vhnt, số 227
13 September 1996
Trong số này:
thư vhnt......................................................Phùng Nguyễn
T h ơ :
1 - Thơ tình của Rod McKuen ................ Rod McKuen/Trần Thuyên dịch
2 - Tình Si Một Bóng .................................... Ðào Thùy Trang
3 - Lao Ðao Nhớ ............................................ Ðặng Hiền
4 - Mười Mấy Tuổi ................................... An Phú Vang (NNA)
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
5 - "Thơ con cóc": Một bài thơ hay .............,...Nguyễn Hưng Quốc
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
6 - Mộng Bình Yên (tùy bút) ........................... Hoàng Quỳnh Lan
7 - Lâm Bồn ................................................Bùi Thanh Liêm
Bạn thân mến,
227 số vhnt - kể cả số này - phát hành trên hệ thống Internet đánh dấu một bước tiến khá dài của tạp chí điện tử này. Bắt đầu với một mối đam mê văn chương và một dự tính rất khiêm nhường, chủ biên và người sáng lập Phạm Chi Lan đã biến vhnt thành một món quà tinh thần cho chúng ta, những độc giả mà hầu hết thuộc thành phần chuyên gia và sinh viên học sinh Việt Nam trên toàn thế giới. Sự hình thành và phát triển của tạp chí vhnt Liên Mạng, tuy nhiên, không thể hiện hữu nếu không có sự theo dõi và đóng góp của mỗi độc giả và thân hữu, mà con số càng ngày càng đông hơn. Xin thay mặt chủ biên Phạm Chi Lan và nhóm thân hữu gởi đến các bạn lời cám ơn chân thành.
Mong tiếp tục nhận được sự đóng góp và ủng hộ của tất cả các bạn.
thân ái,
Phùng Nguyễn
(viết thay PCL một kỳ)
thơ Rod McKuen
I even love your enemies
because they drive you to my arms
for comfort.
Yêu cả kẻ thù em
vì họ đẩy em vào vòng tay anh
để chở che.
January 17
When we've long forgotten why
I came back to San Francisco by myself
and why you went away alone
and why you smiled at me
the first time ever.
There will still be little things
our memories will keep,
some things known to each other only.
I cannot speculate
on what our cluttered minds will save -
sleepy Sundays,
or a nosebleed after love.
I know only the dying heart
needs the nourishment of memory
to live beyond too many winters.
17, tháng 1
Khi ta đã quên đi rất lâu tại sao
anh đơn lẻ trở lại Cựu Kim Sơn
và tại sao em một mình ra đi
và tại sao em đã riêng anh nụ cười
lần đầu tiên đó.
Sẽ vẫn những điều nho nhỏ
ký ức chúng ta gìn gi,
những điều chỉ riêng chúng ta biết với nhau.
Anh không thể dự đoán
trí óc hỗn độn chúng ta sẽ lưu lại gì -
những Chủ Nhật ngái ngủ
hay cơn đau sau tình yêu.
Anh chỉ biết trái tim đang dần chết
cần dưỡng tố của kỷ niệm
để sống qua dài lắm những mùa đông.
Channing Way, 2
I should have told you
that love is more
than being warm in bed.
More
than individuals seeking an accomplice.
Even more than wanting to share.
I could have said
that love at best is giving what you need to get.
But it was raining
and we had no place to go
and riding through the streets in a cab
I remembered
that words are only necessary after love has gone.
Ðường Channing, số 2
Anh nên nói với em
rằng tình yêu ý nghĩa hơn
trao nhau hơi ấm gối chăn.
Hơn
những cá thể tìm ở nhau một đồng lõa.
Hơn cả ước vọng cùng chia xẻ.
Anh đã có thể nói
rằng tình yêu là cho đi những gì mình cần đón nhận.
Nhưng lúc ấy trời đang mưa
và chúng ta không có nơi để hẹn hò
và cùng ngồi qua những con đường trong chiếc xe mướn
anh nhớ ra
rằng ngôn từ chỉ cần thiết khi tình yêu không còn nữa.
Poem
I have no special bed.
I give myself to those who offer love.
Can it be wrong?
Lonely rivers going to the sea
give themselves
to many brooks in passing.
So it is with me
undiscovered and alone
till someone says the magic word.
You'll see me then
some weekend waiting
and if you do
say hello.
Bài Thơ
Tôi không một chỗ nằm đặc biệt.
Tôi trao mình cho những kẻ dâng hiến tình yêu.
Sai lầm chăng?
Những giòng sông lẻ loi tuôn vào biển rộng
đã ký thác mình
vào những suối nhỏ trên hành trình.
Tôi cũng thế đó
hoang khai và cô độc
cho đến khi ai kia thốt tiếng nhiệm mầu.
Em sẽ thấy tôi cho đến khi đó
những cuối tuần mong đợi
và nếu có gặp,
hãy một tiếng chào.
Trần Thuyên chuyển ngữ
Tình Si Một Bóng
Vẽ tình qua những dòng thơ
Như lòng bé đó mộng mơ chân thành
Gọi anh trong giấc mộng lành
Mong cho tình ấy trở thành thiên thu
Chiều chiều dạo phố mộng mơ
Gửi lời yêu dấu thẩn thờ theo mây
Xa xa én lượn tung bay
Bé xin nhắn gửi tình say cùng người
Tình thơ của tuổi đôi mươi
Ðắm say chân thật của thời học sinh
Duyên tơ đẹp nét chữ tình
Thẹn thùng e ấp chỉ mình bé si
Ðêm đêm nhung nhớ cũng vì
Tình chưa dám ngỏ, hiểu chi lòng chàng
Ðể rồi dạo phố lang thang
Tim hồng nhỏ lệ, sầu mang thẩn thờ
Tình đầu chớm nở tuổi thơ
Sợ tình bay mất, còn chờ đợi ai
Mắt buồn thăm thẳm u hoài
Tinh si một bóng đắng cay thật buồn
ThuyTrang
Lao Ðao Nhớ
Ði lên
Ðành lại
Ði về
Ngồi bên con phố
rỗi nghề
người qua
Nghe chừng
mây thấp
mây xa
Mai,
lao đao nhớ
thật thà
nhớ,
quên.
Ðặng Hiền
Mười Mấy Tuổi
Mười mấy tuổi mộng trên cây
Mười mấy tuổi mộng giữa ngày lá xanh
Mười mấy tuổi mộng qua nhanh
Nhịp banh bóng rổ hòa thành tiếng xe
Về nghe cu gáy bên hè
Dăm ảnh cũ chụp xưa nhòe chân dung
Dăm đời cũ dậy bão bùng
Xưa kỷ niệm trở nghìn trùng ấu thơ
Mười mấy tuổi lạc bơ vơ
Ngày lớp sáu viết bài thơ đầu đời
Bài thơ viết tặng nụ cười
Bài thơ ngắn vụn ấu thời tóc xanh
Thơ theo em tình câm anh
Bước xa ngó lại bước gần lặng câm
Mùa ve tàn phượng xa xăm
Chân Nữ Trung Học về trăm năm người
Mười mấy tuổi mộng giữa đời
Cho xin đổi hai mươi năm thời tóc phai
An Phú Vang (NNA)
Con cóc” là một bài thơ hay?
