vhnt, số 231
30 September 1996
Trong số này:
thư vhnt................................................................Chinh
đính chính.................................................................
T h ơ :
1 - Vàng phai trước ngõ, nay thầm nhớ xưa........... .........Chinh
2 - Vô đề..........................................................CỏMay
3 - Tháng sáu.............................................An Phú Vang (NNA)
4 - Lời hẹn của nhà thơ........................................Nguyên Túc
5 - Lời hót của chim.................................Trần Nguyên Thảo
6 - Giới Thiệu Sách Báo Mới Phát Hành....................... VanHoc
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
7 - Vài kỷ niệm nhỏ với họa sĩ Trịnh Cung......Trần Huyền Trân
8 - Bùi Giáng thế giới của Thái Bình Ðiên Quốc...............N/A
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
9 - Thố Ti....................................................Cao Xuân Huy
10- Trách lửa................................................Phụng Hoàng
Bạn thân mến,
Chỉ để tả một tiếng đàn, Nguyễn Tuân đã viết:
Tiếng đàn hậm hực, chừng như không thoát hết vào không gian. Nó nghẹn ngào, liễm kết cái u uất vào tận bên trong lòng người thẩm âm. Nó là một cái tâm sự không tiết được ra lời. Nó là một nỗi ủ kín bực dọc bưng bít. Nó giống như cái trạng huống than thở của một cảnh ngộ vô tri âm. Nó là cái tấm tức sinh lý của một sự giao hoan lưng chừng. Nó là niềm vang dội quằn quại của những tiếng chung tình. Nó là cái dư ba của bể chiều đứt chân sóng. Nó là một cơn gió chẳng lọt kẻ mành thưa. Nó là sự tái phát chứng tật phong thấp vào lễ cuối thu dầm dề mưa ẩm và nhức nhối xương tủy. Nó là cái lả lay nhào lìa của lá bỏ cành. Nó là cái lê thê của nấm mồ vô danh hưu hưu ngọn vàng so le. Nó là cái oan uổng nghìn đời của cuộc sống thanh âm. Nó là sự khốn nạn khốn đốn của chỉ tơ con phím Nó là một chuyện vướng vít nửa vời...
Đoạn văn trên, như một bài thơ xuôi, được trích trong "Chùa Ðàn", tác phẩm cuối của Nguyễn trước 54 - đánh dấu sự chấm dứt hẳn của văn học tiền chiến. Ðoạn văn ngắn này, tôi đã đọc thuộc đến trên mười năm. Tiếng Việt của chúng ta vốn đẹp, văn của Nguyễn Tuân còn tăng cái đẹp của nó lên đến bội phần. Chính những lời văn đó, của Nguyễn, đã dắt díu tôi vào cõi văn chương nhỏ bécủa riêng mình; đã cho tôi nỗi đam mê chữ nghĩa không cùng, cho đến ngày hôm nay.
Thư này, tôi viết riêng cho các bạn đọc còn ngại ngần chưa gửi sáng tác của mình cho VHNT. Bạn hãy viết đi, viết thật nhiều. Tôi tin rằng, bạn cũng như tôi, sẽ yêu vô cùng cái "cõi viết". Và, nhớ rằng, VHNT luôn là nơi chốn để bạn gửi tặng những sáng tác đầu đời, sẽ luôn là mảnh đất để bạn vun trồng những giấc mơ lung linh qua chữ nghiã, để bạn ghi lại những chia xẻ vô âm.
Tôi chỉ xin nhắc lại lời của chủ biên Phạm Chi Lan trong "thư vhnt", vhnt số 230, "...Xin hãy tiếp tục gửi những sáng tác của bạn cho vhnt, lúc nào chúng tôi cũng đón nhận mọi bài viết của bạn, trân trọng và rất quí sự đóng góp ấy." Cuối cùng, xin chúc bạn tìm thấy niềm vui trong những lời văn, câu thơ của VHNT trong những ngày "thiếu quê hương." (*).
Chinh (viết thay PCL)
(*). tựa đề một tác phẩm của Nguyễn Tuân.
Ðính chính
Trong bài "Tản mạn về Văn học và Phê bình", đăng trên VHNT No 228, tôi đã chép sai hai câu thơ của Bằng Việt: "bể" thành "biển", "mặn mòi" thành "mặt mòn". Nay xin đính chính hai câu thơ của Bằng Việt
Giọt nước soi trên tay không cùng màu sóng bể
Bể mặn mòi sôi sục biết bao nhiêu
và một số lỗi chính tả:
giòng (sông, nước mắt) ----> dòng (sông, nước mắt)
chú dải ---------------------> chú giải
Xinh Nhã ---------------------> Xin Nhã
dệt lên ---------------------> dệt nên
Thành thật xin lỗi bạn đọc về những sơ suất trên!
Chuy Sước
Vàng Phai Trước Ngõ, Nay Thầm Nhớ Xưa
Ngày Ðăm Chiêu, Tối Chiêu Ðăm
Vàng Phai Trước Ngõ, Nay Thầm Nhớ Xưa
Bùi Giáng
tặng anh Ng.P.Nguyên: chút sáu-tám sương mù
(1). Bao Năm Vọng Lại: Chiêm Bao Giọng Người
Mù mờ ngàn dặm chim muông
Ghé qua phố lạ hỏi thăm giọng người
Nghe vùi chôn dưới truông xa
Hoa lay nỗi nhớ: vàng phai một thời.
(2). Bãi Xưa Nay Ðã Nát Nhàu Chiêm Bao
Ðoạn trường này: của riêng ta
Bể dâu kia cũng mù sa trong đời
Vườn nhân gian đã u sầu
Bãi sân xưa cũng nát nhàu chiêm bao.
(3). Ðưa Nhau Khỏi Chốn Vọng Âm Xa Nguồn
Về đâu? đất trích hỏi chào
Bao năm vọng lại - chiêm bao: giọng người.
Mây tan vào rượu, ngập tràn
Mù sương lục bát... lên đường phiêu lưu!
(4). Trăng Mong Manh Quá Buổi Ðầu
Sơ huyền: một mảnh trăng non
Chiều xiêu đổ bóng, mỏi mòn chờ nhau.
Tấc lòng rêu phủ, cho ai?
Ngọn trăm năm thổi - vàng phai, còn gì...
(5). Thơ Rơi Từng Sợi, Sắc Màu: Vô Vi
Kiếp này, đã lỗi câu xưa
Dặm xa thiêm thiếp, lời chưa buộc lời.
Thì thôi cố quận muôn trùng
Lạnh tê lục bát: muôn trùng gửi ai?
Chinh
20 tháng 9, 96.
