vhnt, số 221
28 August 1996
Trong số này:
thư vhnt..................................................................PCL
T h ơ :
1 - Thơ trẻ Sài Gòn: Vũ Trọng Quang ..................Nguyễn Dũng p/t
- Trương Chi khác .......................................Vũ Trọng Quang
- Ðôi mắt khác ........................................................
- Ý nghĩ khác ...........................................Vũ Trọng Quang
2 - Cầm tay / Không đề .............................................TTH.
3 - Thơ dịch: e. e. cummings ..................................Trần Thuyên
4 - Áo em ..................................................Trần Thái Vân
5 - Thuyền đi ...........................................Luân Hồ Triệu
6 - Tháng bảy đi rồi .....................................Catherine Ðào
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
7 - Thảo luận về Phạm Thị Hoài/Trần Mạnh Hảo .....Trần Hoài Thư
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
8 - Kẻ duy ngã (Solipsist) ................Fredric Brown / Trần phú dịch
9 - Ðường lên dốc núi ............................Nguyễn Tấn Hưng
Gửi đến bạn đọc những bài viết của các cây bút cũ và mới trong thế giới sinh hoạt văn nghệ trên liên mạng. Mong không khí của vhnt đem đến cho bạn chút thoải mái qua những phút thưởng thức những sáng tác chia sẻ của những cây bút có lòng với nghệ thuật.
Mùa hè sắp hết, mong những ngày hè còn lại của bạn nhiều điều vui và dư âm những ngày hè êm ả còn ở lại mãi trong bạn.
thân ái,
PCL/vhnt
LGT: Bẻ bút vẽ biếm họa để cầm lên cây bút khác: thơ. Khởi hành trễ nhưng không muộn, Vũ Trọng Quang vẫn nhảy kịp chuyến tàu định mệnh. Số phận thơ - gian nan lắm nhé! Vũ Trọng Quang chỉ cười im lặng. (Ð.T.Q.)
Trương Chi Khác
Ðêm qua cánh tay mọc dài
cố với nụ hoa dưới vực
có khi phải tin vào mệnh số
buông rơi tự do theo dạ hương
ước chi,
Lẽ nào sống thường xuyên bằng nghi vấn
phải chăng chính từ đôi môi hình trái tim kia
mãi mãi màu huyết dụ
bao lâu rồi từ đôi mắt khép hờ kia
tiếng hát còn nhỏ lệ
hình như bên trong lồng ngực trái kia
và,
Tôi đeo đuổi tôi hoài tôi không gặp
có khi phải tạm tin vào kiếp khác
xuôi mái chèo trên kia
thèm một lời vỗ về giả dối
vì sao,
Lẽ nào thức thường xuyên cùng chiêm bao một mình.
Ðôi Mắt Khác
Từ sự nức nở đầu tiên
những giọt nước mắt em rơi xuống tim anh
biến thành thạch nhũ
đeo đẳng, suốt hành trình yêu đương
ngu xuẩn
Dòng sông ai đó đã nói không tắm được hai lần
em tiếp tục nhỏ xuống vai anh những giọt lệ rơi
ướt sũng gian dối
Son phấn đêm đêm
dung nhan em biến dạng tự bao giờ
anh vẫn nhận ra
hồ ly
Ngôi sao rực rỡ từ đôi mắt xưa
mê hoặc anh đến dường nào
khuya rồi đã tắt.
Ý Nghĩ Khác
Ðó là niềm kiêu hãnh của cây độc
rụng tai ương xuống đời trái hung bạo
sung sướng
vô ngần
Ðó là niềm khát khao của hoa thơm
toả ngất ngây cho đời đầy hương ngát
hạnh phúc
vô ngần
Cây không độc
hoa không hương thơm
có thể nào một lần dâng hiến
khóc thôi.
Vũ Trọng Quang
Cầm Tay
Cầm tay em, chiều đang đi biệt
Cứ vội tìm gương mặt em đâu
Chỉ con suối và đòng nước biếc
Dấu nỗi rụt rè tôi nắm lấy đầy tay.
Không Ðề
Thương Người ta mãi làm thơ
Câu yêu, câu nhớ, câu chờ, câu mong
Bây chừ con sáo sang sông
Bài thơ bỏ lại giữa dòng xanh rêu
Ta đi nhặt nhạnh nắng chiều
Nhóm ba nhành lá thả nhiều khói hương.
1990
TTH
thơ e. e. cummings
a total stranger one black day
knocked living the hell out of me -
who found forgiveness hard because
my(as it happened)self he was
- but now that fiend and i are such
immortal friends the other's each
một gã lạ một ngày tăm tối
đánh sự sống tôi văng khỏi chính tôi -
tôi tha thứ vốn không dễ bởi
chính (trong vụ này) tôi là gã lạ kia
- nhưng giờ hắn và tôi lại đã
thành tâm giao bất diệt của nhau
I shall imagine life
is not worth dying, if
(and when) roses complain
their beauties are in vain
but though mankind persuades
itself that every weed's
a rose, roses (you feel
certain) will only smile
tôi sẽ tưởng tượng cuộc sống
không đáng để hy sinh, nếu
(và khi) những nụ hoa hồng than vãn
sắc hoa đẹp cũng vô can
loài người thường hay tự thuyết
rằng từng cọng cỏ là hoa
hoa hồng (bạn tin chắc) sẽ
mỉm cười không chấp muội mê
seeker of truth
follow no path
all paths lead where
truth is here
kẻ tìm chân lý
không lối nào theo
mọi lối dẫn đến
chân lý là đây
who are you, little i
(five or six years old)
peering from high
window; at the gold
of november sunset
(and feeling: that if day
has to become night
this is a beautiful way)
là ai, nhỏ bé tôi
(lên năm hay sáu tuổi)
nhìn từ cao
cửa sổ; về rực rỡ
tháng mười một hoàng hôn
(và cảm nhận: rằng nếu ngày
sẽ phải vào đêm
đây là một lối vào diễm tuyệt)
"o purple finch
please tell me why
this summer world (and you and i
who love so much to live)
must die"
"if i
should tell you anything"
(that eagerly sweet carolling
self answers me)
"i could not sing"
"hỡi chú chim nhỏ
hãy nói cùng ta tại sao
thế giới hè này (và ngươi cùng ta
còn đang rất yêu thương sự sống)
phải chết"
"nếu tôi
phải nói gì cùng bạn"
(chính tiếng ru nôn nao ngọt ngào
đó trả lời tôi)
"tôi không thể hót ca"
Trần Thuyên chuyển ngữ
Áo Em
Áo em ngày nọ xanh màu nhạt
Như dòng sông chảy tận ngàn sau
Một nửa cuộc đời anh phiêu bạc
Khói sóng mơ về thương nhớ nhau
Áo em ngày nọ màu hoàng yến
Nên quỳ nhạt sắc mãi trong anh
Một nửa đời anh còn lưu luyến
Sân trường muà cũ lá me xanh
Áo em ngày nọ màu hồng thắm
Cho nắng xuân về nhớ ngẩn ngơ
Một nửa đời anh dầu xa lắm
Anh vẫn thầm thương chuyện tình hờ
Áo em ngày nọ màu tươi trắng
Nên anh tìm mãi chữ thiện chân
Một nửa đời anh vài cay đắng
Anh vẫn yêu thầm một ánh trăng
Áo em ngày nọ màu tím thẳm
Nên đồi sim dại chẳng khoe hoa
Một nửa đời anh đi nhiều lắm
Còn thương con nước cũ sau nhà
Áo em còn có màu không nhỉ
Vai sờn theo gió bụi thời gian
Chim trời, nếu được, đường thiên lý
Xin gởi bài thơ viết vội vàng
trần thái vân
Thuyền Đi...
