vhnt, số 236
11 October 1996
Trong số này:
thư vhnt..................................................................PCL
thông báo quán cafe vhnt on-line ..........................................
T h ơ :
1 - Ẩn số ...................................................Thận Nhiên
2 - Kỷ niệm ..........................................................Chinh
3 - Vô tâm thức ..................................Nguyễn Hiện Nghiệp
4 - Cảm xúc chuyện tình buồn ...............................Bích Châu
5 - Anh và em ..................................................Thanh Nguyên
6 - Language (thơ ngoại ngữ) ............................Trần Thái Vân
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
7 - Nói chuyện với Trần Hoài Thư ......................Thái Tú Hạp
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
8 - Khoảng cách ........................................................BCCB
9 - Nấm mộ lá ..............................................Phạm Chi Lan
Bạn thân mến,
Ý tưởng vào một buổi chiều tàn, trong cái khung cảnh thời gian và không gian đặc biệt với đợt nắng vàng lóng lánh thoi thóp trên khu đồi với hàng cây héo hắt, là một ý tưởng đơn chiếc và dừng lại bất động. Ý tưởng về một chiếc lá rùng mình. Ý tưởng về một thế giới bất động và vĩnh viễn. Ý tưởng về một cuộc ra đi lũ lượt, nằm xuống và nghỉ yên. Ðó là ý nghĩ về hành trình của một kiếp lá.
Mùa thu là mùa rực rỡ, mùa thu như thu hết tất cả thanh sắc trên trần gian này - mầu nắng quái hoàng hôn, mầu quan san, mầu chân mây ráng đỏ, những vòm lá thay áo mỗi ngày một sắc - cảnh sắc mùa thu có chút rộn rã do nét chấm phá thẩm mỹ của thiên nhiên mang lại qua từng giai đoạn, rộn rã và rạo rực, sau đó thì những mầu sắc bắt đầu phai nhạt và chỉ còn ý tưởng về một buổi chiều đứng lại giữa mọi thứ trôi đi.
Khi nghĩ về một cái đẹp, một cái đẹp buồn bã, tôi nhắm mắt lại để thu lấy, nhìn kỹ hình ảnh đẹp kia vào tâm thức. Ðó là một thứ hạnh phúc êm đềm, mềm mại và vĩnh viễn. Những gì đẹp thường mong manh và mông lung, nên tôi cất nó vào một góc tâm thức, để còn giữ mãi cho mình những cái đẹp không sợ mất đi, và sẽ mang theo từ một góc quá khứ, ôm vào hiện tại và giữ cho tương lai.
Chúc cho mùa thu năm nay vẫn đẹp và vẫn mới lạ trong lòng mọi người.
thân ái,
PCL/vhnt
Quán Cafe VHNT on-line
Lần họp mặt lần đầu thứ sáu vừa rồi trên quán cafe văn nghệ vhnt on-line, một số bạn đọc đã ghé quán và đã có một buổi gặp gỡ nói chuyện rất ấm cúng, thân mật giữa người đọc và nhóm chủ trương, các bạn văn, những thân hữu và những người đóng góp cho vhnt.
Vì sự hưởng ứng tán thành của nhiều người, nên từ nay quán cafe văn nghệ vhnt on-line sẽ mở cửa vào những tối thứ sáu cuối tuần, vào giờ ấn định là 7:00pm PST, 8:00pm MT, 9:00pm CT, 10:00 EST, 4:00am Paris).
Giờ giấc này sẽ tiện cho những bạn ở Mỹ, nhưng có lẽ không tiện lắm cho những bạn ở lục địa khác. Tuy nhiên những bạn ở Âu Châu cũng có thể ghé thăm channel vhnt vào giữa ngày, sẽ có một vài người trong nhóm vhnt sẽ có mặt trong quán #vhnt để tiếp q uí bạn. Ngoài ra, thỉnh thoảng vào những dịp ngoại lệ, "quán" sẽ mở vào một tối giữa tuần như tối thứ tư, nếu có một dịp đặc biệt và sẽ mời một vài nhân vật đặc biệt đến quán để nói chuyện thảo luận với chúng tạ VHNT sẽ thông báo ngày giờ với bạn đọc vào những buổi họp mặt đặc biệt nàỵ
Tối nay, thứ sáu Oct. 11, 96, xin mời mọi người ghé thăm quán cafe văn nghệ của vhnt on-line, tại địa điểm:
chat server: saigonline.com
port: 6667,
channel: #vhnt
vào lúc: 7:00pm PST, 8:00pm MT, 9:00pm CT, 10:00 EST, 4:00am Paris
Ẩn Số
Mỗi ngày xuống thang lầu mở hộp thư
bồn chồn mong một điều gì mới lạ
hơn những tờ bills
hơn những tờ quảng cáo
thú thật tôi vẫn chưa hình dung ra điều mình mong đợi
tra chìa khóa
vặn một vòng
nôn nao
Ðời sống nơi này dễ biến người ta thành kẻ yếm thế
tôi co tròn sống qua từng ngày
những ngày chờ phép lạ
con vụ quay ...
quay ...
quay ...
đuối đà ...
ngã ...
Ngã một mình
Tôi thiếu ngủ nhìn quanh thấy toàn
khoé mắt quầng thâm
những cửa sổ hắt ánh đèn trắng lạnh
thật sự
chẳng có gì bí ẩn vào thời điểm này
thành phố đã ngủ
mọi người đã ngủ
và tôi
bềnh bồng - thụy du
Ðếm bạc lẻ và làm thơ
đồng năm mươi cents lăn vào kẹt cửa
vở khô
quả đất nứt đôi
đồng xu rơi vào đáy trí nhớ
Lịch sử hình thành từ những điều ngẫu nhiên
tôi trịnh trọng tuyên bố vớ vẩn
nụ cười ngu ngơ cuối đêm méo xệch mặt
con ruồi bay vo ve trong vô thức
về phía sao mai
cửa kính mờ sương dấu chân vấy bẩn
tôi vấy bẩn linh hồn trong đêm mất ngủ
vào toilet đọc Nam hoa kinh
ba tranh - giật nước
Sóng ầm ào bể Nam
Nuôi linh hồn bằng ảo giác
tôi la đà lơi khơi
Những điều thiêng liêng hóa
huyễn hoặc
chuyện tầm phào
nhớ mãi - nhớ hoài
Tuổi trẻ chưa kịp buồn nôn
thốc tháo vào kiếp người những lời rủa sả
bây giờ
mắt ráo hoảnh
đôi khi nhìn mình như nhìn kẻ lạ
đôi khi ngỡ đời mình là đời ai
vậy mà
mỗi sáng - mở thùng thư
vẫn nôn nao
vẫn mong chờ
một điều gì mới lạ
Ngày mai ...