Con cóc trong hang
Con cóc nhảy ra
Con cóc nhảy ra
Con cóc ngồi đó
Con cóc ngồi đó
Con cóc nhảy đi
Yêu thơ, thuộc khá nhiều thơ, tôi có thói quen hay đọc thơ, khe khẽ, một mình, nhất là vào những buổi chiều, đi làm về, nhìn nắng ngẩn ngơ vàng, lòng bỗng dưng, nói như Xuân Diệu, hiu hiu khẽ buồn. Những lúc ấy, dù không mong, thơ vẫn hiện về, thầm thì, như một lời đồng điệu. Thường là thơ của Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử và nhiều nhà thơ khác, trước năm 1945; những bài thơ ngọt ngào vô hạn, đọc lên, ngỡ có hương thơm thoang thoảng quanh mình và ngỡ lòng mình, giống như Hồ Dzếnh ngày nào, hoá thành rừng, thành mây, đầy một niềm chiều.
Thế nhưng, lạ, dễ đã mấy năm rồi, không hiểu tại sao, càng ngày tôi càng mất dần cái thói quen thơ mộng ấy. Tôi vẫn đọc thơ nhưng hầu như bài thơ nào đang đọc dở dang cũng đều bị cắt ngang bởi một bài thơ rất vô duyên: thơ “Con cóc”. Từ đâu đó, tận trong tiềm thức, bài thơ “Con cóc” nhảy chồm ra, giành giật, chen lấn, xô đẩy, cuối cùng, thật oái oăm, bao giờ nó cũng thắng thế.
Một buổi trưa không biết ở thời nào
Như buổi trưa nhè nhẹ trong ca dao...
Con cóc trong hang
Con cóc nhảy ra...
Cứ thế. Có thể nói, suốt mấy năm nay, cơ hồ tôi không đọc trọn vẹn một bài thơ nào ngoài bài thơ “Con cóc”. Bận bịu quá, quên đi thì thôi, còn hễ nhớ đến thơ thì bao giờ cũng thế, bài thơ “Con cóc” lại hiện ra, sừng sững, án ngữ hết mọi nẻo đường, không cho bài thơ nào khác có được cái quyền được ngâm nga nữa. Quái.
Mà quái thật. Đâu phải tôi không biết đó là một bài thơ dở, cực kỳ dở, hơn nữa, với người Việt Nam, còn là điển hình của cái dở nói chung. Mỗi lần bắt gặp bài thơ nào kém cỏi, chỉ có vần điệu ê a mà tình ý hoặc rỗng tuếch hoặc nhạt nhẽo, người Việt chúng ta - trong đó có tôi, dĩ nhiên - thường có thói quen phán: “Thơ con cóc!” “Thơ Con cóc”, do đó, được coi là lời chê bai nặng nề nhất, một sự phủ định hoàn toàn. Tôi biết. Biết vậy mà vẫn bị nó ám ảnh mãi. Xua, nó không đi. Nó cứ phục kích đâu đó, trong một ngóc ngách nào của tâm hồn, chực có cơ hội, những lúc tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn, lại hiện ra, thoạt đầu, như một sự nghịch ngợm, sau, dần dần, thật lạ lùng, cứ như một lời đồng điệu.
Vâng, như một lời đồng điệu. Tôi mơ hồ cảm thấy bài thơ “Con cóc” đã nói hộ giùm tôi bao nhiêu niềm u uẩn, cứ day dứt trong lòng. Những nỗi niềm ấy nhoi nhói đòi phát ngôn, đòi tìm tri âm mới sau khi đã giã từ những người bạn cũ, rất mực hiền lành, chỉ quen một điệu ví dầu cầu ván đóng đinh... hay ôi nắng vàng sao mà nhớ nhung...
Từ sự cảm nhận mơ hồ này, dần dần, tôi khám phá ra một điều, là, trái hẳn những định kiến quen thuộc của chúng ta lâu nay, bài thơ “Con cóc” không chừng là một bài thơ hay. Mà đâu chỉ có một mình tôi nhận ra điều đó. Dường như, tự thâm tâm và một cách thiếu tự giác, rất nhiều, nếu không nói là hầu hết người Việt Nam đều công nhận như thế. Có hai chứng cứ:
Một là, mọi người đều ghi khắc mãi bài thơ ấy vào trí nhớ.
Hai là, mọi người đều coi nó là điển hình của cái dở nói chung.
Trong số những bài thơ khuyết danh tại Việt Nam, dễ không có bài thơ nào được nhiều người nhớ như bài thơ “Con cóc”. Ngay cả những người hoàn toàn hờ hững với thơ ca cũng thuộc lòng bài thơ ấy. Trong ngôn ngữ của chúng ta, chữ thơ “Con cóc” được dùng để chỉ sự nôm na, cọc cạch cũng như chữ Hoạn Thư chỉ sự ghen tuông, chữ Thúc Sinh chỉ sự sợ vợ, chữ Tào Tháo chỉ sự gian hùng.
Hai sự kiện này hoàn toàn mâu thuẫn với những lời lẽ bỉ thử chúng ta dành cho bài thơ “Con cóc” vì lý do giản dị: một tác phẩm văn học đã trở thành điển hình và được mọi người, từ thế hệ này qua thế hệ khác, từ thời đại này qua thời đại khác, ghi nhớ thì không thể nào dở được. Trong khi cái dở, nói như Hoài Thanh, “không tiêu biểu gì hết” (1), điển hình, một thuật ngữ quen thuộc trong trào lưu Tân cổ điển, được Engels và sau đó, giới nghiên cứu văn học Mác-xít mượn lại, là cái gì có tính khái quát cao, thể hiện bản chất sự vật, là đại diện cho số đông và do đó, chỉ có thể là kết quả của tài hoa và trí tuệ. Hạng người đểu giả và đồi bại trong tình yêu bao giờ cũng nhan nhản trong cả cuộc đời lẫn văn chương ở mọi thời nhưng phải đợi đến ngòi bút thiên tài của Nguyễn Du, trong vài câu, với vài nét chấm phá, mới thành một điển hình: Sở Khanh. Hạng người hợm mình và láu cá hẳn không hiếm trong xã hội Việt Nam, đặc biệt trong những buổi giao thời, được nhiều nhà văn quan tâm phản ánh, nhưng phải đợi đến ngòi bút sắc sảo của Vũ Trọng Phụng nó mới thành một điển hình: Xuân tóc đỏ. Khuôn mặt “hao hao như mặt lợn”, trên đó gắn cái mũi “vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành”, một đôi môi như “miếng thịt trâu xám ngoách” phải nhờ Nam Cao mới trở thành một điển hình cho cái xấu nói chung, cái Xấu viết hoa: Thị Nở.