Thuyền đi,
thuyền nhớ;
Thuyền về,
thuyền đợi chờ ai ?
Thuyền đi
sau một cơn say
Lắc lư thuyền nhớ
thương ai ven bờ
Thuyền về
từ một cõi mơ
Góp mùi hương cũ
đợi chờ thiên thu
Luân Hồ Triệu
Tháng Bảy Đi Rồi
Tháng bảy đi ngang, rộn rã cười
Chút tình trong mắt, ngập chơi vơi
Gió luà trong lá, đàn mê mải
Những sợi tơ lòng, khẽ buông lơi
Tháng bảy ngọt ngào, tia mắt ấm
Công viên xào xạc, rộn ràng chân
Huyên thuyên tim hát, kêu khe khẽ
Bán hết thời gian, để thật gần
Tháng bảy thơ tình, viết vu vơ
Bâng khuâng thả thả, ép mộng mơ
Gửi theo cơn gió chiều đi lạc
đáp xuống đâu đây, chút mong chờ
Tháng bảy thương nhau, đếm nụ hồng
Nắng rồi, mưa đó, ướt mắt trong
Ai xoè tay nhỏ, xin đan kín
Kẻo tình tan biến giữa mênh mông
Tháng bảy đi rồi, ai biết không?
Rong chơi một chút, lạc chút hồn
Nắng hè gay gắt, hơi cay mắt
Thi sĩ cóc buồn, nhớ mông lung
Bé Lì
Thảo Luận về Phạm Thị Hoài /Trần Mạnh Hảo
Phần I:
Trước hết khi viết một bài phê bình nào, người phê bình phải đặt mình vào hoàn cảnh xã hội của người viết, và một câu hỏi luôn luôn đặt ra: Ðúng hay không đúng. Nếu những gì mà Phạm Thị Hoài viết là đúng thì sao? Văn chương phải thành thật. Phạm Thị Hoài có quyền viết thành thật hay không?
Theo tôi, bài phê bình của Trần Mạnh Hảo đã cho chúng ta thấy rõ về con người của ông (sau Ly Thân)... đó là một phê bình gia chủ quan. Một người cựu chiến binh luôn luôn tự hào với cái cuộc chiến tranh. Một người đại diện tốt cho chế độ. Một nhà luân lý. Một người cha, người mẹ lo lắng cho tương lai con cháu.
Hình như tất cả phẫn nộ Trần Mạnh Hảo đều trút ra trên mặt giấy. Ông không hề nói đến tài hoa của Phạm Thị Hoài, mà theo tôi là một cây viết nữ hiếm hoi rất có thực tài. Ðọc những đoạn văn trích dẫn từ Man Nương (dĩ nhiên là những câu văn mà Trần Mạnh Hảo dùng để bôi đen Phạm Thị Hoài), tôi nhận thấy cách hành văn, xử dụng chữ nghĩa của Phạm Thị Hoài rất lạ, mạnh, đậm, táo bạo, khó được tìm thấy ở bất cứ nhà văn nữ nào.
Phạm Thị Hoài đã dựng truyện ở miền Bắc, sau 1975. Ðó là những tấn thuốc nổ chậm từ một thế giới u ám, bị bưng bít bằng dối trá, lừa gạt, bị vây bọc bởi những nhân danh mỵ ngữ láo khoét, không liêm sỉ, một xã hội xuống dốc từ luân lý đạo đức. Và quả bom đã nổ. Dĩ nhiên.
Bởi vậy, Trần Mạnh Hảo mới nổi loạn qua Ly Thân. Bảo Ninh qua Nỗi Buồn Chiến Tranh,hay Dương Thu Hương, Nguyễn Huy Thiệp v.v... qua cuộc chiến tranh gọi là "thần thánh". Bởi vậy, Phan thị Vàng Anh mới có những dòng văn nổi loạn, ngang ngược của tuổi trẻ con cháu hàng ngũ thắng trận. Như vậy, chúng ta không ngạc nhiên, khi có Man Nương.
Ý nghĩ thứ hai là Trần Mạnh Hảo hình như không hiểu gì về phê bình. Hoặc bị thấm nhuần quá nhiều tư tưởng phê bình đảng tính. Có nghĩa là ông áp dụng tam đoạn luận:
Dân tộc VN anh hùng, đạo đức Bà X, ông Y là dân VN nên ông X bà Y đều anh hùng, đạo đức. Trần Mạnh Hảo đã dùng cái lập luận này để đánh Phạm Thị Hoài.
Ðây chỉ là ý kiến đầu tiên sau khi đọc bài của Trần Mạnh Hảo. Có những điều mà Trần Mạnh Hảo đặt ra tôi đồng ý, có những điều không. Về những câu gợi ý của PN, xin phép được suy nghĩ lại. Xin được chia xẻ cùng qúi quạ.
Phần II:
Như qua bài nhận định đầu tiên về bài phê bình của Trần Mạnh Hảo, tôi đã kể về ý nghĩ chung ngay sau khi đọc mà chưa đi vào chi tiết. Ý nghĩ chung ấy là Trần Mạnh Hảo đã dùng chủ quan của mình khi phê bình, và thứ hai là dùng phương pháp tam đoạn luận để làm quan tòa buộc tội. Rất tiếc tôi chưa được đọc Man Nương, để được thấy hết tư tưởng của bài. Bởi vì, một câu, một đọan không thể nói lên giá trị hay tư tưởng của tác phẩm. Những tiếng chửi thề phát ra từ người lính không thể buộc tội người lính lỗ mảng, những cuộc rượu trước khi ra trận, không thể bảo là đám lính rượu chè be bét. Những câu mà Trần Mạnh Hảo trích dẫn cũng không thể nói về con người của Phạm Thị Hoài. Và giả dụ là thật đi nữa, không thể đem một cá nhân, một nhóm, một người đàn bà, để vơ đũa cho một tập thể lớn như Trần Mạnh Hảo đã buộc. Ngay cả cá nhân của Trần Mạnh Hảo. Qua Ly Thân, người ta hiểu ông phải ly thân với Ðảng một trăm phần trăm. Nhưng hiện tại ông vẫn là đảng viên trung thành, và là một đại diện tốt của chế độ. Cái luận cứ phê bình này thật cố chấp.
Trần Mạnh Hảo đã lý luận như điều anh gợi ý là tác giả phải là chủ nhân, và tiếng nói của nhân vật là phát ngôn của tác giả. Có nghĩa là tác giả phải chịu trách nhiệm với nhân vật. Tác giả là hoá thân, phân thân của nhân vật. Vâng, đúng, với tôi. Tuy nhiên, có thể khô ng áp dụng cho Phạm Thị Hoài. Tôi không thể dùng kinh nghiệm bản thân của mình để làm một tam đọan luận nữa cho người khác.
Theo tôi, chúng ta nên phân biệt sự gởi gấm với sự chuyên chở. Có nhiều cách gởi gấm. Và cũng như có nhiều cách để chuyên chở. Viết về cái tàn bạo của cuộc chiến, sự phá sản của tinh thần, bằng tội ác, đâu có thể buộc tội là tác giả man rợ hay dùng nh ân vật để hạ nhục hàng ngũ mà ngược lại là tác giả muốn cho mọi người ghê tởm chiến tranh. Theo ý kiến chủ quan của tôi, Nỗi Buồn Chiến Tranh là một tác phẩm tuyệt vời nếu tác giả viết thành thật. Chị bà con của tôi cũng than phiền tại sao tôi lại tả quá tàn bạo những truyện chiến tranh, không nên để con cháu tôi đọc. Chị không biết tôi còn phải hãi hùng khi nhớ lại. Tôi càng sợ hãi chiến tranh, c àng mong mỏi vô biên con cháu tôi không còn cảnh cầm súng ra chiến trường nữa.