Thận Nhiên
Kỷ Niệm
Hôn nhau
ở cuối
cầu thang
Màu son tím thẫm làm bầm vết đau
Tóc buồn
vướng nhánh
cổ cao
Mồ hôi
rơi chậm
thì thào bên tai
Ôm vòng lưng thấy đêm dài
Ngàn mưa sợi nhỏ
xuống vai
ngọt ngào
Nghe dòng kinh mạch trôi nhanh
Vỡ tràn mưa móc,
mong manh tình đầu
Trăng thắp nến
từ sông sâu
Máu từng giọt đổ: một màu truy hoan
Móng dài gõ những nhịp son
Tình khua động
tiếng mất, còn
vắng xa
Hôn nhau, dẫu chẳng thật thà
Những mưu toan ấy chỉ là dấu yêu.
Chinh
9 tháng 10, 96
vô tâm thức
nhân thế, ngọn dao
bổ vào tim, óc
người đang cười, khóc
rồi móc tim ra
rồi xé làm ba
chia cùng thiên hạ
đây, phần tim ta bất toại
vết thương oằn oại, cơn đau
ta mời tất cả cùng nhau
mổ. xem. nơi nào vết cứa?
đây phần tim ta héo úa
máu đào đen, ứa từ trong
giòng đời chảy, một nhánh sông
ai đem gội bùn cho sạch?
đây phần tim chai thành gạch
với bao tĩnh mạch đã khô
ta tìm ghềnh đá huyền vô
mài cho mòn ra thành mực.
mai ta về, ôm lòng ngực
bật cười bên Vực Vô Tâm
nguyễn hiện nghiệp
Cảm Xúc Chuyện Tình Buồn
Tình mình mong manh như sợi tơ
Như vầng trăng thu lúc tỏ mờ
Như ánh thái dương chờ nắng vội
Như chiếc thuyền nan trôi lững lờ
Tình mình vẫn ngỡ đẹp như mơ
Như bao chuyện tình viết thành thơ
Như áng mây hồng trong nắng sớm
Che chở đời nhau hết bơ vơ
Tình mình rồi có lắm đau thương?
Lắm những bi ai, lắm đoạn trường?
Người đã môt. lần hồn tôi ngự
Sẽ mãi trong ta, mãi vấn vương
Tình mình rồi sẽ trôi về đâu?
Sẽ trôi lờ lững, trôi muôn phương?
Vì ta muôn đời không cùng hướng
Trót đã yêu rồi nhận đau thương...
BC
Anh và Em
Vài ngàn năm trước, anh là núi
Sừng sững cho mây có chỗ nằm
Thuở hoa dại nở chưa người hái
Anh làm chim chóc ghé về thăm
Anh không hùng vĩ bằng đại thụ
mà áo xanh hơn cỏ bạt ngàn
Em không huyền hoặc như uyển mộng
sáng bùng nhánh củi đốt khai hoang
Hai ta trụ ở đời chân thật
hậu kiếp tiền căn trả lại trời
Yêu nhau thành khẩn hơn thệ ước
thơm ngát đêm, mùi hoa quả rơi ...
Thanh Nguyên
Language
Words are signs
that draw from trials and errors;
Words are signs
that measure the length of human existence;
Each ending vowel
has resulted itself from the lip's evolution
since the first infant's cry.
How do I then express myself
among this thick air of a tropical depress
where the wind furiously takes over calmness?
How do I then write each word
and dedicate it to the experience I have not known?
No, I don't seek for a divine answer
though it's good if there is one;
I do seek for a compassion
(the kind that has long been forgot).
Now, right in this moment, there is no language
therés only one dog barking randomly at the moon.
He must have been an unhappy dog
or am I an unhappy being?
trần thái vân
(on a funeral occasion, 10/10/1996)
Nói chuyện với Trần Hoài Thư
Thái Tú Hạp
TTH: Anh có thể nói sơ lược về tiểu sử của anh?
THT: Sinh tại Ðà Lạt. Năm hai hay ba tuổi gì đó, tôi về sống ở Rộc rau muống, Sinh Trung, Nha Trang. Hai năm học tại trường Cô nhi viện Hòn Chồng. Ðến năm 11 tuổi ra Huế sống với thân phụ. Học Ðại học khoa học Huế và Sàigòn. Dạy Trung học Trần Cao Vân Tam Kỳ. Ðộng viên khoá 24 Thủ Ðức. Ra trường phục vụ tại Ðại đội 405 Thám kích SÐ 22 BB gần bốn năm. Những năm sau cùng trước 1975 làm phóng viên chiến trường QÐ 4. Bị thương trận 3 lần. Sau 1975, ở tù gần 4 năm. Vượt biển đến Mỹ 1980. Làm nhiều nghề. Tiếp tục học lại. Lấy Cử nhân điện toán và Master về Toán tại đại học Stevens Institute of Technology tại NJ. Làm cho AT&T dược 10 năm. Hiện làm việc cho hãng IBM. Trước 1975, có 4 tập truyện được xuất bản. Sau 1975, mới xuất bản tập truyện Ra Biển Gọi Thầm.
TTH: Trần Hoài Thư là bút hiệu. Nhà văn nhà thơ khi lấy một bút hiệu nào đó đều có lý do riêng. Anh nằm trong trường hợp này không?
THT: Trần Hoài Thư là bút hiệu. Lý do giản dị là xuất phát từ tên thật của tôi: Trần Quí Sách. Quí Sách hay Hoài Thư đều như nhau. Sở dĩ tôi dùng tên này, bởi vì tôi không muốn thân phụ của tôi buồn phiền. Những bài văn đầu tiên của tôi trên Bách Khoa như Nước Mắt Tuổi Thơ, Những Kẻ Trốn Chạy (khoãng 1961, 1962 gì đó) tôi đã dùng tên thật. Cũng trong thời gian này tôi có cọng tác cho tờ báo Sinh Viên Huế, viết đôi bài chống lại vụ đem bàn thờ ra đường, bị họ kết án. Ba tôi lo lắm. Vì vậy tôi dấu người, đổi tên và tiếp tục viết.
TTH: Anh được xem là một trong những cây viết trẻ trong thời chiến tranh Việt Nam, còn có mặt ở hải ngoại. Xin Anh hãy kể về dòng hành trình hôm qua và hôm nay của anh trong lảnh vực văn học và trong đời sống của anh. Chúng có liên quan gì không?