Vô đề
Paris chiều nay rất buồn
Con nhện nào quấn quít giăng tơ
Giăng tròn nỗi nhớ
Giăng đầy cơn đau
Và
Anh vẫn ngồi bên em
trong
hình hài hư ảo
Anh, ngày mai em đi
Ta ngồi đó mà sao xa vạn kiếp
Lá bay ngang, cơn gió cuốn mù
Tóc rối
Em không còn thấy
Bóng mình ngã dưới chân
Vì chút mặt trời
trong mắt anh
đã tắt
Paris chiều nay rất buồn
Anh không còn uống những chùm nho đỏ
Vẽ cho em đồi cỏ hoang sơ
(Cánh đồi xanh, xanh rợn cả người)
Không,
Anh chỉ lặng thinh
Trước nỗi ám ảnh chia ly
Và những ngày mai xa vắng
Ngày mai
Không còn anh
Không còn em
Không còn chi trong trí nhớ
Chỉ còn
Con nhện nào
buồn quá
chẳng giăng tơ
CỏMay
24 Sept 1996
Tháng Sáu
Tháng sáu tôi trời mưa tay vừa hai vòng sắt
Tháng sáu nỗi nhớ thừa ngày cách biệt rồi đây
Không thấy được hàng cây tôi thề ngày trở lại
Làm thơ gởi tặng người xanh áo, gởi tặng mây
Tháng sáu có bàn tay thon gọi mòn mỏi, cứu rỗi
Từ tháng hai xanh về tủm tỉm miệng xinh cười
Tôi làm thơ gởi tặng người tặng tuổi
Trở lại hoang đàng rồi, tháng sáu với tôi ơi!
An Phú Vang (NNA)
6 tháng 6, 95
Lời Hẹn của Nhà Thơ
- tặng NHN -
Nhà thơ qua đời
Bài thơ ra đời
Gió thở than
vàng góc rừng thu
Run rẩy một mình
cây thông đơn chiếc
Bên mộ già không tên
Không gian là mảnh vườn
Thời gian trồng luyến thương
Gió băng ngàn dặm đường
Cuồng nộ - dỗi hờn
Mang bài thơ cuối
Trong u buồn
tìm trao tiếng hát
Giữ điệu ru nào xa xôi
bên nôi
Nguyên Túc
09-26-1996
Lời Hót Của Chim
Em như là chim nhỏ
Thích đùa vui hát ca
Sáng, đường hoa lối cỏ
Chiều, ươm mộng hiền hoà
Nhưng trời già bắt tội
Nhốt trong chiếc lồng tre
Những ngày mưa lụt lội
Chim ủ rũ sau hè
Cuối mùa trời không nắng
Lá vàng rơi mênh mang
Chim buồn nhìn mây trắng
Lòng như trời, thênh thang
Ðêm hè trăng tròn sáng
Chim biến mình bay ra
Ðường thơm trăng loang loáng
Vương gót ngọc dáng ngà
Ta cuối đường đứng đợi
Rung giọt tình ngân nga
Tim lặng buồn không nói
Thương em đời xót xa
Tóc bay muôn nghìn sợi
Là dây tình yêu ma
Trói nhau, đời chật chội
Nên tình vượt giang hà
Có khi lòng thức giấc
Thấy mộng dệt đường hoa
Lại quên đi tiềm thức
Mơ màng giấc ngọc ngà
Em vẫn là chim hót
Biết đâu đời điêu ngoa
Ta nhìn em thương xót
Lệ đau nhỏ hằng hà
Em còn nhìn đời mộng
Bằng đôi mắt tròn xoe?
Vì em, đời biển động
Ta thao thức đêm về
Chiều, ta ngồi im bóng
Lắng nghe tiếng chim ca
Thương em, đời nghiêng nón
Ngọt hương tình bay xa...
trần nguyên thảo
Sách Báo Mới Hải Ngoại
1. Về
Tập truyện của Hà Thúc Sinh, Văn Mới xuất bản, dày 130 trang, giá 7 Mỹ kim. Tuyển tập gồm chín truyện ngắn nhà văn Hà Thúc Sinh viết trong hai năm 1994, 1995. Qua hai tập truyện ngắn Hà Thúc Sinh cho xuất bản trong năm 1996, người đọc thấy rõ ràng một chuyển hướng về bút pháp và lối nhà văn nhìn về đời sống. Văn như trầm xuống, lắng đọng hơn. Nhiều truyện ngắn rất gần với tùy bút.
2. Thức, Buồn chi
Thi tập của Nguyễn Nam An, Nhân Văn xuất bản, tranh bìa và phụ bản của Khánh Trường, phụ bản nhạc của Phan Ni Tấn và Nguyễn Quyết Thắng, sách dày 250 trang, giá 14 Mỹ kim. Nguyễn Nam An là nhà thơ đã từng góp mặt trong Tuyển tập Thi ca 75-77 do Nhà xuất bản Bố Cái xuất bản từ những ngày sơ khai của văn chương hải ngoại, và bặt dấu thật lâu, năm 1996 lại xuất hiện và cho in một lần hai thi tập: Chim ngủ đậu cành xanh và Thức, Buồn chi. Tập thơ gồm ba phần: Thức, Buồn chi, Quê nhà và Lưu lạc. Theo nhận xét của nhiều bạn văn, phần Quê Nhà là phần hay nhất trong tập thơ.
3. Câu thơ về người
Thi tập của Phan Ni Tấn, Nhân Văn xuất bản, Tựa của Luân Hoán, Bạt của Trang Châu, Ð. Toán trình bày bìa, sách dày 130 trang in trên giấy quí, giá 10 Mỹ kim.
Nhà văn Trang Châu ghi nhận nội dung thơ Phan Ni Tấn là "thơ của những gì đã mất: quê hương, bằng hữu, kỷ niệm xưa, đời sống cũ. Do đó ý thơ ngậm ngùi, hơi thơ dằng dặc, nhạc điệu trong thơ u trầm". Ðiều đó đúng. Nhưng thơ Phan Ni Tấn có khác thơ những thi sĩ lưu vong khác ở chỗ cái ngậm ngùi u trầm đó lại được diễn tả bằng một thứ ngôn ngữ nói rất Nam bộ, một thí nghiệm đã thành công trong văn nhưng khó có nhà thơ nào dám dùng. Ngôn ngữ chơn chất mà nói lên được cái u trầm tinh tế, đó là thành công của Phan Ni Tấn.
