vhnt, số 219
23 August 1996
Trong số này:
thư vhnt..................................................................PCL
T h ơ :
1 - Sớm mai ...........................................................Chinh
2 - Khi mùa xuân qua rồi ..............................................TTH
3 - Gần ................................................Trần Nguyên Thảo
4 - Ru em ....................................................Mimosa Ngọc Nga
5 - Bài từ trần ta ......................................Từ Ðông Nghị
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
6 - Diễn đàn ô-thước: Giới thiệu thảo luận về
"Trần Mạnh Hảo phê bình Phạm Thị Hoài" ...........Phùng Nguyễn
7 - Văn chương, hay là một cách ứng xử văn hóa .............................Trần Mạnh Hảo
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
8 - Ðoản khúc 8: Phạm Ðỗ Trường An .........................Cỏ Nhớ
9 - Vòng tay đàn bà ......................................Bùi Thanh Liêm
Một tuần lễ làm việc sắp qua, một cuối tuần nghỉ ngơi đang chờ đợi. Gửi đến bạn đọc vhnt #219 gồm những sáng tác tiêu biểu của các cây bút đóng góp cho nhóm vhnt, để làm "cái đọc" cho ngày thứ sáu thư thả, hoặc cho những ngày cuối tuần sắp tới.
vhnt số này gửi đến bạn đọc một đề tài văn học đang được diễn đàn Ô-Thước bàn thảo sôi nổi: "văn chương, hay là một cách ứng xử văn hóa", bài viết của Trần Mạnh Hảo phê bình nhà văn Phạm Thị Hoài về tập truyện ngắn "Man Nương". Bài trích đăng trong mục "diễn đàn văn học" số này do anh Phùng Nguyễn đưa ra đề tài và đặt những câu hỏi gợi ý cho mọi người đóng góp. Chủ đề bàn thảo này không giới hạn trong diễn đàn o-thuoc (forum của nhóm thân hữu và ban chủ trương vhnt), mà được đăng trên vhnt để tất cả bạn đọc có thể tham gia góp ý thảo luận cho thêm phần sinh động, phong phú, dồi dào và đa diện từ nhiều cái nhìn của độc giả văn học. Bạn đọc có thể dựa theo những câu hỏi được đề ra, hoặc có thể phê bình, phân tích theo cảm nhận riêng. Rất mong nhận được đóng góp ý kiến của bạn đọc về chủ đề này, hoặc bất cứ chủ đề nào trong mục "Diễn Ðàn Văn Học" đăng trên các số vhnt.
Tuyển tập VHNT đang in, dự trù sẽ xong vào cuối tháng 8, và sẽ gửi ngay đến những độc giả đã đặt trước. Ðây là một ấn phẩm khá phong phú và đặc biệt biểu trưng cho sinh hoạt văn học trên internet, gồm nhiều bài vở đặc sắc và giá trị. Tuyển tập sẽ làm bạn ưng ý với phẩm chất nội dung và hình thức. Rất mong sự ủng hộ của bạn đọc, xin hãy order một bản để lưu niệm, hoặc giới thiệu với độc giả ngoài liên mạng về một mảng văn học lẻ loi nhưng trù phú đáng lưu tâm trên internet. Xin liên lạc với thủ quĩ Trần Thái Vân ở địa chỉ email để đặt mua ấn phẩm.
Chúc bạn đọc một ngày thứ sáu thanh thản, và một cuối tuần nhiều niềm vui
thân ái,
PCL/vhnt
Sớm Mai
(bài thơ của L.H)
Sớm mai. Bên cửa sổ phòng trọ, tôi ngồi nhìn ra ngoài trời. Thành phố buổi sáng nhiều tiếng động. Những tiếng động thường làm cuộc sống buồn. Tôi im lặng và tôi cũng buồn.
Sớm mai. Mây xa như những phiến đá trắng treo lơ lửng. 99.9 độ F. Mặt trời đỏ rực lên sau cao ốc. (Những cao ốc cũ kỹ và loang lổ). Tôi chợt nhớ đến dăm ước vọng của ngày xưa. Những ước vọng cũng đã lên cao. Cũng đã đỏ rực. Rồi tôi ngồi đây không có ai. Khói thuốc cay.
Trong bóng tối chúng ta đều sợ hãi. Và sớm mai, đã đánh rớt chiêm bao giữa nền đời. Những tiếng động thường làm cuộc sống buồn. Tôi ước gì trời đổ xuống một cơn mưa.