THT: Hôm qua, tôi mang cặp kính nặng độ cột sợi dây thun để ra trận, nhảy diều hâu, trực thăng, đột kích đêm, bị thương lên thương xuống. Và một vài mối tình câm nín. Sau đó trình diện vào tù. Ra tù, đi bán cà rem dạo một thời gian. Rồi vượt biên. Qua Mỹ 1980. Làm học trò già. Làm janitor. Làm thợ xếp báo, cắt dây nịt, trước khi trở thành chuyên viên điện toán. Về lãnh vực văn học nghệ thuật, tôi bắt đầu viết khi tôi là một sinh viên năm đầu tiên của Ðại Học Khoa Học Huế. Hình như năm 1961. Tôi vẫn còn nhớ buổi chiều hôm ấy, trong thư viện Xavié, tôi đã khóc khi nhìn tấm ảnh đăng trang đầu của một nhật báo, chụp một em bé sống sót trần truồng chạy loạn trong mặt trận Bình Giả. Sau đó tôi viết một mạch truyện ngắn "Nước Mắt Tuổi Thơ" lấy những năm tháng khi tôi có mặt trong cô nhi viện Hòn Chồng làm bối cảnh và những bạn bè cô nhi của tôi làm nhân vật. Tôi gởi cho tạp chí Bách Khoa. Không ngờ tòa soạn chọn đăng, gởi nhuận bút cho tôi. Bài văn này đã bị kiểm duyệt gần một nửa. Sau này khi là một trung đội trưởng thám kích bộ binh ở vùng hai và phóng viên chiến trường vùng 4, tôi đã thấy bao nhiêu thảm cảnh mà nạn nhân là tuổi thơ. Một tiểu đội của trung đội tôi đã bắn bể bọng đái một em bé đi giăng câu trong đêm (tại cha em để đèn tắt). Một em bé ở Bồng Sơn quăng vào đám sĩ quan đại đội trái lựu đạn và bỏ chạy. Chúng tôi bắt và thả. Mấy chục em bé chết và bị thương trong một ngôi trường ở Cai Lậy sau trận pháo kích ban ngày của phe bên kia. Và chính cả bản thân tôi. Cha mẹ xa ngăn. Tuổi thơ mờ nhạt qua những đốm sao trên bờ biển Nha Trang hay trong cô nhi viện. Anh không biết, đôi mắt và tiếng rên kia, chỉ có người thấy, và nghe mới hiểu nổi cái tàn ác của hạng người, dùng tuổi thơ là một công cụ, khoá ống chân tuổi thơ vào khẩu súng, phong những danh xưng như Dũng sĩ, anh hùng thiếu nhi...
Bây giờ, có người quan niệm là hãy để dĩ vãng vào ngăn kéo lãng quên. Có nghĩa hãy để tuổi trẻ vui với hiện tại, đừng bắt tuổi trẻ phải mệt óc bởi chiến tranh của cha anh... Tuy nhiên, tuổi trẻ cũng tùy theo hạng. Hạng con ông cháu cha đảng viên cao cấp, hạng được ưu đải, thành phần thuộc hàng ngũ miền Nam, con cháu của bạn bè chúng ta... Thành phần sau cùng là tuổi trẻ bất hạnh. Họ bị bạc đãi, mất niềm tin... Họ có cái tội vì cha anh họ là "ngụy".
TTH: Nhưng tôi nhớ hình như trong một truyện ngắn của tập truyện Ra Biển Gọi Thầm, anh đã có một cái nhìn hết sức nhân bản về tuổi trẻ VN, không phân biệt chính kiến?
THT: Vâng. Bởi vì họ vô tội. Tôi nói lên điều này trong truyện Một Nơi Nào Rất Xa trong ấy tôi tả lại tâm trạng của một người sinh viên trung niên đối với một nữ sinh viên VN du học, con gái của một nữ cán bộ CS cao cấp từng là người yêu của ông ta ngày xưa. Theo tôi, hãy đánh tan những áng mây đầu độc tuổi trẻ bằng cõi lòng bao dung của chúng ta, để nàng hiểu rõ hơn về chúng ta, khác với những gì các em bị đầu độc... Chừng nào tuổi trẻ hiểu ai là thủ phạm, là phù thủy, ai đã dùng những thủ thuật lừa mị, họ mới biết được ai đúng và ai sai. Từ đó họ mới đến với nhau gần gũi hơn.
TTH: Có lần anh nói với tôi anh có những sinh hoạt văn học nghệ thuật trên Internet. Anh có thể cho biết về không khí sinh hoạt trên ấy được không?
THT: Quyến rũ đến mê mệt. Ðó là một cuộc chơi kỳ lạ trong cyberspace, nơi mà người viết, người nhận cùng san xẽ với nhau trên căn bản tương ái và thân tình. Hiện tại tôi cọng tác thường xuyên với tạp chí VHNT trên Net do cô Phạm Chi Lan làm chủ biên. Ngoài ra tôi cũng là một thành viên của nhóm Ô Thước trên liên mạng. Chúng tôi trao đổi, học hỏi cùng nhau về văn chương và nghệ thuật. Càng ngày tôi càng ngưỡng mộ kiến thức của anh em trẻ. Họ hiểu rộng, biết nhiều. Và họ rất vui mừng san xẽ kiến thức. Ở đây, tấm tình là quan trọng. Người chuyên viên gốc lính VNCH như tôi hay một giáo sư đại học tại Ðức nguyên gốc miền Bắc. Một người quá 50 tuổi hay một người mới chưa đầy 30. Nam cũng như nữ. Họ rất trọng ý kiến của người khác. Và họ rất chiụ học hỏi ... Vừa rồi chúng tôi cùng nhau thảo luận rất sôi nổi về một bài viết của Trần Mạnh Hảo phê bình tập truyện Man Nương của Phạm thị Hoài. Một bạn post bài này từ bên Ðức, và chỉ trong giây lát bên chân trời Mỹ, bài đã được đưa lên trên Ô Thước, và hai ngày liên tiếp, anh chị em khắp thế giới gởi về chia xẽ.
TTH: Anh có thể giải nghĩa rõ hơn về cách thức gia nhập vào dòng sinh họat văn học liên mạng hay không? Cần phải là chuyên viên hay không?
THT: Không cần. Như anh biết hiện nay EMail \(điện thư) rất được phổ thông trong đời sống người dân Mỹ. Thay vì gọi điện thoại viễn liên rất tốn kém, người ta dùng EMail. Tuỳ theo hảng mình chọn. Compuserve, prodigy, American Online hay Worldnet của AT&T, cung cấp dịch vụ điện thư hay liên mạng. Khi đăng ký rồi, ta có thể tham gia những sinh hoạt trên Net. Nếu muốn đóng góp bài vở cho tạp chí văn học nghệ thuật gởi Email về vhnt@saomai.org
TTH: Anh có những kỷ niệm gì sau khi xuất bản Ra Biển Gọi Thầm?