Như vậy tôi cũng bị buộc tội diều hâu.
Trường hợp Man Nương cũng vậy. Bà đã gào, rú, điên cuồng cùng chữ nghĩa của bà. Bà đã lột trần, lạnh lùng, tàn bạo, từ cái tận cùng của vực thẩm, và múa may trong vực thẳm ấy. Bà gởi gấm điều gì chăng. Hay bà chẳng ngán ai như Trần Mạnh Hảo đã buộc tội.
Nào ai biết. Thực và hư. Chỉ có tác giả mới có quyền trả lời. Riêng với độc giả cũng vậy. Tùy theo người. Có thể bạn khác tôi. Có thể tôi khác Trần Mạnh Hảo.
Khi người đàn bà (nhân vật) dám nói như thế, thì chỉ có hai cách. Một là xã hội mang quá nhiều mặt nạ để nhà văn cảm thấy phải nói, phải lột, bốc trần truồng ra. Hai là nhà văn muốn taọ nên một thế đứng như anh Dũng nhận xét. Theo tôi, Man Nương rơi vào trường hợp thứ nhất. Ngay cái tựa đề Man Nương hay Ma ri Sến đủ để nói về cái xã hội mang quá nhiều bi hài giả dối rồi.
Tôi nghĩ khi một người phê bình muốn phê bình tác phẩm nào, câu hỏi đặt ra trước hết là tác giả nói, tả, viết, xây dựng có thật hay không. Thật đây là hợp lý. (Không thể một người có bằng cấp tú tài lại nói: Trình quí anh, ba con nhỏ bị chúng tôi đưa đi cúng hà bá rồi. Chúng khóc quá trời). Vấn đề ở đây là những gì mà Phạm Thị Hoài viết là hợp lý hay không trong một xã hội có quá nhiều mặt nạ?
Ðây là ý kiến chủ quan. Có điều gì xin quí bạn chia xẻ. Chúc quí quạ ngày cuối tuần vui. Mùa hè sắp hết rồi.
Trần Hoài Thư
Kẻ Duy Ngã
Fredric Brown sinh ngày 29 tháng 10 năm 1906 tại Cincinnati, Ohio. Bắt đầu sự nghiệp bằng nghề viết báo. Năm 1947, tiểu thuyết đầu tay của ông là The Fabulous Clip Joint được giải thưởng Edgar Allan Poe, từ đó ông dành hết thời giờ vào việc viết tiểu thuyết khoa học giả tưởng và trinh thám. Ông mất năm 1972.
Solipsist (Kẻ Duy Ngã) trích trong The Short Story, do Wilfred Stone, Nancy Huddleston Packer và Robert Hoopes tuyển chọn; McGraw-Hill Book Company, New York, xuất bản năm 1983.
oOo
Walter B. Jehovah, với cái tên đó tôi không có gì phải xin lỗi vì đó đúng là cái tên của ông ta, là một kẻ duy ngã trọn đời mình. Trong trường hợp bạn không biết chữ đó thì một kẻ duy ngã là một người tin rằng chỉ có mình mới thực sự hiện hữu, những kẻ khác và vũ trụ nói chung chỉ hiện hữu trong trí tưởng tượng của hắn, và nếu hắn ta ngưng tưởng tượng thì mọi vật sẽ ngưng hiện hữu.
Một hôm Walter B. Jehovah trở thành kẻ thực hành thuyết duy ngã. Trong vòng một tuần, vợ ông bỏ theo người khác, ông mất việc thư ký giao hàng, và bị gẫy chân vì đuổi một con mèo đen để nó khỏi bước ngáng lối đi của ông.
Trên giường ở bịnh viện, ông quyết định chấm dứt mọi thứ. Nhìn qua cửa sổ, ngó lên các vì sao, ông ước chúng biến mất, và chúng không còn ở đó thật. Rồi ông ước tất cả mọi người biến mất, và bịnh viện trở nên yên tĩnh lạ lùng, cho dù đó là bịnh viện. Kế tiếp, thế giới, và ông thấy mình lơ lửng trong cõi không. Ông hủy bỏ thân thể mình cũng khá dễ dàng như thế, và làm một bước cuối cùng là ước chính mình biến mất.
Không có gì xảy ra.
Lạ thật, ông nghĩ, thuyết duy ngã có thể nào có giới hạn chăng?
Một giọng nói cất lên:
- Ðúng.
Walter B. Jehovah hỏi:
- Ngươi là ai?
- Ta là kẻ sáng tạo nên vũ trụ mà ngươi vừa mới dùng ý muốn làm biến mất. Và giờ đây ngươi thế chỗ của ta.
Có tiếng thở dài sâu.
- Cuối cùng rồi ta cũng có thể ngưng sự hiện hữu của chính mình, tìm thấy lãng quên, và để ngươi thay thế.
- Nhưng, làm sao ta có thể ngưng hiện hữu? Ðó là điều ta muốn làm.
Giọng nói đáp:
- Biết, ta biết. Ngươi phải làm giống như ta đã làm. Tạo một vũ trụ. Ðợi đến khi có kẻ nào trong đó thực sự tin cái điều mà ngươi đã tin và dùng ý muốn làm nó biến mất. Khi đó ngươi có thể ra đi và để hắn kế tục. Tạm biệt.
Và giọng nói biến mất.
Walter B. Jehovah một mình trong cõi không và chỉ còn một điều ông có thể làm được. Ông tạo nên thiên đàng và cõi thế.
Việc đó ông làm trong bảy ngày.
Fredric Brown
Trần Phú chuyển ngữ
Đường Lên Dốc Núi
Thường, con người ta hay đứng núi này trông núi nọ. Thân tâm phàm tục mà cứ hễ được voi thì lại đòi tiên. Túi tham không đáy . Lòng ham muốn như chẳng bao giờ vơi. Nhớ hồi nào tay lấm chân bùn đầu tắt mặt tối, làm hùn hục như trâu như chó, thì cái ước mơ duy nhất có lẽ là: sẽ có một ngày nào độ. học hành thi đỗ ra làm quan. Áo gấm về làng. Một người làm quan cả họ được nhờ mà. Và lẽ dĩ nhiên, không phải là làm quan dưới thời Cộng hòa. Vì làm quan dưới thời Cộng hòa là kể như nghèo khạc ra tro, nghèo ho ra máu. Nếu không biết tìm đi cổng hậu, xin vào những chỗ có nhẫm xà, có đồng vô đồng ra.
Sang bên Mỹ này cũng vậy. Ai ai cũng có một thuở ban đầu gian truân khổ ải, tróc vảy trầy vi, cố đem hết sức lao động của mình ra để đổi lấy bát cơm. Một số ít may mắn hơn, đem đổi lấy nhà lầu xe hơi. Nhưng cái ước mơ duy nhất thì hình như cũng chẳng có mấy gì thay đổi. Rằng có một ngày nào độ. học hành thi đỗ ra làm kỹ sư. Rạng mặt rỡ mày với thiên hẫ Nhưng kỹ sư bên này lại khác với làm quan ta hồi xưa ở một điểm, là cả họ chẳng thấy ai mảy may được nhờ. Họa hoằn lắm thì cũng chỉ được có mỗi một cái là tấm thân mình nhàn hẫ Hàng ngày thắt cà-ra-hoách nhảy vô văn phòng, ngồi bàn viết, vắt chân tréo nguẩy, chổng đảnh với người ta.