4. Hoa vạn hạt, cuối mùa.
Tập truyện ngắn của Hồ Minh Dũng, Ðại Nam xuất bản, bìa của Khánh Trường, phụ bản của Ðinh Cường, Trình bày của Cao Xuân Huy, sách dày 360 trang, giá 14 Mỹ kim. Hồ Minh Dũng là một trong thế hệ những nhà văn trẻ Miền Trung xuất hiện rất sớm trên văn đàn, từ thời đầu thập niên 60. Truyện của anh đã đăng thường xuyên trên các tạp chí như Văn, Bách Khoa, nhưng mãi tới nay, Hồ Minh Dũng mới cho in được cuốn sách đầu tay. Bạn đọc Văn Học đã đọc nhiều truyện ngắn của anh trên tạp chí này, như "Nước Non Ngàn Dặm" rút từ trong tuyển tập. Tất cả truyện ngắn trong sách đều được viết ở hải ngoại, nhiều truyện viết theo những đề tài lịch sử. Sách do nhà Ðại Nam in và phát hành, nên có bán tại hầu hết các hiệu sách.
5. Tư tưởng Phật giáo trong Văn học thời Lý
Tiểu luận của Nguyễn Vĩnh Thượng, Hiện Ðại (Canada) xuất bản, nhà xuất bản Văn Nghệ tổng phát hành, sách dày 150 trang, giá 9 Mỹ kim, 12 Gia kim. Tác giả nguyên là giáo sư Triết học tại Sài gòn nên tập tiểu luận có giá trị đúng như lời nhận xét của Giáo sư Nguyễn Thanh Liêm: "Tư tưởng Phật giáo trong Văn học thời Lý có thể thỏa mãn được nhiều độc giả, nhất là những độc giả trí thức, những người thích đọc để tìm hiểu, để suy tư, để biết thêm về tư tưởng Phật giáo, về văn học Việt Nam, ở một thời đại xa xưa trong lịch sử nước nhà, và do đó quyển sách rất xứng đáng được một chỗ đứng quan trọng trong bảng liệt kê các sách tham khảo cần yếu trong các công trình biên khảo sau này".
6. Giữa hai chân trời.
Tùy bút của Hoàng Liên tác giả "Ánh sáng và Bóng tối", Mõ Làng (San Jose CA, USA) xuất bản, tranh bìa của họa sĩ Võ Ðình, tranh minh họa của Nguyễn Quý, sách dày 184 trang, giá 12 Mỹ kim. Tuy tác giả đề rõ nơi bìa sách đây là một tập tùy bút, nhưng đọc kỹ lại thấy "Giữa hai chân rời" có tính chất một tập truyện ngắn nhiều hơn. Tác giả phân thân thành những nhân vật ở ngôi thứ ba, và nhờ nhân vật nói lên những suy nghĩ cảm xúc của mình về những người Việt đang sống chênh vênh giữa hai chân trời, hai nền văn hóa. Các suy nghĩ và xúc cảm ấy, nhìn chung, không có những nét bi đát như một số người di dân cầm bút khác từng ghi lên giấy. Ðiều đó có lẽ do ở tầm nhìn rộng và sâu của tác giả về cuộc sống di dân, tầm nhìn vượt qua những vấn đề thời sự của cộng đồng để tìm đến những điều cốt tủy.
7. Ðịa chỉ của một người.
Tập thơ của Lê Bi, Tân Thư xuất bản, bìa của Khánh Trường, sách dày 220 trang, giá 15 Mỹ kim. Lê Bi là bút hiệu Hoàng Chính Nghĩa (tạp chí Ðối Thoại) thường dùng mỗi khi làm thơ. Anh đã cho in ba thi tập (Thơ tình cùng trời đất, California 1978, Thơ trích, California 1990, và tập này). Thơ Lê Bi có một sắc thái riêng biệt trong làng thơ hải ngoại: thơ là phương tiện nói lên khát vọng tự do dân chủ cho dân tộc, vì thế thơ anh mang nhiều dáng dấp sử thi, lấy hứng từ những đề tài lịch sử hoặc thời sự. Ðặc điểm ấy mang lợi thế là thơ có nhiều chất lửa. Nhưng nó cũng có nhiều bất lợi, là một khi chuyện thời sự đi qua, thơ Lê Bi mất phần nào hấp lực ban đầu. Tập thơ độc đáo do có nhiều chất trí tuệ, giống như những bài thơ của Chế Lan Viên viết sau thời thơ mới.
8. Tuyển tập Văn Học Nghệ Thuật Liên Mạng
vhnt@saomai.org xuất bản, tuyển tập văn chương đầu tiên của những người tham gia vào chương trình văn học nghệ thuật trên Internet, qua diễn đàn do Phạm Chi Lan và thân hữu ở Mỹ chủ trương. Tuyển tập chọn lọc từ những sáng tác và biên khảo của những số báo Văn học Nghệ thuật phát hành trên liên mạng vhnt@saomai.org. Internet là một phương tiện truyền thông mới mẻ trong vòng vài năm trở lại đây, có thể tạo thành một cuộc cách mạng lớn trong việc phổ biến công trình sáng tạo nghệ thuật tới người thưởng lãm. Thay vì đọc sách, càng ngày càng có nhiều người đọc màn ảnh máy computer. Tuyển tập này giới thiệu với độc giả trong và ngoài hệ thống Internet sinh hoạt văn học của giới trẻ Việt Nam trên toàn thế giới, và bạn đọc sẽ thấy giới trẻ chuyên gia ngày nay có một sức sống phong phú, một phương tiện phổ biến tiện dụng, dân chủ và nhanh chóng hơn hẳn những phương tiện truyền thông cố hữu như sách báo. Tuyển tập in thật đẹp, dày 350 trang, giá 7 Mỹ kim.
9. Nam Quốc Sơn Hà
Tường thiên tiểu thuyết lịch sử của Yên Tử Cư sĩ Trần Ðại Sỹ, Ðại Nam xuất bản, bộ truyện gồm 5 tập, dày 2250 trang, giá toàn tập là 70 Mỹ kim. Về khả năng viết dài ở hải ngoại, chắc không có ai qua mặt được Trần Ðại Sỹ. Ông đã viết được tất cả 8 bộ trường thiên dã sử, lấy chủ đề ngay trong lịch sử Việt Nam, số trang đã in lên tới 11.000 trang. Sách của Trần Ðại Sỹ đã được các nhà xuất bản Nam Á (Paris) Xuân Thu, Ðại Nam (Mỹ) ấn hành, và với phí tổn in khổng lồ mà ông vẫn ra sách đều đặn, chứng tỏ độc giả thích đọc các chuyện dã sử của ông rất đông. Trong sinh hoạt văn chương ở hải ngoại, Trần Ðại Sỹ thuộc vào một nhánh riêng biệt, gần như không liên hệ tới các dòng chung. Ông chọn con đường ít ai đi là viết truyện dã sử, pha trộn giữa sử liệu, triết học, võ học và lối kể chuyện dân gian. Có thể nói Trần Ðại Sỹ đi theo con đường của nhà văn Kim Dung, với hoài bão khai thác kho tàng văn hóa Việt để chứng minh niềm tự hào dân tộc. Bộ sách in rất công phu, trang nhã, hiện có bán tại các hiệu sách.