Về phương diện giá trị điển hình, hình tượng con cóc không hề thua kém hình tượng Sở Khanh, Xuân tóc đỏ hay Thị Nở. Về phương diện sức sống, nó cũng đã vượt qua bao nhiêu thử thách, từ đời này qua đời khác, cứ tồn tại hoài. Không ngoa chút nào nếu gọi thơ “Con cóc” theo cách nói quen thuộc đã thành sáo ngữ của chúng ta là bài thơ “vượt thời gian”. Nhà văn Nhất Linh, trong quyển Viết và đọc tiểu thuyết, đã coi tính chất “vượt thời gian” là cơ sở chắc chắn nhất để xác định một tác phẩm lớn. Nhà thơ Xuân Diệu có cách ví von khá thú vị:
Chiếc thuyền thơ thả trong biển thời gian, lúc đầu mới hạ thuỷ còn chao lên chao xuống, gió bão từng kỳ làm chòng đi chành lại, cứ cho thăng trầm mỗi đợt là mất hai mươi năm đi, thì trải qua năm đợt hai mươi năm, mà vẫn cứ giong lèo giương buồm phơi phới, như vậy có thể nói được rằng: từ đây vào bất hủ được rồi. (2)
Bài thơ “Con cóc” ra đời đã lâu, lâu lắm, được Trương Vĩnh Ký sưu tập, in trong quyển Chuyện đời xưa xuất bản lần đầu tiên năm 1866, cho đến bây giờ, vượt xa thời hạn Xuân Diệu đã nêu, vẫn còn âm vang trong lòng mọi người, còn gì mà ngờ nữa?
Tôi đoán, sẽ có người biện bạch, cho hiện tượng “vượt thời gian” của bài thơ “Con cóc” xuất phát từ những nguyên nhân khác, không phải là giá trị nghệ thuật của nó, chẳng hạn, vì nó ngắn nên dễ nhớ, vì nó dở đến cực độ của cái dở hoặc vì nó gắn liền với một câu chuyện tiếu lâm nổi tiếng (3). Theo tôi, những luận cứ này đều không vững. Đồng ý ngắn thì dễ nhớ nhưng không phải cứ hễ ngắn là được người ta nhớ. Có khối bài thơ ngắn hơn hoặc bằng bài thơ “Con cóc”. Thơ 14 chữ của Thi Vũ hoặc thơ mini của Trần Dần, chẳng hạn. Còn cái dở thì hiếm gì, đầy dẫy, có bài nào được nhớ đâu? Trong ngôn ngữ xưa nay, chúng ta thường nói: làm thơ hay như Đỗ Phủ, phóng túng như Lý Bạch, giản dị như Bạch Cư Dị, đẽo gọt kỳ khu như Giả Đảo, nhưng không hề có cách nói nào đại loại như làm thơ dở như ông A bà B. Tuyệt đối không. Đã dở thì bị diệt vong, bị tiêu tán tức khắc, không còn lại gì cả, kể cả một cái tên, đừng nói gì là nguyên vẹn một tác phẩm. Bài thơ “Con cóc” được tồn tại cũng không phải nhờ câu chuyện tiếu lâm gắn liền với nó nếu không muốn nói, ngược lại, câu chuyện tiếu lâm ấy sở dĩ còn được lưu truyền là nhờ bài thơ “Con cóc”. Có ba lý do để khẳng định điều này: một là, nếu bỏ bài thơ đi, câu chuyện sẽ trở thành hoàn toàn nhảm nhí và vô nghĩa; hai là, đã nhiều người dùng lại câu chuyện ấy, chỉ thay đổi những lời thơ xướng hoạ, có những lời thơ tục, vui và ngộ nghĩnh hơn bài thơ “Con cóc” nhiều (4), song tất cả đều rơi hút vào quên lãng; ba là, rất nhiều người chỉ nhớ bài thơ “Con cóc” nhưng lại không nhớ được câu chuyện tiếu lâm kia, nghĩa là, nói cách khác, với họ, bài thơ “Con cóc” được ghi nhận như một tác phẩm độc lập.
Như vậy, có thể nói, qua việc nhớ bài thơ “Con cóc”, việc coi thơ “Con cóc” như là một điển hình của cái dở, từ trong vô thức, chúng ta đã thừa nhận giá trị của nó, đã linh cảm được đó là một bài thơ hay. Song có lẽ vì cái hay của nó quá lạ, khác hẳn những cái hay chúng ta quen thưởng thức, cho nên lý trí chúng ta tự nhiên đâm ngờ vực, cuối cùng, lý trí thắng thế: bài thơ bị liệt vào loại dở. Sự hàm oan của bài thơ “Con cóc”, do đó, gắn liền với sự hàm oan của một quan điểm thẩm mỹ. Khôi phục giá trị của bài thơ “Con cóc” cũng có nghĩa là đặt thành nghi vấn đối với những quan điểm thẩm mỹ quen thuộc, đang giữ vai trò thống trị trong sinh hoạt văn học nghệ thuật lâu nay.
Nguyễn Hưng Quốc
Chú thích:
1. Hoài Thanh & Hoài Chân (1967), Thi nhân Việt Nam, Thiều Quang (tái bản), Saigon, tr. 329.
2. Xuân Diệu (1982), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập 2, nxb Văn học, Hà Nội, tr. 227.
3. Câu chuyện có thể tóm tắt đại khái như sau:
Có ba anh học trò dốt, một hôm, nhìn một con cóc, nổi hứng rủ nhau làm thơ vịnh. Anh thứ nhất đọc:
Con cóc trong hang / Con cóc nhảy ra.
Anh thứ hai tiếp:
Con cóc nhảy ra / Con cóc ngồi đó.
Anh thứ ba nối lời:
Con cóc ngồi đó / Con cóc nhảy đi.
Làm xong bài thơ, tự trầm trồ khen mình giỏi, rồi sực nhớ lời người xưa nói kẻ tài hoa thường mệnh yểu, ba anh rất lo, sai tiểu đồng ra phố mua sẵn ba cái quan tài. Ngoài phố, nghe lời tiểu đồng kể lại, một khách qua đường dặn:
- Mày mua luôn giùm tao một cái nữa, để lỡ cười quá, tao chết mất.