Ðó là trường hợp của Trách. Cái tên, Trách, mới nghe qua lần đầu mười người như một, ai ai cũng mường tượng như có cái gì đó thật là kỳ khu, quái đản ở nơi con người chàng. Như hầu hết bạn bè của chàng đều đã tiết lộ như vậy. Nhưng, trong thâm tâm, chàng chẳng bao giờ dám trách phiền cha mẹ đã đặt cho mình cái tên không mấy thanh tao nhã nhặn đô Mà trái lại, chàng còn phải mang ơn sâu nghĩa nặng nữa là đằng khác. Tại vì chàng thuộc dòng Thân Trọng, một dòng dõi danh tiếng của miền cố đô Huế. Họ Thân (Trọng) không dân (toàn làm quan), họ Hà (Thúc) không nhà (toàn ở nhà chính phủ). Sang cả lắm. Chẳng khác gì những người cung nữ luôn ở công thự, ngự công xa, xài công quỹ và, hiển nhiên, làm đĩ công khai. Thành thử đôi khi cũng tiếng tăm lắm lắm. Riêng phần Trách, nội cái tên Thân Trọng Trách của chàng không thôi, cũng phải nói rất là văn hoa chữ nghĩa. So với các Tôn Thất, Tôn Nữ thì cũng rất "mệ," rất "mụ" đó chớ!
Khác với bàng quan thiên hạ vốn là khách tục trần vẫn hay mắc cái nghiệp được voi thì lại đòi tiên, bản thân Trách, là người coi như đã được voi, chỉ thèm đòi trâu ngựa. Vì chàng thấy sau một thời gian dài làm việc ở văn phòng, với bút mực giấy tờ chồng chất, với máy "computer" vô hồn thiếu hẳn tình người, với cô thơ ký có cặp đùi trắng muốt, với bốn bức tường kín mít lặng thinh... chàng thấy người mình như nhũn ra, yếu xìu. Mấy con chuột hồi nào nằm sắp lớp trên cánh tay, trên ngực, bụng, bắp đùi, bắp chuối đã từ từ lìa bỏ nơi chôn nhau cắt rún mà bò đi đâu mất hết. Và người chàng càng lúc càng nặng cân ra, không chóng thì chầy, có ngày chàng sẽ trở thành chú Hỏa. Rồi chàng cũng sẽ chết vì bệnh đứt gân máu trong nay mai.
Chàng rất thèm mỗi ngày được nhảy ra góc đường đứng vá xe, hay trèo lên xích lô đạp đạp vòng quanh thành phố, hoặc còng lưng kéo xe ba gác khắp các vỉa hè... Nghĩa là làm cái gì cũng được, miễn sao vận dụng chân tay cho máu chảy về tim, cho hệ thống tuần hoàn lưu thông không trở ngại. Vì nếu không làm được như vậy thì chàng sẽ chết bất đắc kỳ tử. Như bác sĩ đã tiên liệu! Bằng những kiến thức vay mượn từ đời này sang đời khác! Chưa hẳn đã là chân lý, nhưng chàng phải nghe theo! Khổ thay, ở bên này không có chỗ vá xe, cũng không có xe xích lô hay xe ba gác cho chàng. Cho nên Trách đành phải áp dụng một phương thức khác, tuy không hấp dẫn mấy vì chẳng hề sinh lợi cho chàng đến một xu, là phải chạy bộ theo kiểu Mỹ, "jogging". Mỗi ngày, phải có tối thiểu nửa tiếng, hay một dặm rưỡi đoạn trường với cái vận tốc rùa bò của tấm thân đã bắt đầu bệ vệ, rung rinh.
Tuy nhiên, cái mập ú như heo kia không mấy sợ mà chỉ sợ có mỗi cái lên tăng-xông máu. Cả cuộc đời chàng, hơn hai mươi năm sống ở Việt Nam, Trách có bao giờ biết đo máu một lần là gì. Và những năm đầu ở bên này cũng vậy, chàng không có thì giờ để ý đến mấy chuyện lẩm cẩm đô Tuổi chàng đang độ thanh xuân, lại độc thân, vui tính, làm tình mạnh thì làm gì có chuyện lên máu. Cho đến một ngày thật hết sức tình cờ, chàng khám phá ra, không phải mình mà là người bạn Mỹ làm kế bên, sắp sửa chết đến nơi...
Trách hỏi cô thơ ký:
- Ê, Diane này, nảy giờ mầy có thấy thằng Jim ở đâu không, sao tao tìm nó khắp nơi mà không gặp?
Cô thơ ký vừa cười vừa trả lời:
- Ủa, chớ bộ mầy chẳng hay gì sao? Nó đã hết hơi, ngất xỉu khi lết tới phòng y tế và người ta đã chở nó vô nhà thương cứu cấp rồi. Nghe nói áp huyết của nó lên đến 155/115 gì lận.
- Thiệt vậy à! Tao mới thấy nó mặt mày tươi rói, cười cười nói nói với bạn bè buổi trưa này, sao lại có chuyện như vậy được hả?
Cô thơ ký lẳng lơ:
- Hừm, nó chỉ được cái mã bề ngoài, bên trong nát bét. Mày cũng vậy thôi, Trách ơi! Hãy đi đo thử áp huyết của mầy đi, rồi biết!
Trách cười vang:
- Tao? Một tấm thân không bao giờ biết mệt là gì mà mầy bảo tao đi đo máu? Mầy cứ hay giỡn chơi với tao hoài!
Nói cho ngay, mấy tháng gần đây, không hiểu người ta đã căn cứ vào đâu mà cứ ùn ùn nhau đua đòi, nào là bỏ hút, bỏ ăn... mỡ dầu và muối mặn, rồi thậm chí, bỏ ruột ăn vỏ cho có nhiều chất sợi, "fiber". Làm như con người vừa mới khám phá ra một cánh cửa nữa cho cõi huyền vi, nhằm gấp rút đưa nhân loại vào chốn thiên đường! Nơi có cảnh trí phù hợp với thân tâm an lạc! Vậy chớ hồi nào đàn bà đẻ ở Việt Nam vẫn ăn nhiều muối nhiều tiêu cho mặn mòi, săn da chắc thịt thì đã có sao? Tôm rang quéo, thịt kho khô đầy muối phải chấm vào nước mắm cho tan bớt chất mặn thì phải biết! Làm gì đến nỗi ăn không dám ăn. Phải lựa những món ít "calorie". Làm gì đến nỗi uống chẳng dám uống. Phải chọn những thức "diet" và không có chất cà phê. Vậy, tốt hơn hết, sao không ăn chay trường luôn đi. Vì ngoài muối tiêu, dầu mỡ, "cholesterol", thiếu cha gì những chất hóa học còn độc hơn hơi ngạt đã tồn đọng trong thịt cá, trong sữa, trong nước, và luôn cả trong rau cải. Làm như càng văn minh tân tiến là con người càng đi lần vào con đường diệt chủng, Trách nghĩ. Ðể lập lại thời bán khai, ăn lông ở lỗ. Như thể đang quay dần về khởi điểm cho một chu kỳ.
Nhưng trời cao quả là có con mắt, thiên bất dung gian, chắc bởi kiếp trước Trách khéo tu cho nên giờ này bỗng dưng có một ma lực nào đó đã nắm tay lôi Trách về phòng y tế của hãng. Và Trách thành thật yêu cầu người y tá:
- Ðâu cô làm ơn đo giùm áp huyết của tôi coi.
Không cần ngẩng đầu lên, như một cái máy, người y tá trả lời:
- Xin ông điền số an sinh xã hội vào tờ giấy này và ngồi vào ghế đằng kia.