10. Nguyễn Du, Ðại thi hào dân tộc
Biên khảo của Phạm Công Thiện, Viện Triết lý VN và Triết học Thế giới xuất bản, sách dày 450 trang, giá 18 Mỹ kim. Ðây là cuốn sách mới nhất của Phạm Công Thiện viết tại Mỹ sau khi ttừ Úc châu qua, và là cuốn đầu tiên ông viết về cổ văn Việt Nam. Phạm Công Thiện không tiếp cận thơ Nguyễn Du theo lối biên khảo thông thường. Có thể nói "Truyện Kiều" và thơ chữ Hán của Nguyễn Du chỉ là cái cớ để tác giả suy tưởng tự do về những ý niệm triết lý trong đạo Phật. Trong cái "cớ" phong phú và "bí ẩn lạ lùng" ấy (lời Phạm Công Thiện nói về tác phẩm Nguyễn Du), tác giả đi từ xúc động khi đọc một số câu thơ của thi hào, chứ không quan tâm đến cái toàn thể. Tác phẩm vì thế không phải là một cuốn biên khảo theo nghĩa thông thường, mà là một thứ tùy bút triết học.
Những suy tưởng triết lý Phạm Công Thiện khám phá từ "cái cớ Nguyễn Du" rất độc đáo và sâu sắc. Từ những câu thơ tưởng như tầm thường, tác giả làm kinh ngạc người đọc vì những giải thích cao siêu ẩn mặt đằng sau những câu chữ tầm thường. Một cuốn sách đáng đọc.
11. Gia đình tôi
Truyện của Duy Lam, Văn Hoá Ngày Nay tái bản theo bản in lần thứ nhất của nhà Phượng Giang (Sài gòn) trước 1975 nhưng có thêm các tranh minh họa của chính tác giả. Ngay từ khi mới xuất hiện trên Văn Hóa Ngày Nay do Nhất Linh cho tục bản những năm cuối thập niên 50, những đoạn văn vui của Duy Lam trong "Gia đình tôi" đã khiến cho người đọc thời bấy giờ thích thú theo dõi. Tái bản bốn mươi năm sau, Gia Ðình Tôi chắc chắn vẫn còn làm thích thú bạn đọc, vì nếp sống những gia đình trung lưu của Việt Nam vẫn không thay đổi bao nhiêu.
Cũng cần nhắc lại là từ khi sang Mỹ, nhà văn Duy Lam làm thơ viết sách rất hăng, anh đã cho in ba tác phẩm: Tuyển tập truyện mới (1995), Em phải sống (1996) và Gia đình tôi (1996)
12. Ðể em làm gió
Thơ Trần Mộng Tú, Tựa của Ðỗ Quý Toàn, bìa và phụ bản của Thái Tuấn, Thế Kỷ xuất bản và phát hành, giá 10 Mỹ kim. Giới thiệu thơ Trần Mộng Tú, có lẽ không ai giới thiệu hay và đúng như Ðỗ Quý Toàn. Anh viết trong lời Tựa: "Có một tác giả chỉ làm thơ về tình yêu, đó là Trần Mộng Tú. Ðọc Trần Mộng Tú, người ta thấy bài thơ nào cũng như để nói riêng với một người nào đó. Thơ kể chuyện tình yêu, nói với người yêu, nói về một người yêu. Một chiếc lá, một tách trà, một tảng đá, ly nước lạnh, viên sỏi, những cánh tuyết tung bay như bướm động mùa, hay những cơn sóng cuộn nhau ngoài biển, đều thúc giục nhà thơ nói chuyện với người yêu, kể chuyện tình yêu."
(trích từ Văn Học Magazine, 9/96 & 10/96 editions)
VÀI KỶ NIỆM NHỎ VỚI HOẠ SĨ TRỊNH CUNG
Nhân được đọc bài phỏng vấn họa sĩ Trịnh Cung gần đây trên VHNT và trong cùng một số lại có bài Gà của anh Phú Lê đề tặng các thân hữu Xóm Tào Lao. Là một dân cư trong xóm TL và cũng đã có dịp là đồng nghiệp với anh Trịnh Cung trong một thời gian ngắn trước 1975, tôi xin có vài dòng về một vài kỷ niệm đã có với anh Trịnh Cung và để đáp lễ lòng quý mến của anh Phú.
Trong thời gian còn là một học sinh trung học và sinh viên đại học ở miền Nam trước 1975, tôi được biết tiếng anh Trịnh Cung qua hai trường hợp. Anh có một bài thơ, "Cuối cùng cho một tình yêu", được nhạc sĩ Trịnh Công Sơn phổ nhạc và anh là một hội viên của hội hoạ sĩ trẻ, một hội khá nổi tiếng về những hoạt động hội họa trong khoảng thập niên 60, 70.
Có lẽ còn tệ hơn người đã viết bài phỏng vấn anh Trịnh Cung tự nhận, tôi là một người rất dốt về hội họa, và dốt một cách thật tình chứ không phải khiêm nhường. (Chả thế mà hồi còn học vẽ ở trung học với giáo sư Thịnh Del, thầy là người tặng tôi nhiều trứng vịt nhất.). Thời cuộc đưa đẩy, sau khi tốt nghiệp đại học tôi thi đậu vào bộ Dân Vận và Chiêu Hồi và được dịp làm việc chung với anh Trịnh Cung khoảng 6, 7 tháng cho đến ngày mất miền Nam, tháng 4 năm 1975.
Tôi gặp anh lần đầu khi cả toán chuyên viên tân tuyển được gởi xuống nhà in của bộ ở gần Trung Tâm Văn Hoá Pháp làm một công tác khẩn. Chúng tôi phải ở đó 24/24 trong 2, 3 ngày liền để in gấp một số tài liệu học tập cho chính phủ. Anh Trịnh Cung lúc đó đang làm phó giám đốc nhà in. Một điểm nhỏ, vui cần phải nói là nhà in của bộ lúc đó có hai ông: giám đốc và phó giám đốc đều có tên là Liễu. Ông giám đốc Phạm văn Liễu, cựu đại úy nhẩy dù được gọi là Liễu ria, còn ông phó Trịnh Cung, Nguyễn văn Liễu thì được gọi là Liễu râu, vì lúc đó anh Trịnh Cung đang để râu trông như râu xồm. Anh vóc người nhỏ nhắn, thấp, tóc chải ngược phiá sau, nói giọng Huế nhưng không nặng lắm để cho dân Bắc kỳ như tôi nghe cũng thủng. Mặc dù là một nghệ sĩ và là nghệ sĩ hội hoạ nhưng anh ăn mặc rất chỉnh tề, không bao giờ lôi thôi. Không hiểu đó là cá tính của anh hay vì anh là công chức của một bộ khó nhất bấy gi Ðiều nhận xét nữa của tôi về anh là anh có mười ngón tay thật nhỏ nhắn và khéo. Những ngón tay trời sinh không phải để làm những việc nặng nhọc. Hình như giới cầm cọ và cầm bút nhà nghề đều có những ngón tay như vậy vì người thứ hai mà tôi thấy có những ngón tay như vậy là của nhà văn LT-D.