THT: Nhiều. Thật nhiều. Nhiều hơn cả hồi ở VN. Nhiều thư độc giả. Nhiều cảm thông, chân tình. Kết thêm nhiều bạn mới. Gặp lại nhiều bạn cũ. Truyện Khi Về Nữu Ước đã có hiệu quả. Cô T., nhân vật trong truyện đã nhận được sự giúp đỡ rất lớn lao của độc giả RBGT. Sách bán hết. Có tiền gửi về giúp đỡ bạn bè và thân nhân của họ.
TTH: Dạo này anh làm thơ hơi nhiều...
THT: Vâng. Ðến giờ phút này, tôi không hiểu tôi là người viết văn hay làm thơ nữa. Trước 75, tôi có rất nhiều thơ đăng ở Bách Khoa. Một đôi bài ở Văn, Khởi Hành... Càng lớn tuổi, dường như mình càng tìm đến thi ca hơn. Dễ dàng gởi gắm. Dễ dàng tâm sự. Và cũng dễ dàng chia sẻ.
TTH: Anh được xem là cây bút trẻ miền Trung dạo nào. Anh nghĩ thế nào về nhận xét trên?
THT: Cũng như anh - nhà thơ Thái Tú Hạp - chúng ta là những người viết văn làm thơ ở rất xa Sài Gòn. Chúng ta phải tự lực bước đi trong bao nhiêu khó khăn. Vì vậy, sự hiện diện của những cây bút miền Trung như Trần Doãn Nho, Hồ Minh Dũng, Thái Tú Hạp, Thành Tôn, Luân Hoán, Hoàng Lộc, Sương Biên Thùy,Mường Mán, Ngụy Ngữ, Trần Hoài Thư, Vũ Hữu Ðịnh, Lê Bá Lăng và nhiều người khác không thể nhớ tên (xin anh bổ túc dùm) trên dòng sinh hoạt văn học nghệ thuật Sài Gòn là một bằng chứng cho một sự chấp nhận này. Dù là cây viết miền Trung, tuy nhiên tôi không có cơ hội ở bên các bạn bế Tôi chỉ ở trên các chiến trường. Và viết từ các chiến trường.
TTH: Anh có liên lạc với họ, bây giờ ?
THT: Ở hải ngoại, tôi vẫn thường hay liên lạc với Hồ Minh Dũng, Lâm Chương, Lê Mai Lĩnh \(tức nhà thơ Sương Biên Thùy), Trần Doãn Nho, Thái Tú Hạp. Rất vui vì họ còn viết lại. Và viết mạnh, hay. Qua Saigon Times của TTH và Ái Cầm, tôi cũng còn biết nhiều bạn hữu thời xưa hiện sống tại Mỹ như Trần Kiêu Bạt. "Nhà mày ở bên dòng sông. Nhớ mày tao ngồi trên hàng tam cấp..." Tôi vẫn liên lạc thường xuyên với anh TTHạp, để anh cho biết tin tức về bằng hữu...
TTH: Anh có dự tính gì cho hôm nay và ngày mai?
THT: Tôi không có dự tính gì. Có thể là cố gắng viết một truyện dài. Cách đây không lâu, tự làm từ A đến Z vài chục tập thơ tặng bằng hữu. Rất vui là việc tự in để tặng bạn bè này, nó hiện trở thành phong trào ở vùng Ðông Bắc. Tự làm từ A đến Z vài mươi tập do chính bàn tay và khối óc của tác giả. Sau đó là một đêm trình làng nho nhồ Chẳng sợ lỗ, mà lại được vui uống rượu chung. Vừa rồi, hai nhà thơ vùng Ðông Bắc là Dư Mỹ và Phan Xuân Sinh cũng làm từ A đến Z như vậy. Ðêm ra mắt "Chén Rượu Mời Người" của hai anh thật cảm động và ân cần. Anh thữ tưởng tượng cảnh một người thơ dùng dao bào cắt xén cả 60 tập để tặng bằng hữu, mới hiểu về tấm tình của nhà thơ là to lớn biết dường nào.
Tôi thuộc hạng người tùy hứng, và viết vì tình thân. Suốt cả hai tháng nay chỉ làm thơ, và viết bài đóng góp trên tờ báo VHNT của anh em trẻ trên Internet. Ít xuất hiện trên đất mà xuất hiện trên cyberspace. Thay đổi không khí mà.
Thái Tú Hạp: Thay mặt Saigon Times, xin thành thật cám ơn nhà văn Trần Hoài Thư
Khoảng Cách
"Họ gặp nhau từ hai thế giới riêng biệt..."
Nàng khóc. Chàng cũng khóc. Nước mắt của họ hoà lẫn vào nhau biến thành những hạt mưa, mưa lâm râm. Mưa ngâu tháng bảy. Mưa tầm tã mãi mà không dứt vì đó là nước mắt của mẹ khóc con, con khóc mẹ, vợ khóc chồng, chồng khóc vợ Chàng và nàng chưa kịp hàn huyên để thoả lòng thương nhớ thì đàn quạ đã la oác oác nhắc cho họ nhớ là phút chia tay đã đến, nhịp cầu Ô Thước sắp rã.
Nàng bay về trời. Chàng theo đường cũ trở về thế giới phàm trần của mình. Còn lại phía sau chỉ là những thương nhớ khôn nguôi và một tình cảm cháy bỏng. Tình yêu của chàng và nàng thắm thiết vô cùng cho dù mỗi năm họ chỉ gặp nhau một lần. Cho dù tiên phàm cách biệt, họ vẫn gặp nhau và tắm mình trong nước mắt của khổ đau và hạnh phúc trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, để hiểu rằng họ luôn có nhau, ở trong nhau và thuộc về nhau ."