4. Ví dụ lời thơ trong truyện “Thơ cái chuông”:
Chùa này có cái chuông
Đánh tiếng kêu boong boong
Treo lên như cái vại
Ấy nó vốn bằng đồng.
hoặc trong truyện “Thơ con ngựa”:
- Chậu nước thả cây kim
Cha tôi cưỡi ngựa chạy như chim
Chạy đi chạy lại cây kim chưa chìm.
- Lò than để cái lông
Cha tôi cưỡi ngựa chạy như giông
Chạy đi chạy lại, cái lông chưa hồng.
- Mẹ tôi xáng cái địt
Cha tôi phi ngựa chạy như hít
Chạy đi chạy lại cái đít mẹ tôi chưa khít
Mộng Bình Yên
Tôi vẫn thường mơ một khoảng trời bình yên, chỉ có riêng tôi, với trời và biển, trong một thành phố xa hẳn nơi đang sống. Sáng thức dậy nằm lười biếng nghe tiếng sóng rì rào xa xa, tôi mơ về một vùng trời mênh mông không một bóng mây, và một vùng biển bao la chưa hằn dấu chân trên cát. Tôi miên man ngắm mặt trời ban mai, bắt đầu là một chấm hồng phơn phớt, rồi lan nhanh, cuối cùng nở thành một vòng tròn đỏ cam như màu lửa. Tôi thương mặt trời mọc như dấu hiêu của một sự bắt đầu rực rỡ trong ban mai, báo trước một ngày vui tràn nắng ấm với mặt trời soi bóng nhỏ dịu dàng.
Ban ngày tôi thích lang thang trong phố chợ, ngắm những cửa hàng sặc sỡ để thấy thế giới quanh mình muôn màu. Và vui. Tôi chưa bao giờ ghé một mình vào quán café nhưng lại mơ ước có một lần như thế. Một quán café vắng khách và nhìn ra biển. Có lẽ khó tìm lắm, tôi mỉm cười vu vơ khi nghĩ ra điều này... Quán hàng dần dần sẽ đông người, từng cặp tình nhân tựa vai tâm tình cùng sóng biển. Tôi vẫn ngồi một mình, lẻ loi như bao giờ, nhưng hạnh phúc miên man... Một mình được ngắm chim trời bay không hạn định, và ước mơ là gió, nâng mộng đời lên cao.
Buổi chiều tôi đi quanh bờ biển. Biển tím thẫm dịu dàng, trời chiều màu đậm mênh mang. Tôi có thể ngồi hàng giờ nhìn ra khoảng trời mông lung xa xa ấy, không phải là ngắm mây mà nhìn đắm những ánh đèn của thành phố xa xa bên kia biển. Một phố thi tôi chưa một lần đặt chân, nhưng chắc hẳn phải đầm ấm hiền hoà hơn nơi tôi đang sống. Nơi tôi đang sống là gió bão, không có trăng dịu dàng trên cao, và những bài thơ tình không có nơi cất giấu.
Tiếng động nào đánh thức tôi từ cơn mơ bình yên. Lục quyển niên giám điện thoại, tôi gọi phone đến hãng máy bay và đặt vé đi về thành phố biển. Cùng lúc ấy tôi biết sẽ có mặt chàng trong thành phố. Nhưng vì tôi và chàng vốn đã muôn đời không duyên nợ, và tôi thì ôm kiếp lẻ loi, thì dù cho có ở chung một thành phố nào, tôi biết tôi và chàng sẽ chẳng bao giờ gặp nhau...
Hoàng Quỳnh Lan
Lâm Bồn
Trúc xinh trúc đứng đầu đình
Em xinh em rớt xuống sình cũng xinh
1 giờ sáng ngày thứ Hai:
Chợp sáng, ngày "Labor Day", tức là ngày lễ Lao Ðộng của Hoa kỳ, sau một ngày chủ nhật dài của ăn nhậu no say, tôi lăn quay ra ngủ thẳng cánh cò bay. Thật là vô tư. Những giấc ngủ của nửa đêm về sáng ôi sao đã vô cùng, không còn biết trời trăng chi hết. Còn đang chờn vờn trong giấc điệp thì Hồng, bà xã của tôi, nằm bên cạnh lay vai tôi, nàng nói:
- Anh ơi, em bể nước ối rồi!
Lúc đầu tôi tưởng mình nằm mơ. Thật là vô tư. Nhưng cái lay vai ngày càng mạnh làm tôi tỉnh giấc. Tôi tưởng Hồng nói giỡn, làm gì có chuyện bể ối vô trong này được, mới đi khám bác sĩ hồi đầu tuần, ông đoán là sớm nhất cũng phải một tuần nữa, vì xương chậu của vợ tôi chưa nở ra được phân nào hết mà. Thật là vô tư. Tuy nhiên tôi cũng quay qua nhìn, thấy nét mặt của Hồng là tôi biết ngay nàng không nói giỡn. Tôi đưa tay xuống dưới rờ rẫm và thấy ướt mem. Tôi lật đật ngồi dậy vặn công-tắc đèn. Tôi chống tay lên trên tường vài giây để định thần và cũng để lùa đi cơn buồn ngủ. Thật là vô tư. Bên cạnh giọng của Hồng càng trở nên hốt hoảng, run lên từng cơn cầm cập:
- Anh Liêm ơi, chết rồi, biết làm sao bây giờ?
- Em bình tĩnh lại. Mình đã chuẩn bị cho chuyện này, không có gì phải hoảng hốt hết.
Tôi trấn an vợ và đồng thời tự trấn an cho mình. Thật là vô tư. Tôi đi đến bàn phấn của nàng tìm cuốn sổ tay ghi số điện thoại của bác sĩ Harris, vị bác sĩ sản phụ khoa khám thai cho nàng. Bên kia đường dây là giọng của cô thư ký trực điện thoại 24/24 cho các bác sĩ sản phụ khoa. Tôi nhập đề liền:
- Tôi muốn nói chuyện với bác sĩ Harris. Vợ tôi bị bể nước ối.
- Tôi sẽ báo cáo lại với bác sĩ Harris. Trước tiên xin ông cung cấp đầy đủ các chi tiết cần thiết sau đây...
Con nhỏ thư ký rề rà làm như không có chuyện gì đáng quan trọng. Thật là vô tư. Tôi nổi sùng nhưng phải kiềm chế, sợ nó ghét nó cúp điện thoại thì thật là vô tư. Giọng cô thư ký vẫn nghề nghiệp và vô tư:
- Xin ông cho biết vợ của ông có bị đau dạo đàng từng cơn không?
Tôi hỏi Hồng và sau đó nói vào ống điện thoại:
- Không có dấu hiệu đau đớn gì hết.