Ngay ngày đầu tiên xuống trình diện nhà in, buổi chiều tôi bị gọi vào trình diện ông phó giám đốc. Tôi hơi ớn vì không biết mình làm lỗi gì; mấy tên đồng nghiệp cũng thuộc loại lính mới tò te như tôi, không biết nguyên nhân, nhìn tôi lo ngại dùm. Anh có văn phòng riêng, có máy lạnh đàng hoàng, điều này hiếm có trong giới công chức cấp trung và thấp ở miền Nam bấy gi (Chả bù với sau này về nằm chung trong toán chuyên viên với chú ng tôi, đến cái bàn làm việc cũng phải chia nhau). Trong khi tôi còn đang lo ngại không biết bị anh gọi vì chuyện gì thì anh cười và hỏi :
- Nghe tụi nó nói Anh văn cậu khá lắm hả?
Tôi nghĩ thầm, chắc thằng bỏ mẹ nào hại tôi rồi, vì quả thật lúc đó tôi đang đi làm đêm cho tổng đài điện thoại của một cơ quan của Hoa Kỳ. Tôi trả lời câu giờ để tìm hiểu thêm:
- Dạ thưa cũng có đi học đại khái thêm mấy lớp Anh văn ở trường Ziên Hồng.
Lúc đó anh mới nói rõ là không có gì quan trọng, anh muốn tôi giúp dịch cho anh vài đoạn trong một quyển sách hội hoạ bằng tiếng Anh mà ai đó mới tặng hay mua giùm cho anh thì phảị Tôi tìm cách thoái thác vì biết trình độ hội họa của mình chỉ đáng khoe với người mù thì làm sao mà dịch. Anh thì cho là tại tôi ngại làm việc riêng cho anh bỏ việc sự. Anh bảo tôi cứ yên trí, ngồi trong phòng anh làm việc, chuyện ngoài kia đã có anh lo. Thế là trong lúc bạn bè đầu tắt, mặt tối gấp tài liệu, trong cái nhà in dù cao to như cái hangar nhưng cũng nóng hâm hấp với tiếng máy in chạy ầm ầm nhức cả tai; Tôi được ngồi phòng máy lạnh vừa làm, vừa nghỉ, lâu lâu lại được một ly cà fệ Cái buổi đầu gặp gỡ với tôi và anh Trịnh Cung nó là như vậy. Ðộ hơn tháng sau tôi từ văn phòng ở đường Hiền Vương được thuyên chuyển lên ngay phòng chuyên viên của bộ. Cái phòng nhỏ chỉ kê có được 4 cái bàn làm việc, nằm ngay trên đầu văn phòng ông tổng trưởng Hoàng Ðức Nhã. Lúc tôi lên thì đã thấy nhạc sĩ Nguyễn Hiền một bàn, ông Ph., cựu chánh sở kế hoạch một bàn, cô H. H. một bàn, còn một cái bàn còn lại...thì mấy chuyên viên khác, trong đó có tôi chia nhau. Tuy vậy mà chẳng thấy ai chịu ngồị Ít lâu sau thì tôi thấy anh Trịnh Cung cũng về phòng này và sau đó cả anh Vũ Thành An cũng từ ty Gia Ðịnh về đây một thời gian ngồi uống nước trà, hút thuốc lào và rù rì với nhạc sĩ Nguyễn Hiền.
Tôi không hỏi tại sao anh mất chức phó giám đốc nhà in. (Tôi học được rất nhanh trong vài tháng đầu làm công chức qua một đàn anh: hỏi không đúng câu, đúng lúc, đúng chỗ, đúng người là lạng quạng sẽ lãnh cái sự vụ lệnh đi nhiệm sở đèo heo hút gió ngay). Thời gian này anh Trịnh Cung có vẻ bất mãn và hay càu nhàụ Anh ít có ở trong phòng lâu, không biết anh đi đâu. Tuy vậy thỉnh thoảng tôi lại được anh rủ đi công tác chung. Công tác thì ít mà thời giờ ghé dây đó để gặp bạn bè đấu laó hay đi xem triển lãm ở trung tâm văn hoá Pháp hay hội Việt Mỹ thì lại hơi nhiều hơn. Là hoạ sĩ dĩ nhiên là anh rât thích xem tranh. Anh rủ tôi đi xem triển lãm nhiều lần. Như tôi nói ở trên, tôi rất dốt hội hoạ, nhưng dạo đó vì tự ái đâu dám nói ra. Chưa kể thỉnh thoảng trong khi nói chuyện tôi cũng xì ra được vài cái tên như Picasso, Van Gogh, Vaughin, Cezane, Dali... ra cái điều ta đây cũng biết tí ti. Chứ trong đầu tôi thực sự tôi không thấy tranh của quý ông Picasso và Dali nó đẹp ở chỗ nào cầ Vẽ người chẳng ra người, mặt mũi chẳng ra cái hình thù gì mà bảo là đẹp, thế rồi thấy người này khen, người kia cũng khen. Toàn là những đại cổ thụ khen cả thế thì bố ai mà dám nói ngược lại? Bộ muốn được khen là ngu sao?
Trong một buổi xem triển lãm ở Trung tâm Văn Hoá Pháp, gặp được bức tranh ưng ý, anh thao thao giảng giải cho tôi nghe về bố cục, về cách xử dụng mầu, v.v... đến khi quay lại anh thấy tôi cũng đang say sưa ngắm... chân, ngắm... đùi hai cô đầm non mặc mini jupe đang đứng xem tranh gần đấy; tôi đâu có nghe anh nói cái gì đâu. Thế là anh tặng cho tôi một tràng tiếng Ðan Mạch ròn tan và tuyên bố lần sau cóc rủ tôi đi xem tranh nữa. Thú thật, một tên thanh niên mới trên hai mươi, khỏe mạnh, bình thường như tôi dạo ấy, đứng trước một bức tranh và hai cô đầm non mọng như nho, chân cẳng trắng phau, mũm mĩm dưới cái váy ngắn cũn cỡn mà bảo tôi chỉ chăm chú nhìn tranh thì chắc một là tôi bị bệnh thần kinh, hai là tôi nói phét.