Sớm mai. Sớm mai mùa hạ mòn mỏi đợi. Sớm mai không có em không mưa sương tóc xanh ướt. Sớm mai chỉ còn lại nỗi nhớ trống theo khói lên mắt đăm đăm. Sớm mai không có em tha thướt váy hoa xỏa xuống ngón chân hồng đọng những giọt nước trinh nguyên. Tôi hai tay ôm lấy mùa hạ. Ngọn tóc xuống bàn tay. Xuống bàn tay. Như nỗi buồn cứ rơi xuống mãi. Em ra đi. Em đi như thời gian vô tận. Gió.
Sớm mai tôi ngồi nhìn cuộc đời và làm những bài thơ ngắn. (Những bài thơ hình như lúc nào cũng buồn buồn). Tiếng người phẫn nộ dưới phố phường. Những đãi lọc của thế giới bên ngoài. Ai đó vừa nằm xuống. Tôi giật mình bước xuống đường tìm lại những giấc mơ bỏ lỡ.
Tôi đứng giữa đời. Em đứng giữa đời. Mãi vẫy nhau.
Không thấy nhau .
Chinh
21/8
Khi Mùa Xuân Qua Rồi
Nhớ em thường khóc khi mỗi lần sinh nhật
Lại nhớ về ba mẹ
Và nhớ mùa xuân đã qua rồi sau cánh cửa
Ðêm. Gió lùa vào cuốn bức rèm che
Thổi tắt ngọn nến đang tỏ mặt bạn bè
Ký ức hiện về... Tháng năm nào sầu muộn
Ðêm nay muốn đến nhà gọi tên em
Vẫn biết mùa xuân qua rồi sau cánh cửa
Mùa mưa đẫm ướt tàn lá
Làm kẻ lữ hành đi qua
Trú lại
Những hạt mưa vỡ trên nền nhà
Hay những giọt nướt mắt em
Vỡ
Khi mùa xuân qua rồi sau cánh cửa
Mùa mưa đẫm ướt tàn lá
Khi kẻ lữ hành đi xa.
1986
TTH
Gần...
Gần nhau mà sao chẳng gặp nhau
Thấy xa như cách tận giang đầu
Chim kêu, quạ bắc cầu Ô Thước
Một ngày chờ nối mảnh tình ngâu
Gần thôi mà sao chỉ dăm câu
Nói thêm, sợ mai mốt lòng đau
Chắt chiu nuôi nấng tình thơ dại
Ðể rồi lòng ngại sợ thương nhau
Gần mà xa cách đến thế sao?
Sợ vướng chân nhau, có phải nào
Tim nhau đã vướng, còn chi nữa
Thì còn đâu sợ vướng đời nhau ...
trần nguyên thảo
8/07/96
Ru Em
Ðêm về bao phủ quanh đây
Em tôi, giấc ngủ cỏ cây ngoan hiền
Câu thơ còn vẫn lưng chừng
Nhẹ nhàng rơi rụng, nhịp từng vần trôi
Gió ơi khẽ nhé thu sang
Ru em say giấc mộng vàng lửng lơ
Trăng gieo dịu ánh lung linh
Ðể êm đưa gót người tình vào tim
Em...
Ðêm về bỗng thấy trắng tinh
Bóng tôi quanh quẩn một mình đơn côi
Nếm cơn lòng trống lặng thinh
Hắt hiu cung điệu thơ tình lãng du?
Này em, có những vì sao
Long lanh tinh thể trên cao ngút ngàn
Mắt em là ánh sao nào
Một đêm hiền dịu soi vào hồn tôi
Thôi em, yên giấc ngủ ngoan
Sáng mai ngày mới mở toang tấm lòng
Dìu em vấp vững trên đường
Dốc đời leo mệt, kiên cường nhé em
Mimosa-Ngọc Nga
August 21, 1996
bài từ trần ta
em xưa với những trò đùa rất lạ
bịt mắt nhau, chơi cút bắt, chạy vòng
đem tim mình thả xuống một giòng sông
theo trăm nhánh, xem bao giờ trở lại
lên đỉnh nhớ cùng nhảy dây tình ái
những vai trò trong thần thoại xa xưa
cố vớt hoài bong bóng nước trong mưa
và thích thú khi lọc lừa nhau được
ta nào biết con sông đời chảy ngược
một thoáng quay về, tình đã xa bay
em bên kia bờ, ta đứng bên nay
nhìn nhau xót thương ngày qua rất vội
thì nhảy xuống sông, trầm mình rửa tội
thì cũng qua đời bóng tối trong nhau
nhẹ gót em về trên những niềm đau
tay nâng chiếc lá khô ngày thơ dại
thôi, em cứ hồn nhiên ngày con gái
đợi hôm nào sông lại trở về tim
trên nhánh đời, ta sẽ đứng, loài chim
đau tiếng hót, lao mình vào vách đá
và em vẫn những trò đùa rất lạ
nhưng lần nầy sẽ chỉ mỗi mình em
từ đông nghị
Chào buổi sáng, các hội viên của Ô-Thước,
Xin gởi đến các bạn bài phê bình của Trần Mạnh Hảo (TMH) về tập truyện "Man Nương" của Phạm thị Hoài (PTH). Bài viết được gởi lên SCV từ Germany (theo như cái path dưới đây), và lời nhắn của người gởi đến bạn đọc "Ðọc bài này sẽ hiểu thêm về PTH" làm cho tôi... hơi bị hiểu thêm về người gởi :)
Ðây là một bài phê bình rất lý thú của TMH, tác giả của "Ly Thân" mà anh Trần Hoài Thư đã có lần đề cập trong bài viết về "Nỗi Buồn Chiến Tranh" của Bảo Ninh. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp của các bạn để o-thuoc trở lại với chức năng chính yếu của nó: một diễn đàn văn học nghệ thuật.