- Vợ ông có bị ra máu ở cửa mình không?
Lại hỏi và lại nói vào ống nghe:
- Không!
Thêm một vài câu hỏi tương tự như vậy nữa, thật là vô tư, cô thư ký cuối cùng nói:
- Xin ông giữ máy, để tôi chuyển những chi tiết này lại cho bác sĩ.
Khoảng chừng một phút sau đó, có giọng đàn ông:
- Tôi là bác sĩ Audst, tôi trực thế cho bác sĩ Harris. Xin ông hãy chở vợ ông đến bệnh viện thành phố, lên lầu 3, khu vực Bảo Sanh viện ngay bây giờ.
- Bác sĩ Audst. Tôi có một câu hỏi ngắn: Có cách nào để chận bớt không cho nước ối chảy ra?
- Không có cách nào hết. Thôi ông đưa vợ đến bệnh viện ngay đi, và theo chỉ dẫn của y tá ở đó mà làm trong khi chờ tôi đến.
Tôi cúp máy. Sau đó phụ Hồng thay quần áo và chộp vội cái túi hành lý để trong nôi em bê Cái túi này gồm những đồ lỉnh kỉnh như quần áo, tả, tất, găng tay cho em bé, mà vợ tôi đã dọn sẵn hồi tuần rồi. Tôi tắt hết đèn đuốc trong nhấ Trước khi đóng cửa, tôi liếc mắt nhìn đồng hồ treo tường. 1 giờ 20 phút sáng.
Tôi dìu nàng ra xe và trực chỉ hướng bệnh viện thành phố mà rú ga. Xe phóng như bay, đèn vàng, đèn đỏ, bảng STOP, bảng YIELD gì tôi cũng vượt láng. Tôi nghe người ta kể rằng khi chở bà đẻ đi sanh mình có cái đặc quyền của xe cứu thương, có nghĩa là có quyền chạy quá tốc độ và vượt đèn đỏ; thậm chí còn có xe cảnh sát chạy phía trước dọn đường. Từ ngày bà xã mang bầu, tôi vẫn mong có được cái diễm phúc này, được có dịp vi phạm luật lệ giao thông mà không bị phạt. Nhưng bây giờ thì cũng như không, bây giờ là lúc nửa đêm về sáng, đường xá vắng tanh, không cần chở vợ đi sanh mà cứ chạy thả ga cũng không ai bắt, không có ai chứng kiến cảnh tôi đang giật le. Thật là vô tư. Trong suốt đoạn đường từ nhà đến bệnh viện, vợ tôi run lên như cầy sấy, người nàng mồ hôi vã ra như tắm. Nàng không nói lên được lời nào, chỉ thỉnh thoảng nấc lên từng cơn. Tôi phải luôn miệng trấn an nàng:
- Không có việc gì phải sợ. Mình đã chuẩn bị chuyện này xảy ra mà. Có anh bên cạnh, em không lo, hãy bình tĩnh.
Mười phút sau, chúng tôi có mặt ở bệnh viện thành phố. Mặc dù mình đã chuẩn bị tinh thần rất kỹ càng, đã nghiên cứu trước chỗ nào để đậu xe. Có thằng bạn đồng nghiệp cũng mới vừa đưa vợ đi sanh tuần rồi chỉ cho tôi một bãi đáp của bệnh viện có "valet parking", có nghĩa là có người đậu xe giùm cho mình. Nhưng bây giờ thì cũng như không. Thật là vô tư. 1 giờ 30 sáng, chẳng có ma nào để nhờ vầ Tôi đậu xe trước cổng bệnh viện, bật đèn chớp, và chạy ào vào bên trong. Con nhỏ Mỹ đen gác ca đêm đang ngồi ngáp vặt thấy tôi vào nó mở nụ cười ngái ngủ trông thật là vô duyên. Tôi lên tiếng trước:
- Vợ tao bị bể nước ối, sắp đề Khu vực Labor và Delivery ở chỗ nào?
- Mày đến đúng chỗ rồi. Ðể tao dẫn đến đó.
Nói xong nó đứng dậy, đẩy chiếc xe lăn và hướng về phía chiếc xe đang nhá đèn báo hiệu của tôi. Sau khi dìu vợ lên xe, tôi dặn nàng:
- Em đi lên trước. Anh đi kiếm chỗ đậu xe, sẽ lên ngay.
Hồng gật đầu, mím môi lại và không ngớt run rẫy. Tôi đậu xe xong, đón thang máy lên trên lầu số 3, lò mò một hồi rồi cũng đến khu vực L & D. Lên trên này tôi mới thấy quang cảnh thay đổi. Khác với dãy hành lang hoang lạnh ở khắp bệnh viện vào giờ này, khu vực này ồn ào nhộn nhịp với y tá, y công ngồi đấu láo liên hồi. Nhìn thấy tôi đi đến là cả bọn liền chỉ ngay vào phòng số 8. Thật là vô tư. Có lẽ chỉ có hai vợ chồng tôi là dân Á Ðông nên họ nhận ra dễ dàng. Tôi đi vào phòng, thấy một cô y tá khác, tự giới thiệu tên là Sherry, đang lấy cung bà xã, nhưng Hồng run cầm cập có nói năng gì được. Tôi phải trả lời giùm nàng vài câu vắn tắt. Cô y tá đưa cho Hồng chiếc áo choàng của bệnh viện, phủ dài đến mắc cá, xỏ ngược từ trước ra sau, có 2 sợi dây thắt đằng sau lưng. Tôi vào phòng tắm phụ Hồng thoát y và mặc áo bệnh viện vào. Nước ối vẫn âm ĩ chảy, ướt đẫm chiếc dép mà Hồng đang mang.
Trở ra ngoài, lại thêm một màn cật vấn nữa. Ðại khái là hôm nay có đi cầu được không, có uống thuốc bổ đều đặn không, có dị ứng thuốc thang gì không, có muốn dùng tê mê gì trong khi đẻ không, trong lịch sử gia đình có ai bị cao máu không, vân vân và vân vân. Sau đó Sherry lấy máu, đo áp huyết, chẩn mạch và đo nhiệt độ cơ thể, trước khi đeo găng tay vào để khám xem xương chậu của Hồng đã nở được bao nhiêu rồi. Sherry lắc đầu, bảo:
- Chỉ mới mở được có 1 cm thôi. Phải đủ 10 cm mới được phép đẻ, thôi xin mời bà nằm lên trên đây trong khi chờ đợi quyết định của bác sĩ Audst.
Sau đó Sherry bắt tay vào làm việc. Cô cho Hồng đeo hai sợi dây nịt quanh phần bụng; một để đo nhịp tim em bé và một để đo mức độ co bóp của tử cung trong quá trình làm cho xương chậu giãn nở.