Một buổi tối khác, ngồi trong phòng trà của chị Khánh Ly bàn tính về việc mở một đại nhạc hội gây quỹ cho đồng bào chiến nạn mới chạy từ Bình Long về Phú Văn, Bình Dương, tôi "chê lung tung xèng" cái design phòng trà của chị Mai hơi chật và không bắt mắt lắm như mấy phòng trà khác. Anh không nói gì, nhưng một lúc sau anh nhẹ nhàng cho tôi biết, anh là người design và "...con Mai nó còn chưa trả hết tiền tao.". Tôi nín thở thiệt lâu...
Nói về tiền bạc, tôi thật sự không hề biết gì về gia cảnh của anh, nhưng có ít nhất là trên một lần đi công tác chung anh hỏi tôi "Cậu cho anh mượn đỡ năm bớp, cuối tháng anh trả lại". Dĩ nhiên tôi không từ chối vì may mắn dạo đó tiền bạc của tôi cũng được rủng rỉnh chút ít.
Anh thỉnh thoảng còn có cái tính nói trống không, cụt lủn. Nếu tôi không để ý là cứ phải đoán mò. Chẳng hạn như có lần, tôi và anh đang đi ở bến Bạch Ðằng gần đường Tự Do bên cạnh hotel Majestic, anh bỗng bảo "Chờ moa ghé đây cái..." Tôi nhìn lên thấy bảng để Tổng Cuộc Du Lịch. Anh đi vào vài phút sau đi ra nói trống không "Ði vắng". Rồi anh lại tiếp tục đi, mãi lúc sau chắc thấy mặt tôi hơi nghệt, anh mới bảo "Ðịnh ghé vào nhắn vợ Cung Tiến cho hắn cái tin này, nhưng bà ấy đi vắng"... À ra vậy!
Tôi không nhớ lần cuối tôi và anh gặp nhau là hôm nào vì những ngày cuối tháng 4/75 ai cũng nhốn nháo tìm cách ra đi. Anh gặp tôi và hỏi thẳng: "Anh đi hay ở không quan trọng lắm, nhưng cậu có cách nào giúp cho mấy đứa con của anh đưa sang cho... (bây giờ tôi không nhớ là ai, ở Pittsburg hay Boston gì đó)". Tôi thú thật với anh là ngay cả chính bản thân tôi, tôi cũng không biết có được cơ quan Hoa Kỳ cho di tản hay không vì tôi có hai người em trai đang ở trong quân đội.
Thế rồi từ đó đến nay tôi không nghe hay đọc gì thêm về anh, cho đến hôm nay mới tình cờ đọc được bài phỏng vấn anh trên VHNT. Tôi ngồi vào máy gõ một mạch vài dòng này gọi là ghi lại một vài kỷ niệm cũ. Cầu mong sao ở quê nhà đời sống cơm áo của anh và gia đình không đến nỗi chật vật để anh còn có dịp cầm lại cây cọ, được trở lại làm một Trịnh Cung đích thực nghệ sĩ và sẽ tặng cho đời những tác phẩm hội hoạ đáng yêu của anh.
Trần Huyền Trân
9/96
Bùi Giáng Thế Giới Của Thái Bình Ðiên Quốc
Bùi Giáng đã từng tự nhận mình là trung niên thi sĩ, Ðười Ươi thi sĩ, Brigitte Giáng, Giáng Monroe, Bùi Bán Dùi, Bùi Bàn Dúi, Bùi Bê Bối, Bùi Văn Chiêu Lỳ... nay thì già rồi, thể xác tiều tụy, áo quần tả tơi. Có lúc đã nói về nỗi khổ hạnh của đời mình như sau: "Bình sinh thì điên tam đảo tứ, mà đời sống thì đảo tứ điên tam. Tính sao bây giờ? Nếu có thể đem nhốt đời sống vào Biên Hoà Bịnh Viện, thì ắt phải đem bình sinh nhốt vào cõi Viện Bịnh Hòa Biên? Có thể nào như thế được chẳng? " (Tạp chí Văn số đặc biệt về Bùi Giáng, Sài Gòn 1973).
Nhà truyền thống Bệnh viện Biên Hoà còn lưu một ấn phẩm giá trị do các bác sĩ Nguyễn Tuấn Anh, Tô Dương Hiệp và Trịnh Văn Lang (1970): Thơ Ðiên (...thứ thiệt). Ðó là thơ "tuyển của một số người đã và đang điên" vào thời đó, gồm: Thiện Quang, Thích Ảo Giác, Hồng Ðức Tâm, Lê Hoàng Thúy, Phan Trần Từ Hương, và có cả Bùi Giáng, Nguyễn Ngu Lí là hai công dân nổi tiếng nhất trong Thái Bình Ðiên Quốc này (tên gọi Bệnh viện Tâm Thần Biên Hoà của Nguyễn Ngu Lí). Bệnh án lần thứ nhất của nhà thơ Bùi Giáng còn lưu trữ tại Bệnh Viện Biên Hoà mang số nhập viện 164/69 vào tháng 6-1969 như sau: mất ngủ, nói chuyện huyên thuyên, chơi chữ, nhiều khi la hét thất thanh, ý tưởng tự cao tự đại...Lần thứ hai nhập viện 28-4-1977, hồ sơ bệnh án như sau: định hướng lực (không gian, thời gian, bản thân) tạm đúng, bị ảo thanh rõ rệt (phonème), bị ảo thị (hallucination), tư duy phi tán (fuite de la pensée), hoang tưởng kỳ quái và tự cao (délire degrandeur)... Các sáng tác của nhà thơ đã được các bác sĩ tâm thần đem ra nghiên cứu và chú giải như sau:
"Con bệnh thích chơi chữ, thích nói lái và để cho một số âm thanh nào đó lôi cuốn quất quít lấy nhau". Xin đưa ra một bài thơ làm tỉ dụ, bài Ngẫu Hứng của Bùi Giáng:
Một hôm gầu guộc gầm ghì
Hai hôm gần gũi cũng vì ba hôm
Bôm hả đạn hả? Bao gồm
Bồm gao gạo đỏ bỏ gồm gạo đen...