Thanh Thiên gấp lại cuốn truyện, với tay lấy vài miếng klinex để chùi nước mắt. Nàng vừa khóc khi đọc đến đoạn kết của truyện Ngưu Lang Chức Nữ. Một truyện tình đẹp như vậy mà kết thúc đầy nước mắt khiến cho nàng phải rơi lệ đồng cảm. Thiên không thích đọc truyện tình buồn vì nàng vốn rất nhạy cảm nên hay khóc mỗi khi đọc đến những đoạn lâm ly bi đát. Lắm lúc nàng tự hỏi không biết tại sao mình lại như vậỵ Có lẻ là tác giả thành công hay tại vì nàng vốn đa sầu đa cảm nên "khéo dư nước mắt" khóc thừa những công trình sáng tạo của mấy tay văn sĩ luôn cố công trau chuốt từng câu chữ để mô tả các cảm giác, cảnh tượng. Nàng né tránh tất cả những thứ truyện có thể làm cho nàng chợt khóc, chợt buồn, chợt vui mà tìm về với thế giới trẻ con. Nàng chỉ đọc chuyện cổ tích. Truyện cổ tích cho nàng những giờ phút mơ mộng thật nên thơ vô tư của tuổi thơ, những suy tư đơn thuần rõ rệt giữa thiện và ác, và những suy nghĩ mộc mạc, những lời giải đơn giản cho các vấn đề trong cuộc sống. Nàng đến với truyện cổ tích chính là vì truyện cổ tích cho nàng xây đắp thế giới thần thoại hạnh phúc, khác biệt hẳn với những đau thương nàng đã trải qua. Nàng đến với những huyền thoại từ ngày người yêu nàng quỵ ngã và mãi mãi không bao giờ còn tiếp xúc với thế giới bình thường của con người. Nàng đọc cổ tích vì mong mỏi một phép màu sẽ xoá tan tất cả mọi u ám trong đời sống hiện có hay ít ra là tìm một điểm tựa trong tâm hồn trống vắng.
oOo
- Anh không muốn em đi thăm anh nữa. Anh không muốn em che dấu sự thương hại của mình bằng cách đến thăm anh hàng hai tháng một lần. Anh muốn em nhận ra rằng em không còn là hình bóng thân thuộc nhất của anh, là người anh yêu thương nhất và rằng anh chỉ còn là một con người tồi tàn, là một kẻ thua cuộc trong cuộc đấu tranh với chính mình. Anh muốn em thừa nhận là em đã, đang, và sẽ hiểu sai lệch về anh
Thanh Thiên nghẹn ngào:
- Không, em không nghĩ là vậy mà mọi người ở đây cũng không nghĩ như vậỵ Một ngày kia anh sẽ trở về với cuộc sống bên ngoài. Anh sẽ hiểu là không chỉ có em mà rất nhiều bạn bè và người thân đang lo lắng cho anh. Họ rất yêu thương anh như chính bản thân của mình. Em vẫn yêu anh dù cho anh có hất hủi đuổi xô em và vẫn hy vọng hiểu được thế giới của anh để giúp anh được phần nào.
Chàng cau có như nói với chính mình:
- Tình yêu là cái chi? Không, nó không là cái gì cả. Giữa em và anh là một hố thẳm ngăn cách. Anh không còn là anh và anh cũng không biết anh có còn yêu em nữa hay không. Anh vẫn nhớ vẫn mong, vẫn chờ, vẫn đợi em nhưng dường như thế giới của chúng ta đã hoàn toàn khác biệt. Thế giới của em là những con số, ký hiệu của toán học; là thế giới thơ mộng của văn chương; là thế giới đa dạng của cuộc sống, vì em là con người có những cảm nhận tinh tế. Còn thế giới của anh là những âm thanh quay cuồng luôn sôi réo trong đầu, là thế giới mà trong đó anh vừa là kẻ tử tội vừa là người xử trảm, là thế giới của những suy tư cuồng loạn mà chỉ có mình anh hiểu...
Nàng đã khóc... Nước mắt của nàng không làm cho anh bận lòng. Anh chỉ cười như một kẻ điên thật sự và nói chua chát:
- Em, nước mắt của em rồi sẽ khô đi... và rồi sẽ không còn nước mắt. Chỉ còn lại là sa mạc cách ngăn các ốc đảo.
oOo
Nàng lại đến thăm anh theo định kỳ. Trời mưa tầm tã. Xe nàng lội qua vũng nước trên con đường đất cát đỏ bị bắn bùn che cả cửa kính. Không hề gì. Nàng chỉ cần thăm anh để biết sức khỏe của anh đã tiến triển, để được nhìn thấy anh, nghe anh nóị Vì vậy dù đường đi cách trở như thế nào nàng vẫn kiên quyết.
Lần này anh nói chuyện với nàng như một cụ già thật sự đang thâm trầm suy nghĩ về cái chết:
- Em, vẫn là em đến thăm anh. Em có biết không, anh đang suy nghĩ về cái chết. Sao mà nó gần gũi với anh vô cùng. Sao nó như nhẹ nhàng, xoa dịu đi cho anh cái cảm nghĩ rằng anh là một kẻ bệnh hoạn. Nó như chấm dứt nỗi đau khổ của anh khi nghĩ rằng mình là một người tàn tật, một kẻ thua cuộc. Cái chết thực sự là một cứu rỗi, một vòng tay ân sủng êm ái dịu dàng nhất. Cảm giác về các chết thật ngọt ngào, bình an và hạnh phúc... Một ngày nào đó, gần đây thôi, anh sẽ ra đi vĩnh viễn. Anh hy vọng như thế. Và ngày đó, em phải hát mừng cho anh.
- Anh đừng nghĩ như vậy. Anh có nhớ tới Sisyphus không? Cho dù bị buộc phải lăn đá lên đỉnh núi và thấy công trình của mình bị huỷ hoại vẫn mỉm cười hạnh phúc chứ không bao giờ nghĩ đến cái chết. Nếu anh mất đi, anh sẽ bỏ lại em đơn côi đến như thế nàỏ! Cho đến giờ phút này anh vẫn không hiểu là anh quan trọng đối với em đến mức nào sao?
Anh nhìn thẳng vào mắt nàng:
- Hãy quên anh đi. Em còn trẻ đẹp, có biết bao thanh niên thành công đáng yêu trong đời theo đuổi em. Tại sao em vẫn yêu anh? Tại sao em không nhận ra khoảng cách giữa hai chúng ta trong thực tại nàỵ Cho dù tình yêu của em có làm cho cuộc sống của anh thăng hoa đi nữa, nó cũng không đủ để che lấp khoảng cách càng lớn giữa anh và em từ ngày anh vô cái bệnh viện nàỵ Em sẽ hạnh phúc hơn nhiều nếu yêu một người khác.
oOo
Một tuần sau đó, Thiên nhận được tin Tử Du tự tử trong bệnh viện bằng cách dùng mảnh vỡ của mắt kính cắt đứt đại động mạnh ở tay lúc các y tá không để ý. Anh chết vì mất nhiều máụ Thiên như quỵ ngã. Tử Du đã cô lập mình trong thế giới nhỏ hẹp của anh để rồi cuối cùng chọn lấy cái chết đơn côi, để lại Thanh Thiên một mối tình gần như huyền thoại đong đầy những kỷ niệm vui buồn. Một ngày nào đó, khi mới vào viện anh
đã nói:
- Tình yêu lấp bằng khoảng cách, song tình yêu cũng tạo nên ngăn cách, ngăn cách vĩnh viễn...
