Họ rút đi mang theo người bạn gái thân thương nhất của đời tôi. Tôi ngồi xuống bên bờ sông quen thuộc và ôm mặt khóc. Chỉ năm ngày mà quê hương tôi và cả cuộc đời tôi đã hoàn toàn đổi khác. Cuộc chiến đã biến ngôi làng Mã Châu đẹp tuyệt vời thành một nơi hoang tàn đổ cháy. Vắng bóng Hương, từ đó, dòng sông cũng trở nên cô độc.
Và tôi cũng ra đi. Ba tôi quyết định bỏ làng ra đi lánh nạn. Một buổi sáng mùa Xuân, sau khi giao nhà cửa lại cho một người bà con coi sóc, gia đình tôi đáp xe đi Ðà Nẵng và sau đó thì vô Sài Gòn lập nghiệp. Thời hoa niên với mối tình, không hẳn nên gọi là tình yêu nhưng dĩ nhiên vượt xa ý nghĩa của tình bạn, của tôi và Hương đã bị cắt đứt trong một nốt nhạc buồn như thế.
Thời gian trôi qua, vết thương thời thơ ấu cũng nguôi ngoai dần. Cuộc sống mới và tuổi trưởng thành, dĩ nhiên, không ít thì nhiều cũng làm thay đổi những ước mơ của thời thơ ấu. Có điều là không thể nào quên Hương được vì cô bé là chiếc bóng không rời trong thời hoa niên nhiều kỷ niệm của chúng tôi. Sau ngày Cộng Sản chiếm trọn miền Nam, gia đình tôi quyết định ở lại Sài Gòn chứ không dọn về miền Trung. Qua tin tức từ một số người quen từ ngoài Trung vào cho biết thì ba Hương đã trở thành bí thư Xã, quyền uy và sang trọng. Cái nhà ngói duy nhất trong làng của ông Cửu Phan đã bị tịch thu để là nhà riêng cho ông bí thư. Ông Cữu Phan, một đảng viên Việt Quốc bị tố là phản động và bị đày đi vùng kinh tế mới trên tận Diêm Sơn. Nhiều người vào ra nhưng không hề nghe ai nói gì về Hương hay nghe Hương nhắc nhở gì đến tôi. Thời gian đồng nghĩa với lãng quên. Lòng người cũng đổi thay theo thời thế. Tôi nhiều lần tự nhủ. Tôi viết cho cô ta vài lá thư nhưng vì tự ái nên viết xong thì lại xé bồ Hương bây giờ hẳn nhiên không còn là Hương của bảy năm về trước, không còn là Hương của thời đuổi bướm dọc bờ sông. Nhìn mấy cô của các đoàn kịch Nam Bộ đóng vai du kích tôi tưởng tượng ra một nữ du kích tên Hương trong chiếc áo bà ba đen, cổ quấn khăn rằn, vai đeo AK đi nghinh ngang trong làng. Thế nhưng còn đôi mắt, giọng nói, tiếng cười, vầng tráng và nhất là tính tình nhu hòa đôn hậu của Hương thì sao. Ánh mắt và tính tình của Hương tôi tin rằng không ai có thể làm thay đổi được. Phía sau chiếc áo đen, chiếc khăn rằn ghê rợn kia là một thân thể Việt Nam hiền dịu, thiết tha. Suy nghĩ như vậy nên tôi quyết định về quê gặp Hương một lần. Thành thật mà nói một phần cũng vì thôi thúc của kỷ niệm nhưng một phần khác cũng chỉ vì tò mò muốn tận mắt nhìn thấy những đổi thay từ một con người con gái, đã một thời gần gũi nhất của mình.