Xin gởi đến các bạn một vài suy nghĩ dưới dạng câu hỏi nảy sinh ra sau khi đọc "Văn Chương, hay là Một Cách Ứng Xử Văn Hóa" của TMH:
1. Văn chương tự nó có mang một sứ mạng thiêng liêng nào không? Theo TMH, "văn học là một phương cách hy vọng vào một thế giới tốt đẹp hơn, nhân ái hơn, và bao dung hơn"
2. Nên hay không nên phê phán tác giả dựa vào tác phẩm của họ? TMH cho rằng "Nhân vật không chỉ còn là phân thân, mà chính là hoá_thân của tác giả, là người lĩnh xướng và phát ngôn viên của nhà văn."
3. Khi cho rằng tập truyện Man Nương, "ngoài khả năng khinh rẻ con người nói chung ra, còn có một khả năng khác cũng gần như vô tận là thái độ coi thường, thậm chí mạ lỵ người Việt Nam chúng ta nữa," liệu TMH đã đứng ngay ngắn trên quan điểm văn học để phê phán tác phẩm này?
4. Trong tác phẩm văn học, thế nào là "tình dục thẩm mỹ hướng thượng" [chữ của TMH], và thế nào là tình dục phơi bày dưới "trạng thái ức chế của những khuynh hướng
(refoulement des tendences)" [lại chữ của TMH]. Và "tình dục" trong tác phẩm của PTH có thực là thuộc về khuynh hướng này không?
Tất nhiên những câu hỏi trên chỉ có tính cách gợi hứng cho các bạn. Chắc chắn những điểm quan trọng hơn sẽ được các bạn thảo luận sau khi đọc xong bài viết của TMH.
PN.
oOo
VĂN CHƯƠNG, HAY LÀ MỘT CÁCH ỨNG XỬ VĂN HÓA
Ðọc xong tập truyện ngắn "Man Nương" cuả Phạm Thị Hoài, chúng tôi bàng hoàng, thậm chí kinh dị về nguyên nhân ra mắt của ấn phẩm này, lòng bán tín bán nghi cứ đinh ninh rằng nó được in ra bởi một nhà xuất bản của người Việt di tản bên Mỹ. Nhưng buồn thay, nó lại được in ra ở trong nước bởi nhà xuất bản Hà Nội năm 1995, có đề rõ tên người chịu trách nhiệm xuất bản là Ðỗ Minh và người chịu trách nhiệm bản thảo là Hoàng Ngọc Hà thì quả là hết sức giật mình thật. Phạm Thị Hoài, nhà văn của đợt sóng mới được biết đến bởi cuốn tiểu thuyết mini "Thiên Sứ" và một ít truyện ngắn khác. Mặc dù còn khá nhiều dấu vết của sự bắt chước và phương cách làm dáng trí thức, "Thiên Sứ" đã chiếm được cảm tình của người đọc. Chúng tôi quả tình đã hi vọng qúa nhiều vào Phạm Thị Hoài với một lối viết cuốn theo dòng ý thức tự sự, độc thoại nội tâm khá linh hoạt, với một nhãn quan trẻ trung tuy hơi bụi, sẽ có thể làm được một cái gì kha khá cho văn học Việt Nam. Nhưng tình cảm của chúng tôi với "Thiên Sứ" - Phạm Thị Hoài hầu như đã bị thương tổn bởi "Man Nương". Chúng tôi đã thất vọng khi gặp ở đây một Phạm Thị Hoài khác, một Phạm Thị Hoài không thể tưởng tượng được.