Anh chọn cái chết. Ðó là ngăn cách vĩnh viễn...
oOo
Mưa, mưa ngâu rơi tầm tã.
- Cô thích mưa?
Người thanh niên vừa hút thuốc vừa quay sang hỏi nàng vừa cười dủm dỉm. Có lẻ tại vì chàng thấy nàng đi thong thả dưới mưa từ bãi đậu xe đi vào building. Nàng quay sang nhìn chàng im lặng. Chàng nói tiếp trống không một cách đăm chiêu:
- Ðây là ngày thất trùng, mùng bảy tháng bảy, là ngày Ngưu Lang Chức Nữ gặp nhau. Tình yêu lấp bằng khoảng cách thời gian và không gian.
Nàng ngạc nhiên vì chàng thanh niên lạ mặt nói quá nhiều. Nàng nhìn chàng thanh niên mà trả lời nhát gừng:
- Thế ạ
Một ngày nào đó, dưới mưa, chính Tử Du cũng nói câu này. Bất giác nàng buột miệng nói thầm:
- Nhưng tình yêu cũng xây dựng nên một barrier không vượt qua nổi khi người mình yêu chọn cái chết đơn côi. Khoảng cách ở trong lòng người là không có gì vượt qua nổi...
Mưa ngâu... Mưa cho hai kẻ yêu nhau gặp nhau để rồi xa cách trong nước mắt đau thương hạnh phúc. Một ngày nào đó, đã xa lắm rồi, khi mà Tử Du vẫn còn ở trên đời, vẫn nhớ, vẫn mong, vẫn chờ, vẫn đợi nàng. Bây giờ tất cả chỉ còn là hư vô trống vắng dưới cơn mưa.
-Tử Du, em vẫn ở trong anh, vẫn thuộc về anh...
BCCB
Nấm Mộ Lá
Chào chiếc lá
về với vườn hoang
Gửi đâu đó một chút tình riêng ..."
Trịnh Công Sơn
Có một dạo bỗng dưng người ta nói đến một nhân vật ít người để ý đến từ bao lâu nay. Một người âm thầm như một chiếc bóng chẳng liên quan đến ai trong thành phố tỉnh nhỏ nằm dưới chân một thung lũng sa mạc. Những lời bàn bạc về người đàn ông ngày càng thêm huyền hoặc và mơ hồ. Người ta tạo ra những huyền thoại, đặt những dữ kiện về con người lạ lùng lặng lẽ kia sau khi ông đã biến mất và những trận gió lạ từ đâu thổi về ngang khu vườn tiêu điều và âm u của thành phố.
Ông Nô làm việc cho công viên thành phố đã từ lâu lắm. Người ta không biết ông từ đâu đến hay gia thế ông thế nào, chỉ biết ông chăm chỉ làm một công việc duy nhất từ ngày ông đến đây, công việc lập đi lập lại ngày này qua tháng khác mà không hề thay đổi. Ông là người lao công kiên nhẫn tận tụy nhất của thành phố mà nhiều người ngạc nhiên với sức chịu đựng của ông với thời gian và thời tiết bốn mùa. Mùa nóng cũng như mùa lạnh, mùa nắng cũng như mùa mưa, dáng dấp âm thầm của người đàn ông Á-đông nhỏ thó cắm cúi quét gọn từng đống lá khô thành từng cụm, lủi thủi nhặt từng cọng rác trên những lối đi đã trở thành hình ảnh quen thuộc của người bản xứ vẫn thường tản bộ trên những lối đi trong công viên vào buổi chiều.
Năm nay mùa thu đến sớm. Lá rơi quá nhanh. Lá rụng hết chỉ còn cây trơ xương. Lá phủ ngập đầy lối đi như một lớp thảm phủ đầy mặt đất. Mùa thu là mùa của lá rơi, thành phố không mướn ông Nô để thu dọn lá mùa thu, bởi mùa thu là mùa của lá rụng quét dọn làm sao cho xuể. Nhưng thành phố vẫn cần một người lao công để quét dọn nhặt nhạnh những rác rến mà người ta để lại sau những cuộc vui chơi của trẻ con hay của người lớn. Có nhiều buổi chiều, người ta nhìn thấy ông già gầy gò ngồi ở một góc vườn, dưới một gốc cây mở gói thức ăn ông đem theo cho bữa cơm chiều. Ông lặng lẽ ngồi ăn một mình, khuôn mặt chìm lặng và ẩn kín như một bức tượng câm nín. Ông thầm lặng lắm bởi vì ông chẳng hề nói chuyện với ai. Nếu có muốn nói điều gì, ông thường làm hiệu bằng cử chỉ. Có người nghĩ chắc ông tàn tật không nói hay nghe được. Lại có người nghĩ khác, họ bảo thường trông thấy ông đứng ngẩng mặt nhìn trời lẩm bẩm điều gì, mắt nhìn đăm đăm vào cõi xa xăm như tìm kiếm nghe ngóng hay đang nói chuyện với các vì sao. Có thể ông đang tìm kiếm vì sao bản mệnh của ông. Cũng có thể ông đang nói chuyện với một đấng vô hình nào đô Có người còn bắt gặp ông lảm nhảm khi ngước mặt nhìn lên vòm trời cao thẳm, nơi đó mắt ông nhìn thấy những điều ông không nhìn thấy hàng ngày chung quanh ông. Cũng có thể ông đọc thần chú hay cầu nguyện cho nhân sinh bớt đau khổ và cô đơn.
Ông ta là người đầu tiên đến mở cửa công viên thành phố, và là người ở lại sau cùng khi chiếc cổng sắt khép lại khi công viên đã đến giờ đóng cửa và thành phố đã lên đèn. Rồi ông quay lưng lầm lũi đi vào bóng đêm mất hút. Ông cư ngụ ở nơi nào người ta cũng không hề thắc mắc. Một ngày có hai mươi bốn tiếng, ông làm việc quanh quẩn trong công viên mười mấy tiếng đồng hồ. Khu vườn này là nhà của ông. Ông biết rõ từng góc của công viên, có bao nhiêu gốc cây khóm hoa trong vườn ông đều quen thuộc. Buổi tối khi mặt trời sụp xuống, ông đi về đâu nào ai quan tâm. Họ chỉ biết rằng đã cả chục năm nay, không ngày nào vắng mặt ông lão lao công đơn độc giữ gìn vệ sinh cho công viên của thành phố này.