Khoảng chừng vài phút sau, bác sĩ Audst xuất hiện. Nếu không biết trước đây là bác sĩ, gặp ngoài đường tôi dám tưởng đây là một tên cu-li lắm; bác sĩ gì mà bình dân quá, mặc quần jean áo thun. Nhìn khuôn mặt ngái ngủ của bác sĩ Audst với đôi mắt nổi gân đỏ làm tôi không khỏi ngượng ngùng. Tôi lên tiếng xin lỗi:
- Xin lỗi đã phá giấc ngủ của bác sĩ.
Bác sĩ Audst:
- Anh không phải lo lắng về chuyện đó, đây là bổn phận lương y của tôi.
Sau đó bác sĩ Audst quay qua thì thầm vài câu với Sherry trước khi rời phòng. Sherry cho chúng tôi hay:
- Bác sĩ nói đợi xương chậu của cô nở đủ 10 phân rồi mới gọi ổng. Từ 1 phân lên đến 10 phân là cả một quá trình dài, nhưng ai mà biết được, có nhiều bà bị bể ối, xương chậu nở nhanh lắm, nhưng cũng có nhiều người đợi cả mười mấy tiếng đồng hồ.
"Trời!" Tôi nghĩ thầm, "mười mấy tiếng đồng hồ thì còn gì nước ối để mà rặn đẻ".
Sherry nhún vai, nói tiếp:
- Tuy nhiên chúng tôi muốn phải giải quyết trong vòng 24 tiếng đồng hồ, phải mang em bé ra trước 24 tiếng, nếu không nước ối cạn láng, có thể nguy hiểm đến sinh mạng người mẹ và đứa nhồ Bây giờ chúng ta chỉ còn cách là chờ mà thôi. Tôi sẽ trở lại trong vòng 30 phút xem bà nhà có nở ra được chút nào không.
Nói rồi Sherry bước ra khỏi phòng. Còn lại mình tôi với Hồng. Tôi linh cảm có thể lần này Hồng sẽ sinh khó. Một ngày dài đang chờ đợi chúng tôi. Thật là vô tư. Ba mươi phút sau, Sherry trở lại, đeo găng tay, thọc tới thọc lui và lắc đầu. Nàng nói:
- Cũng vẫn vậy. Chắc chúng tôi phải bơm thuốc dục vào trong máu của bà, để giúp cho tử cung co bóp nhanh hơn, để xương chậu nở nhanh hơn. Làm chuyện này có thể bà sẽ bị đau, bà có muốn dùng trợ lực tê mê để giảm đau không?
Vợ tôi bặm miệng, lắc đầu:
- Không cần thuốc thang gì cầ Cô cứ bơm thuốc dục cho tôi. Tôi chịu đựng được.
Và rồi vợ tôi đã chịu quằn quại chịu đựng cho đến gần 6 giờ sáng, lúc đó đã gần hết giờ trực của Sherry. Cô y tá đi vào chào chúng tôi:
- Ðã hết giờ làm việc của tôi, xương chậu của bà chỉ mới nở ra chừng 2 phân thôi. Tôi đã hy vọng có thể phụ bà hạ sanh trước 7 giờ sáng, nhưng không được. Thôi để tôi kiếm một y tá khác thay thế.
Sherry lại rời phòng. Tôi vén màn nhìn ra bên ngoài. Bình minh đang lên. Ðêm trôi qua nhanh quâ Một ngày dài trước mặt đang đón chờ chúng tôi. Một lát sau, một cô y tá khác bước vào, tự giới thiệu tên là Christine, sẽ săn sóc vợ tôi đề Christine nói:
- Tôi có nhiệm vụ chăm lo cho cô cho hết ca làm việc của tôi, là 7 giờ tối nay. Hy vọng cô sẽ sanh trước giờ tôi ra về.
Christine nhìn vô bình thuốc dục, bấm nút tăng liều lượng, làm vợ tôi co rướn người lại trong đớn đau. Christine nói:
- Tôi ghét nhìn thấy cô chịu đựng đau đớn. Nhưng cần phải cho xương chậu nở nhanh hơn để mang đứa bé ra càng sớm càng tốt. Cô có chắc là cô không cần thuốc giảm đau không.
Vợ tôi vẫn gan lì bặm môi:
- Không cần thuốc trợ lực!
Đợi cô y tá ra khỏi phòng, tôi hỏi Hồng tại sao không cần thuốc, tại sao phải chịu đựng đau đớn một cách không cần thiết, thì nàng trả lời:
- Em nghe nói mấy loại thuốc này có tác hại về sau, làm người ta bị nhức đầu kinh niên.
- Em lầm rồi, làm gì cô Theo anh biết thì mấy loại thuốc này rất là an toàn. Anh không muốn nhìn thấy em quặn thắt từng cơn. Thôi để anh nhờ cô ta tiêm thuốc cho em đỡ đau.
Cô y tá tiêm một bi thuốc Demerol vào trong máu của Hồng. Cô nói là đây không phải là Epidural, loại thuốc làm tê buốt các cơ bắp để dễ đẻ, đây chỉ là thuốc làm cho Hồng cảm thấy buồn ngủ vì thế bớt cảm thấy đau. Ðúng vậy, sau khi được bơm vào một ống chích xong là thấy Hồng lăn quay ra ngủ, thỉnh thoảng nàng chỉ rướn người và nhăn mặt khi biểu thị chỉ độ co bóp đang trên đà đi lên. Thật là vô tư.
1 giờ trưa ngày thứ Hai:
Như thế là chúng tôi đã trãi qua đúng 12 tiếng đồng hồ, từ lúc nước ối bị bể. Từng cơn co bóp vẫn tiếp tục, và thuốc giảm đau bắt đầu giảm dần. Trên máy đo đặt cạnh giường Hồng đang nằm, nhịp tim em bé vẫn đập bình thường ở mức độ trung bình 150 nhịp một phút, và từng cơn co giật vẫn trồi lên sụt xuống theo một chu kỳ đều đặn. Christine thỉnh thoảng vào thăm và hỏi những câu hỏi xã giao:
- Ðây là con đầu lòng của ông bà?
Vợ tôi thều thào:
- Vâng, đúng vậy!
- Ông bà biết sẽ sanh trai hay gái chưa?
- Chưa!
- Tôi đoán chắc là con gái, dựa theo nhịp đập hơi nhanh. Nhưng ai mà biết được, tôi vẫn đoán có đúng có sai.
Tôi góp chuyện một cách mệt mỏi:
- Tôi dám chắc cô đoán trúng với xác suất là 50 phần trăm.
Christine bật cười khanh khách. Thật là vô tư. Rồi cô ta lại thò tay vô trong vợ tôi để khám, sau đó lắc đầu:
- Chỉ vẫn có 2 phân, không nở thêm được tí nào.