Bài thơ Tờ Thư Bí Mật sau đây vừa được một ký giả trong nước tìm thấy mà tôi nghĩ cũng chưa ai có dịp thưởng thức bao giờ, nay xin cống hiến bạn đọc đã từng quen biết hay từng ngưỡng mộ Bùi Giáng, một tài hoa kỳ dị:
Tờ Thư Bí Mật
Tờ thư bí mật hôm nay
Gửi em nói chuyện dằng dai đuôi đầu
Ðầu tiên gió gác trăng lầu
Cuối cùng đuôi nứt mối sầu trường sinh
Hình dung mộng tưởng chênh vênh
Trăm năm rút gọn gập ghềnh tử sinh
Tam bành tuyệt đối đinh ninh
Rồi ra tứ trướng bất thình lình điên
Thư về bí mật liên miên
Té ra toàn thể là thiên thu khùng
Hiện nay người ta vẫn thấy Bùi Giáng lang thang đó đây trên các đường phố Sài Gòn, già yếu, tiều tụy, rách nát tả tơi. Thỉnh thoảng nhà thơ quay về nhà một người quyến thuộc tại Gò Vấp coi như kẻ giang hồ dừng chân nghỉ ngơi dăm ba bữa rồi lại... ra đi.
(Trích từ Việt Nam Weekly News)
Thố Ti
Sinh ra ở Việt Nam, nhưng lớn lên tại Mỹ nên tiếng Mỹ là ngôn ngữ chính của tôi. Khi rời Việt Nam tôi đã biết đọc biết viết, tuy tiếng Việt khá hơn bạn bè cùng tuổi, tôi thực ra chỉ có thể nói đươ.c những điều bình thường trong sinh hoạt hằng ngày. Tôi muốn học tiếng Việt nhưng bố bận vì sinh kế, không có thì giờ dạy con.
Tôi muốn tìm hiểu văn chương Việt Nam. Bố là người viết truyện và đang làm cho một tờ báo văn chương trong cộng đồng người Việt ở đây. Bố nói văn chương Việt Nam bao la lắm, bố không biết bao nhiêu, vả lại vì ít thì giờ nên bố chọn cho tôi đọc tác phẩm của những nhà văn mà theo bố, là những khuôn mặt lớn của văn chương Việt Nam. Bố nói cứ rán đọc, bố sẽ hướng dẫn thêm.
Những quyển sách bố chọn, tôi đọc rất kỹ, kể cả lời nói đầu, lời tựa đến lời bạt, lời khép. Tôi đọc hết những sách bố đưa, dường như văn chương Việt Nam quyến rũ, nên dù vất vả tôi vẫn tiìm đọc thêm những quyển trong tủ sách của bố. Những quyển này, giá trị văn chương không bằng những quyển bố chọn. Tôi hỏi bố, tại sao truyện in ra mà không cần văn chương. Bố nói ở bên này in sách dễ lắm, có tiền là có thể xuất bản một quyển sách. Khác với sinh hoạt văn học ngoại quốc, văn học của ta thiếu hẳn một ngành phê bình chuyên biệt vốn cũng là một ngành học tại các đại học ở đây. Dựa vào những lời giải thích của bố, tôi không còn thắc mắc về những lời khen đối với tác phẩm không hay nữa. Và tôi mới hiểu tại sao, có những tác phẩm in luôn những lời khen chiếm một số trang không khiêm nhường trong quyển sách. Điều này làm tôi buồn.
Khi nói đến thơ, tôi mới nhận ra là bố không đưa cho tôi đọc một quyển thơ Việt Nam nào. Tôi hỏi, bố bảo thơ là tinh túy của văn chương, là cái gốc chữ nghĩa một nền văn chương. Tiếng Việt tôi chưa thông, làm sao có thể đọc thơ Việt được. Nhưng rồi bố vẫn đưa tôi một số quyển thơ và dặn chỉ nên đọc những quyển này. đọc xong, tôi lại lén đọc thêm vài quyển khác. Quả thật thơ khó hiểu hơn văn. Tôi lại hỏi bố.
Bố nhìn tôi lắc đầu, giải thích "Với văn xuôi, con dễ nhận ra một câu tối nghĩa, nhưng trong thơ, một câu thơ khó hiểu sẽ khiến con suy nghĩ rất nhiều, đôi khi với những nhà thơ tài hoa ta có thể khôn g hiểu thấu lời thơ, nhưng ta cảm nhận được tình cảm của câu thơ. Còn những người làm thơ như làm vè, những câu tối nghĩa ta sẽ không hiểu, không cảm nhận được gì, mà chỉ nhức đầu thôi". Trong giới thơ văn Việt Nam, người ta có tĩnh từ "thơ hũ nút", "thơ xóc lọ". Và bây giờ, thời buổi kỹ nghệ tiến vượt bực, những chuyên viên xóc lọ chuyển sang nhấn nút, khi làm thơ chỉ cần bấm một macro của cái computer là có thể chạy ra một loạt những bài được program sẵn, gọi là "thơ nhấn nút"; hoặc bẻ cong bẻ queo, đảo ngược đảo xuôi chữ nghĩa, gọi là "thơ bí hiểm".
Tôi tò mò, lấy quyển thơ mà tên tác giả đã quen thuộc với tôi.
Tác giả này tên Thố Ti. Tôi thường thấy tên ông trên một số tờ báo, và trong rất nhiều quyển sách dù ông không phải là tác giả. Vậy thì tại sao quyển thơ của ông, bố lại không cho tôi đọc.
Bài thơ nào tôi cũng thấy có những nét quen thuộc, khiến khi đọc, tôi nhớ đến những quyển thơ khác. Hình như thơ Việt Nam khác với thơ ngoại quốc, ở mỗi tác giả hay tác phẩm, thường có một không khi ' sáng tạo riêng. Thơ Việt Nam như mang chung một vài hình ảnh hay chữ nghĩa mà bố bảo là "nhai lại", "sáo mòn".
Tôi thắc mắc Thố Ti là gì, tên thật hay bút hiệu. Tôi lại hỏi. Bố bảo chữ Thố Ti này tiếng Việt không có, nó là chữ Tàu. Tôi loay hoay tìm hiểu, được biết thố là con thỏ, và ti nghĩa là mặc cảm t hấp kém. Tôi không chắc lắm vì chữ Tàu, nhiều chữ tuy cùng một cách phát âm nhưng viết khác nhau nên nghĩa cũng khác. Mặc cảm thì tôi biết, còn con thỏ, thỏ với người Mỹ gợi nhớ đến sự táo bạo như những nàng bunnies của Playboy, nhưng con thỏ với người Việt Nam lại có ý là nhút nhát. "Nhút nhát và mặc cảm thấp kém." Thế tại sao lại lấy bút hiệu này.
Tôi càng thắc mắc, ông Thố Ti này chắc phải là một khuôn mặt lớn lắm mới có thể có tên trong nhiều quyển sách. Và thơ ông có vẻ như bao trùm tất cả những quyển thơ mà tôi đã đọc. điều này càng l àm tôi thắc mắc hơn, tôi lại hỏi bố.