Mùa thu đến sớm và cũng chóng tàn, giữa tháng mười mà lá đã trút không còn một chiếc nào trên cành. Hàng cây trơ trụi lá, chơ vơ những nhánh cây xương xẩu trắng hếu như những bộ xương người dựng đứng đang choàng tay qua nhau. Những cây phong xứ này kỳ dị, dễ dị ứng với tiết lạnh. Chỉ qua một trận lạnh mầu lá đã rùng mình đổi sang mầu tê tái. Từ mầu tê tái chuyển sang mầu đỏ hực. Thêm vài luồng gió lạnh nữa là lá rũ mình chuyển sang mầu nâu xám xịt, rồi rùng mình tìm về với cội nguồn, im lìm như đất. Lặng lẽ nào ai hay. Cảnh vật ở đây nhuốm vẻ tiêu điều thật nhanh. Tâm hồn thiên nhiên nhạy cảm. Thiên nhiên nhạy cảm nhưng dường như con người thì vẫn hồn nhiên. Họ vô tư đến nỗi tin ông lão lao công biến mất mà chẳng ai để ý.
Ðã gần trưa mà cánh cổng công viên vẫn im lìm đóng kín. Không ai thấy ông Nô đến mở cửa công viên.
Có tiếng con chim lạ hú lảnh lót ở góc vườn. Một luồng gió cuốn những chiếc lá khô xoắn tít quyện vòng tròn ở góc cuối vườn tạo nên một thứ âm thanh xao xác khô nhẹ, nghe hiu hắt như xoáy vào lòng. Lũ chim sẻ làm tổ trên những cành xương khô vẫn còn ngủ yên. Cảnh vật vẫn còn im lìm trong cơn lạnh đầu mùa. Khu vườn tiêu điều hơn với vài gợn gió chướng gờn gợn lạnh. Tiếng con chim lạ ở đâu về vẫn kêu quang quác ở trên cành khộ Và những luồng gió cứ xoắy tròn như những vòng spiral kỳ quặc.
Khi người ta tìm thấy ông lão làm vườn nằm chết ở dưới một gốc cây, thân thể ông đã lạnh cứng và trên mình ông chỉ phong phanh một manh áo mỏng. Lá tụ về phủ kín khắp người ông. Nấm mộ lá chôn ông đã mấy hôm rồi mới có người khám phâ Nấm mộ lá bị người ta bới ra tìm thấy thi thể một người đàn ông gầy gò, mái tóc muối tiêu với khuôn mặt khô xương xẩu lạnh lẽo không cảm xúc. Không ai hiểu do đâu lá khô cuốn về che phủ thân thể ông, như một tấm chăn dầy, như một nấm mộ vội. Ðây là người đàn ông da vàng từ một nơi nào đến, ông không hề tiếp xúc với ai, người ta đặt tên ông là Nô vì ông chỉ biết lắc đầu, những cái lắc đầu từ chối. Người ta lại cũng chép miệng lắc đầu. Tội nghiệp! Rồi có người đến đem xác ông lão đi mất ngay buổi chiều hôm đô
Những đám lá khô vẫn lào xào bay vung vãi khắp khu vườn. Lá khô phủ đầy trên những lối đi, cảnh vật công viên mùa thu tiêu điều như một khu vườn hoang phế. Dạo này ít người dạo bộ hay chơi thơ thẩn ngoài những khuôn viên. Vì trời trở rét vội, hoặc vì khung cảnh khu vườn mang vẻ âm u huyền hoặc làm người ta ngại ngùng...
oOo
Lúc tôi vừa bước chân đến thành phố tỉnh lẻ heo hút, có nhiều cặp mắt nhìn tôi dò xét và ngại ngùng. Có những cái nhìn đặt nhiều câu hỏi. Tôi linh cảm thành phố hẻo lánh này không quen với những khuôn mặt lạ, nhất là một khuôn mặt da vàng lạc lõng chìm trong đám đông. Có lẽ tôi không được chào đón lắm ở một cộng đồng hoang vu nhỏ bé này.
Thành phố nằm dưói chân thung lũng trông ra một dãy núi đá lởm chởm màu đỏ đất sét. Ở đây đêm xuống gió nhiều lắm. Gió hú gào rên xiết ngoài trời. Gió rít qua khe cửa. Gió lồng lộng thổi từ phía bắc về, gió kéo những đám mây đen với nhiều hình thù lạ lùng, như những bức tranh mây chuyển động thay đổi từng cảnh mục. Tôi bắt gặp mình có thói quen thích ngắm và phân tích những đám mây. Buổi chiều xong việc, tôi ngồi thong dong và thoải mái nhìn ra bên ngoài cửa sổ (căn phòng nhà trọ có cánh cửa sổ hướng về phía tây, đối diện với công viên thành phố). Tôi nhìn ngắm và phân tích, tưởng tượng về những đám mây chuyển sắc đổi hình phía xa như đang xem một hoạt cảnh không âm thanh và tiếng động. Mới chạng vạng chiều mà thành phố đã im lìm chìm trong vẻ hoang vắng u tịch. Tôi khoác áo len mỏng định đi ra ngoài, định dạo một vòng ở công viên lá trước khi lên giường đi ngủ sớm.
Thằng nhỏ thập thò ngoài cửa phòng tôi có lẽ từ lâu, như chỉ chờ tôi bước ra là chận hỏi.
- Chào cô! Cô đi ra ngoài tản bộ hở ?
Tôi giật mình vì có hơi bất ngờ:
- Chào em! Tôi định đi dạo ngoài công viên một chút...
Ðôi mắt nó nhìn tôi như muốn nói điều gì, ngập ngừng như muốn giữ chân tôi lại. Tôi cười làm thân, hỏi thăm:
- Em ở gần đây hả ?
Gật đầu trả lời. Rồi đưa tay chỉ về phía sau khu nhà trọ. A, thì ra nhà nó cũng ở đây. Có lẽ nó muốn làm quen với người lạ ở xa đến. Tôi kéo tay thằng bé ngồi xuống chiếc ghế gần đấy. Lục tìm trong túi áo có một thỏi kẹo chocolate, tôi tặng người bạn nhỏ thân thiện.
- Em tên là gì?
- tên Bo .
Thằng Bo là người bản xứ gốc da đỏ. Ðôi mắt nâu mầu hạt dẻ với hàng mi dài đen mướt trông đa cảm, nước da nâu sậm và mái tóc rối đen như những sợi cước, trông nó ngoan như mấy đứa nhỏ chăn trâu ở làng xưa của tôi. Bo nói có một người đàn ông Á-đông, màu da và tóc trông giống như tôi sống đã lâu ở đây. Một người đàn ông vẫn thường đi qua nhà nó mỗi buổi sáng và chiều tối. Tôi hỏi Bo có quen với ông ta không. Thằng nhỏ ngập ngừng, rồi khẽ gật đầu. Thì ra thành phố hẻo lánh này cũng có một người da vàng cư ngụ. Bo đưa tay chỉ về phía công viên trước mặt, nói nơi đó là nhà của ông ta. Rồi nó cầm tay tôi dắt về phía công viên, như muốn chỉ cho tôi xem điều gì. Đôi mắt nó u uẩn. Tôi nhìn theo phía Bo chỉ. Công viên chỉ có lá và lá.