Trách làm theo lời dặn. Ngay sau đó, người đàn bà nhỏm dậy đi vào phòng chẩn bệnh "làm việc" với chàng. Cô ta vạch khuỷu tay Trách, tìm mạch máu lớn nhất để đặt miếng nghe có dáng giống như đồng tiền tròn, rồi đo tới đo lui mấy bận. Có lẽ không hài lòng mấy với cái lỗ tai hình như đang biến chứng của mình, cô lắc đầu, bán tín bán nghi. Rồi đo lại một lần chót. Sau một hồi đắn đo cân nhắc, cô cho biết:
- Tôi không hiểu tại làm sao mà ông vẫn còn sống ("still alive") và còn trôi nổi vòng quanh ("and floated around") với cái đầu trống không của ông ("with your air head") ? Tôi chưa từng thấy ai có áp huyết cao như ông, đến những 164/133 lận!
Cái gì? 164/133? Rõ kiến thức vay mượn của con người, để hiểu biết về con người, bao giờ cũng chỉ trong giới hạn! Trách kết luận như vậy! Trách không lấy gì làm sợ hãi, vì chàng đâu có hiểu thế nào là những tiêu chuẩn, những con số mà con người đã đặt ra đâu. Chàng chỉ nhớ mang máng là con số đo áp huyết của thằng Jim vẫn còn thấp hơn của mình nhiều. Ấy vậy mà nó đã vô nhà thương cứu cấp, trong khi Trách vẫn phây phây ra đây. Tuy nhiên, chàng cũng hỏi thêm người y tá cho biết:
- Vậy chớ áp huyết trung bình của một người bình thường phải là bao nhiêu ?
- Khoảng 120/80 trở xuống là tốt. Nói rõ hơn, con số trên có cao mấy cũng không hề gì, vì tùy theo tình trạng hoạt động của mình trước khi đo. Nếu ngủ mới thức dậy thì chắc chắn số đo sẽ thấp hơn nhiều so với lúc vừa mới chơi đá banh xong. Nhưng, con số dưới mới rất là quan trọng. Vượt qua mức 90 là đã vượt qua lằn ranh an toàn, bắt đầu nguy hiểm đến tính mạng. Có thể té xỉu và chết kích ngất bất cứ lúc nào. Tốt hơn hết là ông nên đi thăm bác sĩ của ông ngay.
Trách thoáng thấy hơi choáng váng, xây xẩm mặt mày khi nghe lời giải thích trắng trợn bạch tuột đó của người y tá. Chàng đâm lo:
- Thiệt vậy sao ? Hay là cô đo lại cho tôi một lần nữa đi, chắc gì cô đã nghe thiệt đúng!
- Khỏi cần. Tôi đã nghe rất kỹ. Vì chính tôi cũng không thể tin được rằng có một người còn sống với áp huyết 164/133 như ông.
Có thiệt là nguy hiểm đến như vậy chăng? Trách bâng khuâng tự hỏi! Trở về bàn giấy, chàng ngồi vào ghế, thừ người ra một đống, suy nghĩ. Hai tay chấp vào nhau bợ sau gáy. Hai chân tréo nguẩy gác lên bàn. Hai mắt dán lên trần nhà. Mọi thứ vẫn vậy. Mọi cảnh xung quanh vẫn vậy vì có lẽ cái tâm của chàng vẫn vậy. Chàng hiểu điều đó vì chàng nhớ lờ mờ có lần bạn chàng, một sư con trốn quân dịch, đã nói: Có cảnh là vì tâm, không tâm không cảnh... Nhưng, bỗng dưng, hai lỗ tai Trách trở nên lùng bùng. Rắc rắc, như có vật gì kêu trong đó. Mắt chàng lại thấy ánh đèn néon trên trần di động, quay quay. Cái tâm của chàng đã trở nên bệnh hoạn? Tâm bệnh hay là bệnh không tưởng? Hay cả hai thứ cũng chỉ là một? Chàng không thể để cho mình bị yếu mềm, bị ảnh hưởng đến tâm thần vì những con số máy móc như vậy được.
Chàng phải tìm cách phấn đấu để thoát ra ngoài mọi ảnh hưởng huyễn hoặc đó. Làm gì có người chết kích ngất chỉ vì áp huyết cao! Chàng đứng thẳng dậy, vương vai định làm nhiều lần những cái hít vào thật sâu, những cái thở ra thật dài cho tâm thần an tịnh. Một, hai... Nhưng chàng cảm thấy mình như bị hụt hơi ngay sau đó. Không được, chàng không thể chết và cũng không thể té xỉu như thằng Jim. Chàng phải làm cái gì khác hơn nữa và chàng định bước tới bước lui, từng bước nhễ Ấy, có lẽ cũng không kịp nữa rồi. Ðôi chân chàng như lơ lửng, hụt hẫng trên không. Trái đất này hình như không còn trọng lực. Vũ trụ này hình như cũng chẳng còn là một bộ máy của lẽ huyền vi. Tất cả đã quay cuồng với tiếng vù vù, vù vù trong tai chàng. Mỗi lúc càng một lớn. Chàng nhắm mắt lại mà vẫn thấy những luồng điện quang cuồn cuộn tủa ra quanh mình. Chàng chụp lấy cạnh bàn, cố chống chọi để đứng thẳng người. Với một chút lý trí còn sót lại, hai tay chàng đùa mọi vật trên bàn sang một bên, định ngã người lên bàn nằm nghỉ. Nhưng hai đầu gối chàng đột nhiên như gãy ngang, khuỵu xuống. Ðôi cánh tay chàng cũng không còn sinh khí, dịu nhiễu như hai vòi con bạch tuột chết sình. Không còn cái gì để bám víu, níu kéo lại hết. Cả thân mình chàng rơi đánh rầm xuống sàn xi măng. Cùng nhiều vật rơi theo loãng xoãng. Trước mắt chàng giờ chỉ là một vùng tối âm u, bao la sâu thẳm đến tận mấy tầng trời. Trong phút chốc chàng như đã lọt vào quỹ đạo của cõi âm. Một đóa hoa trắng ngần nổi trôi trên nền trời mênh mông đen tối...
Bỗng dưng, vẳng bên tai chàng lại có tiếng nói hối hả của Diane: "Trách, Trách, mầy làm gì vậy? Mầy có sao không? Thôi chết rồi, lại thêm một người nữa bị bệnh đứng tim." Tiếp đến, những bước chân rộn rã trên nền nhà. Rồi sau cùng, tiếng còi xe hồng thập tự.
Chính vì vậy mà bây giờ Trách phải chạy như Mỹ, "jogging" như Mỹ. Nếu chàng không muốn chết sớm. Bác sĩ dặn kỹ như vậy. Bổn mạng chàng rồi cũng không khác gì hơn bổn mạng của thằng Jim. Uống thuốc mỗi ngày, những viên "mini-press" đầu đỏ đầu trắng, hình con nhộng. Và đều chi, chạy bộ một dặm rưỡi mỗi ngày. Chỉ khác nhau một điều là Jim hay chạy trong những siêu thị lớn, còn Trách thích chạy ngay ngoài đường phố, vòng vòng nơi chung cư chàng đang Nắng đội nón, mưa che dù, nóng mặc quần
đùi, lạnh vận áo len... cỡ nào Trách cũng phải chạy. Không bỏ sót một buổi chiều nào.