Lần này thì bố nói là không được hỏi gì nữa, hiểu biết về văn chương Việt Nam của tôi đã tạm đủ để tự tìm hiểu lấy. Tôi biết bố giận vì tôi đã cãi lời, cứ đọc những quyển sách mà bố không muốn tôi đọc. Bố nhấn mạnh "Thố Ti không phải là một cái tên riêng, mà là tên chung của nhiều người, cái ông Thố Ti này chỉ là một khuôn mặt điển hình thôi".
Tôi ấm ức mãi trong đầu về cái tên Thố Ti này. Tên thật thì chắc không phải, vì có thấy ai họ Thố đâu, mà bút hiệu thì thật là kỳ cục. Và tại sao bố lại bảo đó là một cái tên chung của nhiều người? Trong khi có nguyên hẳn một quyển thơ mang tên ông? Nhưng rồi, chuyện ấm ức này cũng nhạt dần đi.
Cho đến một hôm, tôi thoáng thấy trong tiệm sách, quyển truyện của một nhà văn Trung Hoa, truyện Thố Ti Hoa, được dịch sang tiếng Việt là "Hoa tầm gửi".
Cao Xuân Huy
Trách Lửa
Xin mười phương cho tôi đội trách lửa - chịu hình phạt này đời đời - Cho từ nay trên thế gian không có đứa con nào làm cho Mẹ đau khổ nữa
Mùa Vu Lan 1995 tại Orlando
Tại một tỉnh ở Ấn Ðộ, có một gia đình người chồng là một thủy thủ tàu buôn rất tài giỏi - người vợ là một phụ nữ hiền thục - một người mẹ nhân hậu.
Hai người sinh ra được một con trai rất khôi ngô - Người thủy thủ thường mỗi năm hai ba lần đi biển theo thuyền buôn bán phương xạ Cứ mỗi lần người chồng lên đường hải hành là một lần tâm can người vợ lo lắng, đau đớn vì sợ hãi những bất trắc trên biển cả gió cuồng sóng dữ. Nhiều lần khuyên chồng bỏ nghề đi biển, người vợ đã chẳng thuyết phục được vì hải hành là sinh thú của chàng. Gian nguy bão tố không thể ngăn nổi chí trai. Người vợ ở nhà mỗi lần nghe tin giông bão trên biển đều hồi hộp phập phồng cho số phận của thủy thủ. Và cái ngày khốc liệt ấy đã đến, chuyến tầu của chồng đã bị sóng bão đánh tan và nhận chìm giữa biển khơi. Sau thảm họa này, người vợ tìm đủ mọi cách để dấu tung tích thủy thủ của chồng đối với đứa con đang lớn và có tính khí giang hồ như cha nó. Bà nói với con rằng "Cha con là một nhà buôn bình thường trên đất liền". Bà sợ nếu con biết cha là thủy thủ tài giỏi, nó sẽ tiếp nối nghề cha thì bà sẽ vô cùng đau khổ.
Năm đứa con lên mười tám, nó trở thành một người buôn bán bình thường trên đất liền. Lần thứ nhất, chuyến buôn lời được 4 đồng tiền vàng, anh ta đem tặng mẹ để mẹ bố thí. Chuyến thứ hai, được 8 đồng, anh cũng dâng tặng mẹ để bố thí. Chuyến thứ ba, được 40 đồng anh cũng nhờ mẹ đem bố thí.
Người mẹ sung sướng vì tưởng con trai mình đã yên phận. Nào ngờ, trong một cuộc giao tiếp, anh ta tình cờ nghe người ta kể chuyện về tài năng của cha mình. Anh biết cha là một thủy thủ, anh muốn nối t iếp nghề của cha.
Người mẹ khóc lóc van xin con đừng đi vào con đường mà cha đã từng làm mẹ đau đớn. Người mẹ đã nói với con trai là nếu con đi biển như cha con lúc trước, con sẽ làm mẹ đau khổ vô cùng vì phải phậ p phồng lo lắng cho con từng phút từng giỡ. Nhưng người con không nghe lời van xin của mẹ, anh ta gỡ tay mẹ ra, bước qua nỗi đau khổ của mẹ để thỏa mãn mộng hải hồ của mình. Anh đi làm thủy thủ.
Ngay chuyến đầu tiên, tầu anh đã gặp bão lớn. Bà mẹ đã cùng dân làng, dân phố ra bãi biển để ngóng trông. Và kết quả - người ta tìm thấy những mảnh vỡ của chính chiếc tầu ấy trôi dạt khắp nơi.
Bà mẹ đau khổ đã ngất đi vì thương xót đứa con.
Nhưng may mắn, anh ta được tấp vào một hòn đảo có người. Khi tỉnh dậy, anh ta thấy mình được 4 người quây quần chăm sóc chu đáo. Ở đây một thời gian ngắn anh ta lại đi. Anh lại được 8 người đón về cung phụng. Rồi anh lại từ giã đi nữa. Anh được một bộ lạc 40 người nuôi dưỡng rất sung túc. Ở đây một thời gian anh lại tìm đường tìm về đất liền. Trên đường đi ra cửa biển, anh gặp một người đang quì gối trên mỏm nước, đầu đội trách lửa đang cháy hừng hực, than đỏ rơi khắp thân thể. Vô cùng kinh hoàng và ngạc nhiên, anh hỏi:
- Này anh kia, tại sao anh chịu hình phạt này?
Người đội lửa đáp:
- Vì ta là đứa con bất hiếu. Ta đã làm cho mẹ ta đau khổ.
- Ngươi chịu hình phạt cho đến bao giờ?
- Cho đến khi có một đứa con bất hiếu khác làm mẹ đau khổ đến thay thế.
Nghe câu này, anh ta cảm thấy mình là đứa con bất hiếu đó, đứa con đã bước qua sự đau khổ của mẹ để ra đi!
Lập tức trách lửa từ đầu anh kia bay đến trên đầu của anh ta. Người đội lửa đắc chí bảo:
- Nhà ngươi rán đội, chờ cho đến khi có người đến thay thế.
Anh ta liền quì xuống, chắp tay lạy thinh không và phát nguyện:
- Xin mười phương cho tôi đội trách lửa trên đầu chịu hình phạt này đời đời... để từ nay, trên thế gian đừng có đứa con nào làm cho mẹ đau khổ nữa."
Sau lời phát nguyện ấy, những ngọn lửa bỗng tắt hết, trách lửa trên đầu anh ta cũng tan biến và anh ta cũng hóa thân.
Phụng Hoàng
Ghi lại phỏng theo một truyện của Ấn Ðộ lúc 14 giờ, ngày 26 tháng 8 năm 1995 (mùa Vu Lan 1995), để tưởng nhớ tới Cha Mẹ và làm quà tặng.