Cơn mưa kéo dài từ tối hôm trước, đến giữa trưa vẫn còn rả rích. Cứ mỗi lần thời tiết nặng nề là tôi gặp cơn nhức đầu đeo đẳng. Công việc nhiều suy nghĩ quá và tôi cũng đã chán cái khung cảnh u ám đìu hiu của thành phố này. Tôi có ý nghĩ muốn ra về sớm. Sau trưa, mưa đã tạnh và mặt trời ló một chút ra khỏi đám mây, như cánh tay truồi ra bóng tôí bắt lấy một vùng ánh sáng thoi thóp. Tôi lấy áo khoác ra về sớm hơn thường lệ. đi bộ trên con đường tắt về lại nơi trú ngụ, ngang qua một tiệm chạp-phô nhỏ, tôi thấy thằng Bo ngồi trước cửa đang lau chùi bộ chân đèn bằng đồng. Tôi dừng lại chào Bo, thằng nhỏ ngước mắt nhìn tôi nhoẻn cười.
- Chào Bọ Em làm gì ở đây thế?
- Hello Miss. Em giúp việc ở đây cho ba em. Ðang định đi kiếm cô. Chờ một chút, em có cái này cho cô xem.
Thằng Bo bỏ bộ đèn đồng xuống chạy vụt vào bên trong. Tôi đứng chờ ngoài đường, lơ đãng ngắm con phố vắng sau một ngày mưa nhầy nhụa. Mặt đường đầy xác lá ướt nhẹp, những đám lá cây trút xuống đường nằm bẹp dí dưới đất trông lầy lội dơ bẩn như rác rến sau cơn lụt. Khu phố xây bằng stucco màu đất thẫm, thấm nước mưa trông càng sẫm tối u ám hơn. Thằng Bo chạy ra dúi vào tay tôi một gói giấy bảo quà cho cô đem về xem thử, rồi nó chạy biến vào trong. Tôi tần ngần nhìn gói giấy, đó là một quyển sách.
Cánh tay ánh sáng le lói từ một vầng mây thấp phụt tắt, rồi chìm lỉm mất hút trong đám mây đen. Tôi quay về nhà trọ trên con đường nhỏ cũ với bóng tối phủ chụp lên đầu, lên thành phố tỉnh lẻ ít tiếng động và lao xao tiếng giô Bóng điện thấp thoáng nhấp nháy sáng lên từ một góc phố. Tôi tò mò mở gói giấy, cảm giác lành lạnh chuyền nhanh vào những ngón tay... Rồi chợt như có một luồng gió hay một tia ánh sáng hay một mùi hương gì đó bay vút lên từ trong cái gói giấy, vút lên trời, thẳng vào bóng đêm...
oOo
Có một thứ ngôn ngữ làm lòng tôi se thắt lại mỗi khi nghĩ đến. Lời tự đáy lòng chỉ có thể xuất phát, bộc lộ từ những câu thơ bi lụy thế này là cùng. Chân thực, cảm động đến nỗi tôi đã thức trắng nhiều đêm lẩm nhẩm những câu viết không vần, không đầu không đuôi từ cuốn sách kỳ quặc này. Cuốn sách nói thứ tiếng tôi suy nghĩ, thứ ngôn ngữ định mệnh tôi được sinh ra và khóc cũng bằng thứ âm thanh não nùng đô Có những tiếng gọi mẹ gọi cha gọi con gọi người yêu chất chứa đầy cảm xúc, tha thiết và xúc động. Nỗi nhớ thương, cô đơn run rẩy trong nét chữ nhòa, những lời thương cảm không thể dùng một thứ ngôn ngữ nào khác để thay thế bộc lộ. Tôi nghe dường như có ai đang gọi tôi bằng thứ tiếng gần gũi tha thiết đó, thì thào sát bên tai, giòng chữ nhảy múa...
Quyển vở đầy những chữ viết tay, nét mực run rẩy của người mang bệnh không cầm vững bút. Mở đầu là hình ảnh một cuộc chia ly với nhiều tiếng gọi "mẹ ơi" rất êm ái, rồi cũng kết thúc, chấm lửng cũng bằng những tiếng "ơi ..." Những kể lể tâm sự, như lời vĩnh biệt thời gian, vĩnh quyết cuộc đời tưởng có thể làm tôi ngộp thở vì xúc động. Người viết đã nhỏ nước mắt vào tiếng kêu tuyệt vọng, trên những trang giấy này, người viết là ai ? Tôi hình dung ra ông ta đang ngồi thu mình ở một góc khuất công viên, cắm cúi viết, nắn nót những tiếng gọi vào quyển sổ nhỏ, rồi mở rộng trang giấy cho những chữ viết ấy hoá thành một thứ âm thanh bay vút lên trời, tan vào không gian, nơi cao ấy có những con mắt long lanh đẫm lệ của những ngôi sao đang nhìn ông thật âu yếm.
"Lạnh quá mẹ ơi, gió lồng lộng từ phía bắc đem cái lạnh về làm con nhớ những ngày gió bấc mẹ nhúm lửa quạt hơi ấm cho toả khắp nhấ Nhà quê mình nhiều rơm nhưng nhúm lửa bằng rơm nhiều bụi mẹ sợ con lại lên cơn ho mỗi khi trời trở rét. Mỗi lần con ôm ngực ho lại thấy khuôn mặt mẹ nhăn nhúm vì đau đớn. Chắc ngực con không đau bằng mẹ ..."
ngày ...
"Vẫn trò chuyện với những mắt sao
long lanh như mắt em xanh
buổi chiều sông Hồng vút cao
cánh diều lạc gió
tôi đi như mây
từ độ chân trời rực đỏ!
Ôi lá, ôi cây...
hãy choàng ôm lấy tôi
những cánh tay mẹ hiền
như lửa ấm từ thân em
cháy!"
oOo
Tôi lặng lẽ rời thành phố tỉnh nhỏ không kịp từ giã Bo. Tôi đi như chạy trốn những luồng gió lạnh và những cơn lốc của mùa lâ Ở một nơi nào đó trên mặt đất này, có một nấm mộ bằng lá phủ kín nỗi niềm đau thương của những kẻ di dân thầm lặng. Những chiếc lá đang khô khốc, dần rữa trong cái lạnh của mùa đông đang tới.
Phạm Chi Lan
Mùa thu 1993