Mà nói cho ngay, chạy bộ đối với chàng trong thời gian này cũng có nhiều cái hay, cái thú của nó. Ðiểm trước tiên là khỏe khoắn trong người, Trách nghĩ như vậy. Một liều thuốc ngủ thì đúng hơn, vì chàng cảm thấy rất dễ dỗ giấc ngủ. Những suy tư phiền muộn trong đầu như đã từ từ tuột xuống đôi bàn chân và được tống khứ ra ngoài theo từng hơi thở, từng bước chạy. Thứ đến là Trách làm quen thêm nhiều người cùng xóm. Già có, sồn sồn có, và cùng trang lứa với chàng cũng cô Những người chỉ để khoác tay chào hỏi cũng có, và những người dành để chuyện trò, kết bạn tâm giao cũng cô Một trong những người trở nên rất thân rất gần với chàng là Maria. Thân và gần đến nỗi hai đứa không còn chạy ngược chiều nữa, mà cùng chạy song song, cùng nhìn về một hướng. Vì Maria đã dọn vào ở chung với chàng. Vừa chia bớt tiền nhà vừa hủ hỉ có nhau. Hai tâm hồn cùng quay về một nẻo riêng, trên cùng một đoạn đường, trong một khoảng thời gian nào đó của cuộc đời này.
Ðiểm làm cho Trách bực nhứt là những thằng nhải con lên bảy lên năm. Không hiểu cha mẹ chúng dạy bảo thế nào, hay là dòng máu kỳ thị chủng tộc có sẵn trong huyết quản, mà cứ hay nhạo báng, cười la mỗi lúc Trách chạy ngang qua. Sau nhiều lần như thế chàng nghĩ là, nếu không người dạy dỗ chúng thì chàng phải ra tay. Một cách kín đáo, khéo léo thôi. Phải đợi đến lúc chạng vạng tối chàng mới thi hành được. Chỉ cần một hai cái bạt tai nẩy lửa thì bọn chúng im ngay. Từ bỏ thói quen, không bao giờ dám tái phạm. Cách chữa trị theo lối đông phương này, đôi lúc kể ra cũng hơi vũ phu đó, nhưng rất là hiệu nghiệm, chàng thấy vậy.
Phải chăng con người ta vẫn phải luôn luôn nhận lãnh những hậu quả của những gì mình đã làm? Làm tốt thì hưởng tốt làm xấu thì chịu xấu? Như một luật định không bao giờ thay đổi! Như hễ có vay thì phải có trả! Cho dù đã xảy ra từ trăm triệu năm về trước hay đang xảy ra ngay cả bây giờ? Kể cũng hơi nghịch lý thật! Vì nếu như vậy thì vũ trụ này sẽ ngừng lại và không có gì thay đổi hết. Vì con người ta, nếu đã có ăn thì cũng đã có ỉa, từ muôn ngàn năm nay. Như mây ấy vẫn bay, như gió kia vẫn thổi, và như nước nọ vẫn không ngừng trôi. Vậy mà có người bảo, "không một ai có thể tắm hai lần trên một dòng sông", là tại làm sao? Làm như trong cái không đã có cái có và trong cái có đã có cái không. Chẳng khác gì chuyện "lão ông mất ngựa." Như "sắc tức thị không, không tức thị sắc" mà miệng đời thường hay nhắc nhở.
Bởi vì nếu Trách cứ uống thuốc và cứ chạy bộ như vậy hoài, năm này sang tháng khác, thì chắc chắn sẽ chẳng có chuyện xảy ra, có phả ? Nhưng không! Ngay những viên thuốc vô tri, vô giác kia rồi còn phải lờn. Từ "mini-press" chàng phải đổi sang "verelan". Ngay như niềm vui kia của chàng, khi biết mình còn tồn tại với thời gian cho dù chỉ trong một khoảnh khắc ngắn, rồi cũng phải tắt ngấm. Vì chàng bắt đầu chán ngấy những vòng đua của cua-rơ thành phố. Và chàng cũng chán ngấy luôn cả cái cung cách phải bắt thân xác và tâm linh của mình làm việc như cái máy.
Trách tự biết bản thân của mình chính là một con sư tử chớ không phải là một con cừu non. Một con sư tử mất mẹ, từng sống với bầy cừu hiền lành hơn nửa đời đã qua, cho đến một ngày tự nhận ra khuôn mặt thật của mình hiển hiện dưới dòng sông. Một con sư tử thèm sống tự do, chẳng muốn phải bị ai ràng buộc cản trở. Một con sư tử muốn "lấy độc trị độc." Lấy rượu chè thay cho thuốc thang. Lấy hút sách thay cho chạy bộ. Lấy vui chơi trác táng thay cho lo âu phiền muộn vì s phải chết sớm với căn bệnh hiểm nghèo, vô phương chữa trị. Như cùi hủi, như ung thư. Trời kêu ai nấy dẫ Mà quả thật, các bác sĩ Tây cũng như Ta đều đã từng cho Trách biết như vậy. Chỉ chận cữ (làm như sốt rét rừng không bằng!) chớ chẳng hề trị dứt căn. Quái, chỉ có bệnh lên máu thôi mà cũng khó khăn đến như vậy sao?
Từ ngày tự mình phân thuốc, "điều nghiên" cách chữa trị, Trách cảm thấy yêu đời trở lại. Chàng tự nhủ, tất cả chẳng qua chỉ là tâm bệnh chớ không phải thân bệnh. Hãy quên cái tâm bệnh đó đi là xong. Và chàng vẫn sống nhăn răng ra đây, mặc dù chàng biết chắc, nếu ngay bây giờ có bắt chàng đem đi cân đo, thì bảo đảm áp huyết của chàng không thể dưới 160/130...
Cho đến một đêm trăng rằm tỏ rạng như đêm nay. Với những sợi tơ trời phơn phớt vàng, óng ả mượt mà rơi trên thảm cỏ xanh rì. Giữa những cơn gió vào đêm mát rượi lòng người hiu hiu thổi. Vạn vật như bỗng trở nên trong lành, thánh thiện. Thoang thoảng mùi thơm của cỏ nội cây đồng. "Vốc nước trăng vào tay, nghịch hoa hương vương áo" là vậy. Chẳng trách khách tục trần hạ giới vẫn hay đòi theo tiên lên trời ngắm cảnh bồng lai.
Không biết đây là lần thứ mấy Trách đã tức cảnh sinh tình nơi mảnh vườn con sau nhà một người bạn thân. Mảnh vườn con có kê một bộ bàn ghế mùa hè lộ thiên bằng đá trắng. Với một cây dù che nắng che sương, màu mè sặc sỡ cắm ngay giữa bàn tròn. Bên này một hồ tắm rộng lớn, nước lọc ngày đêm trong veo như mắt mèo. Bên kia, sát hàng rào, có cây lê cao lớn của người láng giềng xà qua nhiều nhánh đầy trái sai oằn. Lũ bạn chàng vẫn hay hái trộm trong những lúc nhậu khuya, trong những đêm hè oi ả mới tắm mát trồi lên. Và trong góc vườn là một hòn non bộ đồ sộ, với đầy đủ ngư tiều canh mục, cây cao bóng cầ Ai nói bọn trẻ ngày nay không biết vui hưởng thú thanh nhàn?
Mán, tên của gia chủ, người gốc cao nguyên Ban-mê-thuộc, nhắn nhủ cùng Trách:
- Ê, sao bữa nay mầy không dẫn con Maria theo. Bộ mầy sợ thằng Mường nó đòi uống rượu cần của mầy hả?