Tôi không ghé nhà ba của Hương nhưng tìm về căn nhà cũ với hy vọng mẹ Hương vẫn còn lui tới. Ðịnh bụng là nhờ dì Năm nhắn cho Hương đến để tôi thăm. Quả đúng như vậy, căn nhà vẫn còn đô Dì Năm bước ra mở cửa. Dì Năm già hơn nhiều và sững sờ nhìn tôi một hồi như không thể nào tin là tôi còn có ngày trở lại nơi nầy. Dì im lặng mở cửa và ra dấu mời tôi vào nhấ Căn nhà khá tối nên dì phải thắp đèn dù trời chưa tối. Ngọn đèn vừa bật sáng là tôi cũng là lúc tôi cảm thấy mình vừa hụt chân rơi vào khoảng không vô tận. Một chiếc bàn thờ nhỏ đang thờ một cô gái chừng mười hai mười ba tuổi trong chiếc áo trắng học trố Người đó không ai khác hơn là Hương. Tấm hình nầy Hương chụp ở một tiệm ảnh ở Nam Phước khi cô bé vừa lên lớp sáu. Hương cũng tặng tôi một tấm hình như thế nhưng chẳng may bị lạc mất trong những ngày chạy giặc. Hương chết thật rồi. Con chim họa mi nho nhỏ trong khu vườn thơ ấucủa tôi đã chết. Theo lời dì Năm kể, ngày Hương bị ba của Hương bắt theo, và sau đó thì gia đình tôi cũng từ bỏ xóm làng ra đi nhưng dì vẫn một mình ở lại chịu đựng bom đạn để chờ ngày Hương trở lại. Nhưng thời gian vẫn trôi và Hương vẫn miệt mài tin tức. Mãi cho đến tháng 4 năm 1975, ba của Hương trở về với đoàn quân Cộng Sản chiến thắng. Ông ta không ghé về nhà nhưng đóng quân ngoài quận lỵ. Dì Năm khó khăn lắm mới tìm gặp ông ta để hỏi thăm tin tức của Hương thì ông ta chỉ trả lời vỏn vẹn "Con Hương hy sinh rồi". Bản thân ông ta cũng đã có vợ khác từ những ngày còn ở trong bưng. Dì Năm nguyền rủa ông ta thậm tệ vì hơn ai hết ông ta là kẻ chịu trách nhiệm trước cái chết của Hương. Quan hệ của họ từ đó chẳng còn gì với nhau nữa. Dì Năm một mình về sống trong căn nhà cũ dột nát với tuổi già bóng xế, với hương hồn của đứa con gái duy nhất của bấ Bà không khóc dù đang kể lại quảng đời bi thảm của một kiếp làm người. Ðôi mắt dì Năm như một dòng suối khô mùa hạ, những giọt nước mắt cuối cùng của một bà mẹ Việt Nam đã nhỏ xuống cho đứa con thân yêu và cho quãng đời mình cơ cực của mình.
Tôi từ giã quê hương đau thương và khốn khổ của tôi để lần nữa đáp xe đò trở vô Sài Gòn. Trong lúc đang cố ru giấc ngủ, vô tình một giọng ngâm thơ phát ra từ chiếc máy Radio nhỏ của một người ngồi bên cạnh. Một giọng ngâm nữ đang ngâm bài "Quê Hương" của Giang Nam. Ðối với tôi bài thơ biểu tượng một sự nhân danh bỉ ổi và đê tiện nhất của chủ nghĩa Cộng Sản, một chủ nghĩa đang cố biến những tâm hồn như bướm trắng trở về loài sâu bỗ Cô du kích trong thơ Giang Nam biết đâu cũng chỉ là một người con gái Việt Nam khác mang số phận như Hương. Và hàng triệu người con gái, con trai khác đã chết cho tham vọng của những tín đồ cuồng tín Cộng Sản. Giang Nam yêu quê hương "vì trong từng nắm đất, có một phần xương thịt của em tôi". Tôi thì không cảm thấy vậy. Một nhà văn Ý có lần đã viết "Muốn yêu quê hương thì trước hết quê hương phải thật đáng yêu". Ngày nào chế độ Cộng Sản còn ngự trị thì quê hương còn mất đi nhiều ý nghĩa. Trong đầu óc tôi lúc bấy giờ chỉ có ý niệm trốn chạy. Tôi phải trốn chạy ra khỏi quê hương trước, dù trốn chạy để rồi trở về. Khi chiếc xe chạy ngang cầu Câu Lâu, tôi lần cuối nhìn qua phía bờ sông và thầm nói "Vĩnh biệt Hương".
Trần Trung Ðạo