Cả tôi và Hồng đều thất vọng vô cùng. Gần chục giờ đồng hồ quằn quại đau đớn dưới ảnh hưởng thuốc dục chẳng mang lại được tích sự gì. Thật là vô tư. Christine nói trấn an:
- Tuy nhiên bà cũng đừng nên nản chí. Tôi đã chứng kiến có nhiều bà đẻ phải phí mất mười mấy tiếng đồng hồ để đi từ 2 đến 3 phân, sau đó chỉ mất nửa tiếng để đi đến 10 phân. Thôi bây giờ để tôi bơm thêm thuốc cho bà đỡ đau.
Rồi Christine quay sang tôi:
- Còn ông cũng phải đi kiếm cái gì ăn dằn bụng đi chớ!
Suốt từ 1 giờ sáng đến giờ vì lo lắng cho vợ tôi quên mất cơn đói, giờ nghe Christine nhắc tự nhiên bao tử tôi nổi trận lôi đình, sôi lên ùng ục. Thật là vô tư. Tôi nói nhỏ với Hồng:
- Em nằm đây nghỉ. Anh xuống căng-tin mua đồ ăn, sẽ trở lại ngay!
Nàng nắm lấy tay tôi:
- Trở lên nhanh anh nhé!
Tôi xuống dưới, mua một cái bánh hamburger, gói french fries và ly nước coke; ba món ăn trưa căn bản của bọn Mỹ. Trở lên thì thấy Hồng đã ngủ, miệng ú ớ không ra lời lẽ rõ ràng, bụng thỉnh thoảng quặn lên từng cơn theo làn sóng biểu thị. Tôi ăn xong, nằm xuống chiếc ghế dài bên cạnh, tranh thủ một giấc ngủ vội. Thật là vô tư.
Và suốt từ lúc đó cho đến 6 giờ chiều, sắp hết giờ trực phiên của Christine mà tình trạng vợ tôi cũng chẳng khả quan lên được chút nào. Christine sau khi mò vào trong khám, lại lắc đầu:
- Chỉ có từ 2 đến 3 phân mà thôi. Chúng ta không thể chần chờ thêm nữa được, để tôi bàn lại với bác sĩ Audst.
Lát sau, Christine trở lại với bản tin từ bác sĩ Audst:
- Bác sĩ muốn chính tay khám cô. Nếu vẫn không có gì thay đổi thì chúng tôi phải tạo ra sự thay đổi.
Tôi và Hồng hiểu ngầm sự thay đổi đó chính là đưa lên bàn mổ. Mổ xẻ là chuyện bất đắc dĩ không ai muốn. Hồng nhắm mắt lại, lâm râm khấn vái. Thật là vô tư. Vị bác sĩ sản phụ khoa đeo găng tay vào, khám xét một cách nghề nghiệp, rồi kết luận:
- Chúng ta chưa cần tạo ra cái sự thay đổi đó, xương chậu đã nở ra gần 4 phân.
Mọi người trong phòng thở cái phào nhẹ nhỏm. Thế là thoát nạn. Thật là vô tư. Sau đó bác sĩ Audst ra lệnh cho bác sĩ gây mê bơm thuốc tê epidural vào dọc xương sống của Hồng, để giảm đau, thay vì dùng thuốc mê demerol.
Giờ trực của Christine đã mãn. Kế đến là một cô y tá khác, tên là Christy. Thật ra thì chúng tôi cũng đã gặp qua Christy này rồi, hồi Sherry trực sáng sớm này, nàng thỉnh thoảng vào giúp Sherry tiêm ống dẫn nước biển, sửa lại hệ thống biểu thị. Christy nhìn hai vợ chồng tôi, nói:
- Ông bà vẫn còn ở đây sao?
Nàng mỉm cười thật có duyên, nói tiếp:
- Nhưng bà khỏi phải lo, nhất định là sẽ đẻ nội trong tối nay, bằng cách này hay cách khác.
Rồi sau đó màn chờ đợi lại tiếp tục. Kim đồng hồ tiếp tục nhích. Vùng xương chậu của Hồng tiếp tục nở, từng phân một. Mãi cho đến gần 11 giờ đêm thì nàng mới nở đủ 10 phần cần thiết để đưa em bé ra. Bác sĩ Audst bước vào phòng, nói nhỏ với Christy:
- Khi nào đầu đứa bé vừa ló ra thì cô báo cho tôi hay.
Christy:
- Thưa vâng, tôi sẽ gọi bác sĩ ngay.
Lúc đó Hồng bấm nhẹ tay tôi, nàng nói khẽ:
- Chắc em không đủ sức rặn đâu anh ơi.
- Sao em lại nói vậy. Chưa gì mà đã mang tinh thần chủ bại rồi, em phải nghĩ tích cực. Anh tin là em rặn được.
Hai tiếng đồng hồ sau đó là hai tiếng đồng hồ dài nhất trong đời tôi. Cứ ở mỗi cơn đau co bóp là tôi lại phụ Hồng cong người lên để rặn. Nhưng hỡi ôi, nàng đâu còn để sức nữa mà để rặn; gần 24 tiếng đồng hồ không ăn uống, chỉ tiêm có nước biển, lại bị thuốc dục hành hạ trong suốt khoảng thời gian này. Giờ thì Hồng chỉ còn đủ sức để rặn 3 hơi ngắn từng lúc một. Nàng chỉ đủ hơi đưa đầu đứa bé nhú ra chút xíu, hết hơi nó lại tọt vô trong trở lại. Thật là vô tư. Christy an ủi:
- Tôi biết nỗi khổ của bà, phải lâm bồn (having labor) trong ngày "labor day", thật là mỉa mai.
Tôi bắt chước cô y tá, luôn miệng động viên vợ. Có lúc Hồng chịu hết nỗi, nàng bực quá, quay qua tôi mà quát:
- Anh chỉ giỏi nói không thôi. Có giỏi thì lên đây mà đẻ. Tôi chịu thua rồi đó.
Nàng nói với Christy:
- Mấy người hãy lấy cái bào thai này ra giùm tôi đi, tôi kiệt sức rồi. Bắt tôi rặn nữa chắc tôi xỉu mất.
Christy giải thích:
- Chỉ còn một cách khác là mổ mà thôi.
- Ừa, mổ hay sao cũng được, miễn đừng bắt tôi rặn.
Tôi dọa vợ:
- Tại sao em lại muốn mổ, chả khác nào có người đâm vào bụng mình một nhát dao.
Christy thêm vô:
- Mổ thì dễ thôi, nhưng bà sẽ mất nhiều thời giờ để hồi phục.
- Sao cũng được, nhất định là không rặn nữa.