Uống rượu cần là đề tài của thằng Mường trong một buổi tiệc trước đây. Mường, một tên cựu Lôi Hổ thâm niên công vụ, chuyên sống và hoạt động trên miền rừng núi. Cho nên nó rất quen thuộc với tiếng còng và tiếng phèn la. Cùng những điệu nhảy soan-đố-mì. Và dĩ nhiên, với phong tục uống rượu cần của dân bản Thượng. Rượu cần thường chỉ dùng để đãi khách quí từ phương xa tới, có khi chỉ là những kẻ lỡ bước kẹt đường như Mường thôi. Cũng nên hiểu là không phải ai họ cũng quí hết đâu, mà tùy theo hình tướng của khách giang hồ, xuất hiện dưới nhãn quan của hỗ Và người đãi rượu cần, thông thường, sẽ nhường vợ mình ngủ với khách trong đêm đô Không ưng thuận, tức là cố tình sỉ nhục khổ chủ, có thể bị giết chết dễ như chơi.
Hóa ra, ở xứ Thượng, đúng là có chuyện "ở đời muôn sự của chung". Và đối với dân Kinh mới tới lần đầu, cũng cần nên hiểu rõ hơn cái câu "hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi". Vì vai trò của anh hùng, ở đây, được đo lường bằng mức độ xem coi mình có đủ can đảm để dám xài cái của chung đó không! Và chính Mường cho biết, hắn phải tìm cách giả dại qua ải, bằng cách uống thêm cả ché rượu cần trước khi tàn tiệc. Có say lăn lóc ra sàn thì đêm đó "của chung" mới không cách gì làm cho "anh hùng" cục cựa nổi.
Trách cười khan:
- Vừa phải thôi, tụi mầy cũng phải biết tụi Mỹ khác xa với tụi Thượng chớ?
- Ðâu đâu, nó khác ở chỗ nào đâu? Sao mầy không mang con Maria tới đây, vạch ra cho tụi tao xem thử coi.
Cả bọn được nước, cười ầm lên. Trách gắp một miếng chim cút tươm mỡ vàng hực, được quay chảo ngay tại chỗ, bỏ vào miệng nhai nhóp nhép. Tuy không ngon thịt bằng chằng nghịt, ốc cao như ở bên nhà nhưng cũng giòn rụm thơm phức, nhậu bắt lắm. Chàng hớp một ngụm bia, giả bộ đánh trống lãng:
- Tao muốn nói đến cái phong tục tập quán kia kìa. Ðầu óc tụi mầy toàn nghĩ chuyện ô uế, tục trần. Mà chắc gì cái thằng Mường nói thiệt cho tụi bây nghe. Tao hỏi tụi mầy nếu ở trên trển không có con gái đẹp thì làm sao có người viết lên bản nhạc "Thương về xứ Thượng" cho được ch "Từ khi xa rừng núi... cũ"...
Mường cắt ngang:
- Ớ, ớ, cái thằng này! Sao dạo này mầy chậm tiêu quá vậy Trách. Mầy phải biết như lũ tụi mình đây, bố bảo cũng chẳng có thằng nào chó chê cứt hết. Nhưng ngặc một điều là, phải chi nó đừng nhường con vợ nó cho tao. Và phải chi... nó chỉ cần tặng cho tao một trong mấy đứa con gái của nó, thì tao nói thật, mèo này làm sao chê mỡ đó cho được hở ?
Thì ra trên cõi đời này không có gì là của chung hết, Trách nghĩ vậy. Ai ai cũng vì lòng tham mà muốn giành lấy mọi thứ trên đời làm của riêng của mình. Và đừng nói những kẻ tu hành mà không có lòng tham. Cha và sư kia còn ham chuộng chuỗi tốt, xâu tươi nữa là! Rồi nếu không được toại nguyện thì lại đâm ra giận hờn, ghen ghét. Lắm khi dẫn đến những hành động tàn ác, phi nhân, ngu si mê muội. Chính vì vậy mà trên trái đất này, nếu muốn nói rộng hơn, không có ngày nào là không có chiến tranh. Không có ngày nào là không có chém giết...
Ðêm đã quá khuya rồi, Trách đứng dậy từ giã bạn bè. Chàng muốn về nhà sớm hơn một chút. Không phải là chàng sợ Maria trông, mà là chàng tự thấy mình bữa nay đã hơi quá chén, ngà ngà say. Mọi vật xung quanh chàng từng chập, lúc ẩn lúc hiện trong hơi sương, lung linh phản chiếu ánh trăng khuya dằng dặc của một đêm rằm. Tuy nhiên, chàng vẫn còn nghe được tiếng nước róc rách chảy quanh hòn non bộ. Chứng tỏ chàng còn thừa sức để lái xe về nhà một mình. Chàng quả quyết như vậy... Nhưng không, chỉ cần ra đến đường cái và nhìn kia, vạch sơn trắng đứt khoảng chính giữa xa lộ như tẻ ra năm bảy nhánh. Chàng dụi mắt, định thần. Bớt ga, chạy chậm lại. Phải biết, thà chậm còn hơn không đến nơi!
Mò mẫm một lúc Trách mới tra được chìa khóa vào ổ khóa. Cánh cửa sịt mở và bên trong tối om. Có lẽ Maria đã đi ngủ vì không thể chờ đợi chàng lâu hơn được nữa. Chàng dò dẫm từng bước đi, hơi ngã nghiêng xiêu vẹo. Qua khỏi hành lang ngắn chàng nắm được nắm cửa. Không muốn đánh thức Maria dậy, chàng lần mò đi thẳng vô phòng vệ sinh. Khép cửa, bật đèn. Ðôi mắt quen bóng tối của chàng bỗng cay như xê Lại dụi mắt, định thần. Xem kìa, khuôn mặt chàng hốc hác tiều tụy trong gương. Thân xác chàng bệ rạc đến như vậy sao? Một tinh thần minh mẫn không thể nằm trong một thân xác bệ rạc, chàng nhủ thầm! Chàng mỉm cười với chính mình rồi mở vòi, vốc nước rửa mặt. Đánh răng, súc miệng cho bớt hôi hám. Xong, chàng thay đồ nhẹ và leo lên giường nằm cạnh Maria. Kéo nửa chăn đấp qua người. Ðụng chạm, Maria trở mình, ú ớ vài tiếng rồi quay sang bên kia ngủ tiếp. Hơi thở nàng, nhịp tim nàng Trách nghe rõ mồn một trong đêm khuya. Trách chấp hai tay lên ngực, nhắm mắt, dỗ giấc ngủ.
Chỉ trong một khoảnh khắc, Trách thấy đất trời quay quay. Ðầu nhức bưng bưng. Bụng cồn cào, rột rẹt vì đầy ấp hơi men. Bợn dẫ Như muốn trào lên. Chàng hơi ngạc nhiên, chỉ mới một xâu bia thôi mà, làm gì chàng có thể cho chó ăn chè cho được chứ. Trách đâu có thể yếu xìu như vậy. Hay là chàng đã bị nhiễm sương, trúng gió vì ngồi ngoài trời quá lâu. Chàng nhỏm dậy đi vào phòng vệ sinh lần nữa. Chân phải đá vào chân giường một cái đau điếng... Bỗng, hai đầu gối chàng lại như gãy ngang, quỵ xuống. Người chàng nhũn ra, té đánh rầm trên sàn gỗ. Nhiều vật nằm trên bàn son phấn của Maria rơi theo lịch bịch. Chàng gượng đứng dậy. Không được. Chàng gượng ngồi dậy. Không được. Chàng muốn cử động tay chân. Không được. Thôi rồi, thân xác chàng đã không còn một mảy may sinh khí. Chàng nhận biết rõ ràng như vậy. Nhưng chàng chưa muốn chết. Chàng muốn sống, muốn thở. Trời ơi, hơi thở của chàng cũng đã không còn. Phải làm thế nào đây? Phải làm cách chi đây? Ai đó, cứu tôi với! Cứu tôi! Mà chàng nào có la lên được...
- Trách, Trách... Chúa ơi, anh làm gì vậy? Anh có sao không? Ðể em đỡ anh lên giường... Chúa ơi, sao người anh thế này? Trách ơi, Trách...
Chàng còn nghe rõ ràng tiếng gọi của Maria. Chàng còn biết rõ ràng Maria đang xốc nách hai vai, kéo chàng lê lết đến bên hông giường. Chàng cũng còn nhận ra, thật rõ ràng, thân xác chàng bây giờ chỉ còn là một đống thịt không xương. Vì chàng tự hiểu mình hơn ai hết, rằng hơi thở của mình đã mất. Nhịp tim của mình đã ngưng. Không biết đã từ bao lâu rồi. Chàng cố hớp hớp mớ không khí vô hình, nguồn sinh lực vô biên trời cho đó, nhưng chàng đã thất bại. Cố gắng lần nữa, thất bại nữa. Và cũng lại thất bại nữa...
Cho đến một lúc bỗng dưng chàng thở khì được một hơi. Và chàng chợt nghe tiếng khóc của Maria.
- Trách ơi, Trách! Anh đừng chết, Trách ơi... Ðừng bỏ em, Trách ơi...
Chàng thều thào:
- Anh không sao đâu em.
Tuy nhiên, thân xác Trách vẫn còn mềm như cọng bún, mặc dù chàng đã thấy rõ ràng một chút sự sống vừa mới đưọc hồi phục. Chàng ngã nửa thân trên lên giường. Maria túm hai đùi chàng giúp sức đẩy chàng lên. Trách thì thầm: Lạy chúa, Maria đã cứu con... Rồi thoi thóp, đắm chìm trong bóng đêm đen...
"Trong mơ mơ màng màng chàng thấy mình cùng với Chúa đi dọc theo một bãi biển, để nhìn lại những cảnh đời mà mình đã trải qua, chớp tắt trên bầu trời. Trong bất cứ cảnh đời nào chàng đã trải qua, chàng đều thấy hai hàng dấu chân song song đều đặn in hằn trên cát, một của Chúa và một của chàng. Cho đến khi cảnh đời sau cùng xuất hiện, chàng ngạc nhiên nhận ra rằng, chỉ còn mỗi một hàng dấu chân in trên cát mà thôi. Cảnh đời đó là cảnh đời đau khổ nhứt của chàng. Chàng hỏi: Lạy Chúa, Chúa đã nói với con, một khi con theo Chúa, thì Chúa sẽ dìu con đi hết đoạn đường trần, nhưng con không hiểu tại sao gần đến giờ phút cuối cùng, chính là lúc con đau khổ nhất, con cần có Chúa nhất, Chúa lại bỏ con, bằng chứng là chỉ còn mỗi một hàng dấu chân in trên cát? Chúa trả lời: Này con yêu dấu, ta không bao giờ rời con trong những lúc con đau khổ khốn cùng. Sở dĩ con chỉ thấy một hàng dấu chân trên cát, là vì, trong những giây phút đó chính ta đã bồng con".
Chàng hơi ngỡ ngàng, sửng sốt vì lời phán của Chúa. Nhưng, trong thâm tâm chàng, chàng muốn bày tỏ nỗi lòng cùng ngài rằng: Lạy chúa, thật ra không phải Chúa, mà chính là Maria, một Maria phàm tục, đã thật sự cứu con... Nhưng chàng chẳng hề dám hở môi.
"Rồi chàng lại thấy mình cùng với Phật dạo chơi trong khu vườn vô ưu huyền bí. Chàng cũng được nhìn lại những cảnh đời mình đã trải qua, chớp tắt trên bầu trời. Nhưng trước sau in hệt, chàng chỉ thấy có mỗi một hàng dấu chân, không biết của Phật hay của chàng, in trên lớp lá vàng mùa thu. Chàng hết sức ngạc nhiên quay qua hỏi: Nam mô A di đà Phật, vậy chớ con phải tìm Phật ở đâu, và cớ làm sao con không thấy Phật cùng con đi suốt đoạn đường trần? Phật cười bảo: Này con hỡi, ta không những đang và sẽ cùng con đi hết đoạn đường trần, mà ta còn đã và sẽ cùng con đi mãi mãi từ kiếp này qua kiếp khác. Chỉ tại thân tâm con còn bị vô minh ám muội ngăn che, khuất lấp mà con không thấy được đó thôi. Vì con với ta tuy hai mà một. Ðó, chính là "thân ngã" và "chân ngã" đang ở trong con. Con phải biết cái "thân ngã" giả tạm kia của con luôn luôn bị chi phối bởi lẽ "vô thường," tức mau chóng suy vi tàn tạ, và lẽ "vô ngã," tức không ai có thể tự chủ, tồn tại được trước cái chết rồi sẽ đến trong nay mai. Trong khi cái "chân ngã" đời đời kia của con mà nhiều người nói khác đi là cái tánh chân thật, là tự tánh, là phật tánh, là bát nhã, là bản lai diện mục hay khuôn mặt thật xưa nay... sẽ vĩnh cữu ở cùng con vì nó "bất sinh, bất diệt, bất tĩnh, bất động." Con muốn tìm ta, tức Phật hay phật tánh, thì con hãy hướng nội mà tu. Phật tại tâm chính là vậy đó, hỡi con. Nhưng, một khi con đã nhận ra phật tánh rồi mà con không biết trau dồi thì chẳng khác gì gương kia không lau đầy bụi. Lý nhân quả, lưới luân hồi làm sao mà con thoát khỏi"...
Chàng định hỏi thêm: Nam mô A di đà Phật, nếu đúng như lời Phật dạy, thì thật ra chẳng phải Phật mà là chính con, con phải tự cứu lấy con?
Trách chưa kịp hở môi thì giựt mình tỉnh dậy. Mồ hôi trên người chàng vã ra như tắm. Bên cạnh, Maria đã trở lại với giấc ngủ say sưa từ hồi nào chàng không hay biết. Chàng thở ra một hơi dài, nghĩ ngợi mông lung. Hình như chàng học được một điều gì, nhận biết một điều gì. Sau hai lần mon men vào cõi chết. Tuy chậm, nhưng có còn hơn không. Thôi thì, cứ lấy hai sai làm một đúng. "Bùn lắm thì Bụt to, nước lớn thì thuyền cao" hẳn là vậy. Mặc dù chàng chưa chính thức bước qua bên kia cửa tử, nhưng chàng cũng đã có được cái căn phần, đứng trên ngạch cửa mà nhìn vào. Quả thật, cuộc đời này sao còn lắm chuyện bao la, huyền diệu. Cái sống này chàng chưa hiểu hết thì làm sao chàng biết được chuyện chết! Nhưng chắc chắn chàng đã có một cái nhìn, hướng về chốn tâm linh, khác hơn xưa. Phải chăng "giác ngộ" chỉ là sự nhận thức trái ngược với những nhận thức mà mình đã có từ trước đến nay về một vấn đề nào đó? Bất giác chàng ngồi dậy, trong âm thầm, cảm đề mấy câu thơ:
Chim bay về núi bóng hoàng hôn
Người tìm về núi lúc đưa hồn
Lần qua cửa tử con thuyền giác
Ngộ chốn trầm luân cõi Phật môn
Trần thế Tu di đời đối cảnh
Vô minh chân ngã mối càn khôn
Ôi thôi thế sự hư danh lợi
Gác lại trần ai buổi dọn hồn
Nguyễn Tấn Hưng