Thấy Hồng cương quyết quá, Christy đi ra bàn với bác sĩ Audst. Lát sau ông vào phòng, giải thích cho vợ chồng tôi nghe:
- Chúng ta đã cho đứa bé này đầy đủ cơ hội để chui ra một cách bình thường nhưng không thành công, bây giờ chỉ còn một cách là giải phẫu.
Bình thường thì vợ tôi rất sợ nghe hai chữ giải phẫu, nhưng giờ phút này nhìn nàng tỉnh queo. Thế mới biết là nàng sợ rặn đẻ đến mức nào. Thật là vô tư. Sau đó nhà thương đưa cho tôi bộ đồng phục màu xanh nước biển, bao gồm bộ quần áo vải mỏng, chiếc mũ giấy và đồ bọc giầy cũng bằng giấy.
12 giờ 30 đêm, vừa bước sang ngày thứ Ba:
Lúc tôi bước vào phòng mổ thì tất cả đã sẵn sàng. Tôi ngồi xuống ghế, đầu kề đầu v Tôi nắm chặt tay nàng an ủi. Hồng run lên từng cơn cầm cập, không phải vì sợ cũng không phải vì lạnh, mà tại vì nàng bị ảnh hưởng của thuốc tê mê. Từ phần ngực của Hồng trở xuống được phủ bằng một tấm giấy mỏng. Hồng nói nhỏ vào tai tôi:
- Ðứa bé này lì lợm thật! Mẹ rặn muốn ná thở mà nó không chịu chui ra. Ra đây thế nào cũng phải phát cho nó một phát thật mạnh vào mông.
Bác sĩ Audst và hai y công phụ tá, mặt mũi bịt kín chỉ chừa 2 con mắt, đang bắt tay vào việc. Và chỉ chừng 10 phút sau đó là nghe thấy tiếng oe oe cất lên, phá tan bầu không khí yên lặng, căng thẳng. Thật là vô tư. Vị bác sĩ gây mê la lớn lên:
- Con gái. Chúc mừng ông bà có được một bé gái xinh đẹp.
Tôi nhìn đồng hồ. Lúc đó khoảng 1 giờ lẻ 2 phút. Tôi vội tạm rời vợ, chạy sang xem dung nhan trưởng nữ của mình. Khác với những hình ảnh mà tôi từng thấy trên ti-vi, con gái của tôi không có ướt tèm lem; có lẽ vì nước ối sau 24 tiếng đã cạn sạch. Thêm nữa nét mặt của nó cũng không đến nỗi nhăn nhó, méo mó như tôi thấy ở các trẻ sơ sinh khác, ngược lại khuôn mặt nó rất rõ ràng, rất có nét. Thật là vô tư. Tôi trở lại bên vợ, và nghe nàng hỏi:
- Nó sao anh?
- Dễ thương lắm, em ạ!
- Con nhỏ cà chớn, làm khổ mẹ.
Vị bác sĩ chuyên lo cho các trẻ sơ sinh mang nó đến cho vợ chồng tôi xem qua trước khi ông mang nó vào trong phòng kiếng để cân và đo chiều dài và để ở đó để dưỡng sinh vài tiếng đồng hồ. Hồng nhướn người lên nhìn con gái. Sau khi chắc ăn là con của mình đầy đủ, trọn vẹn nàng mới yên tâm nằm xuống trở lại. Thật là vô tư.
Sau đó Hồng được đưa vào phòng hồi sức, ở lại đó 1 tiếng đồng hồ có y tá theo dõi, trước khi được đưa vào phòng riêng của bảo sanh viện. Từ lúc Hồng vừa bị bể nước ối tôi liên tục báo cáo cho gia đình nàng được rõ những tình huống đang diễn tiến, ngoại trừ lúc nàng rặn đẻ và được đưa vào phòng mổ. Tất cả diễn ra nhanh quá tôi không kịp gọi về nhà. Tôi biết ở nhà ai cũng đang bồn chồn lo lắng. Không thể chờ đợi đến khi về phòng, từ trong phòng hồi sức tôi mượn điện thoại gọi về nhà báo tin là nàng đã sanh được trưởng nữ, mẹ tròn con vuông. Tôi có thể cảm nhận được tiếng thở phào từ bên kia đầu dây. Thật là vô tư.
Tôi vừa buông điện thoại xuống thì bác sĩ Audst đi đến bắt tay chúc mừng:
- Chúc mừng ông có được một bé gái kháu khỉnh. Tôi vừa có thông tin từ phòng giữ trẻ sơ sinh đây. Con gái ông cân nặng 6 pounds 2 ounces và dài 20.5 inches.
Mấy cô y tá trong phòng nghe vậy ai cũng trầm trồ khen đứa bé này thuộc loại cao ráo, vì chiều dài của trẻ sơ sinh Mỹ là từ 18 đến 20 inches.
Tôi vừa báo với ông bà nhạc là "vợ tròn con vuông". Sự thật thì con vuông, nhưng mẹ thì chưa có tròn, phải nằm lại bệnh viện để hồi phục hoàn toàn. Sự hồi phục này kéo dài thêm 2 ngày nữa. Trong suốt khoảng thời gian đó tôi nào có chợp mắt được gì, vì phải chăm nom cho vợ, hơn nữa chúng tôi có được để yên bao giờ. Hết bà y tá này đến cô y tá kia thay phiên nhau vào phòng khám tới khám lui. Ðôi lúc tôi phải lên tiếng trả lời giùm, vì vợ tôi nhiều lúc mê man do ảnh hưởng của thuốc gây mê. Thật là vô tư.
11 giờ trưa ngày thứ Năm:
Chúng tôi rời bệnh viện với con gái Mỹ Trúc. Gọi là Trúc vì nó dài và mảnh khảnh như một thanh trúc, còn Mỹ vừa có nghĩa là mỹ miều vừa có nghĩa là sanh ở Mỹ. Thật là vô tư. Trên đường lái xe về nhà, mặc dù mệt mỏi rã rời nhưng tôi rất vui, mặc dù chỉ chợp mắt được trên dưới 10 tiếng đồng hồ trong suốt 3 ngày trời vừa qua nhưng tôi chưa cảm thấy buồn ngủ.
Tôi tưởng đã thoát nạn. Tôi nghĩ rằng sóng gió đã qua, sự mất ngủ cần thiết đã dứt. Chắc hẳn những ngày sắp tới tôi sẽ được ngủ bù, thẳng cánh cò bay. Và tôi biết rằng tôi đã lầm to. Sự mất ngủ chưa chấm dứt. Tôi chỉ mới thoát có màn một mà thôi.
Màn hai bắt đầu.
Thật là vô tư.
Bùi Thanh Liêm
Tháng 9, 1996