Công bằng mà nói, trong mười truyện của "Man Nương" có những truyện khá như "Tiệm May Saì Gòn", "Thực Ðơn Chủ Nhật" và "Những con búp bê của bà cụ". Ở những truyện này, trên những tình huống bi kịch, phi lý, thậm chí nhớp nháp và ghê rợn, khả năng thành tâm và chừng mực của tác giả còn lay động được nỗi lòng người đọc. Ðâu có, không phải không có những đoạn, những trang văn hay, những phân tích tâm lý thú vị, những nhận xét sắc sảo và tinh quái, những biếm nhẽ đỏng đảnh và khôi hài đáo để, những triết lý ranh mãnh và sự nổi đóa con trẻ, những cảm động nhợt nhạt và dễ thương. Lối viết của Phạm Thị Hoài là lối viết tự sự trôi theo dòng ý thức và độc thoại nội tâm, lấy thước đo mù mờ của cái tôi để đo đạc một thế giới ẩn ức còn mù mờ hơn nữa có tên là vô thức. Bắt chước lối viết của các nhà văn của chủ nghĩa hiện sinh đã cáo chung trước những năm sáu mươi, truyện của Phạm Thị Hoài hầu như không có nhân vật, hay nói đúng hơn, nhân vật trung tâm, nhân vật chính là cái tôi, là chính tác giả. Do đó, giữa nhà văn và nhân vật hầu như không còn khoảng cách.
Dù đóng vai nhà thơ trên diễn đàn hay một thày A.K. ấm ớ đi tìm chân lý, rốt ráo thái độ và phát ngôn với cuộc đời kia vẫn là của chính Phạm Thị Hoài. Nhân vật không chỉ còn là phân thân, mà chính là hoá thân của tác giả, là người lĩnh xướng và phát ngôn viên của nhà văn. Một số truyện của Phạm Thị Hoài vẫn còn ghi rõ dấu vết thô thiển của sự bắt chước như " Thực đơn ngày chủ nhật" là giọng điệu của Nguyễn Huy Thiệp, "Những con búp bê của bà cụ" và " Một anh hùng" tràn ngập chất Máckét, "Truyện thày A.K. kẻ sĩ Hà Thành" như sao chép lại cách viết của Kafka và của Cesvantes trong Don Quichotté ... "Man Nương" như một hồi ức , một nhật ký tâm hồn, một phản ứng xã hội, một phép ứng xử của tác giả với thế giới. Vậy, chúng ta cùng nhau khảo sát xem cái thế giới Phạm Thị Hoài mang đến cho chúng ta trong "Man Nương" có còn là thế giới "Thiên Sứ"? Vâng, văn học - hành động hướng thiện của con người, có thể ra đi từ thế giới của qủy sứ nhưng là để trở về thế giới thiên sứ chứ không phải ngược lại.
1) "MỘT THẾ GIỚI... XẤU GHÊ GỚM"
Trong truyện ngắn "Nền cộng hoà của nhà thơ", một truyện ngắn thể hiện thái độ bỡn cợt, khinh thị, nhạo báng nền văn học của chúng ta một cách khá ác ý, trang 137, tác giả viết: "Khi cái đẹp được hiểu một cách biện chứng nhất, nó sẽ đương nhiên thống trị thế giới hiện thời, một thế giới mà trong đó thú thực nhìn vào đâu ta cũng thấy xấu ghê gớm". Có thể nói, kết luận này được coi là quan niệm thẩm mỹ của Phạm Thị Hoài, là tư tưởng chủ đạo của "Man Nương". "Cái đẹp được hiểu một cách biện chứng nhất" của tác giả qủa là một cái đẹp mù mờ, nhưng là một cái đẹp chưa có, chưa đến, còn nằm trong khát vọng. Bởi theo tác giả, nó - tức cái đẹp hư vô kia "sẽ đương nhiên thống trị thế giới hiện thời", nghĩa là nó còn ở thì tương lai. Còn với cái thế giới đang có, đang tồn tại, một thế giới theo kiểu Descartes, tức nhiên là thế giới thu nhỏ "Man Nương", thật là thê thảm vì "nhìn vào đâu ta cũng thấy xấu ghê gớm" (!) Chúng ta hẳn còn nhớ một danh ngôn gần như là một câu kinh thánh của Dostoievski về văn học nghệ thuật: "Cái đẹp sẽ cứu chuộc thế giới". Ðề tài viết của thiên tài này hầu như toàn về cái ác, cái xấu nhưng là để cứu vớt và tôn vinh cái thiện, cái mỹ. Dù ngay cả trong địa ngục của qủy sứ nơi "Anh em nhà Karamazov", "Tội ác và trừng phạt" hoặc "Lũ người qủy ám"..., bao giờ Dostoievski cũng ráng lượm lặt, tìm kiếm, hi vọng, quằn quại trong nỗi đợi chờ thiên sứ của nhân tính, của cái đẹp hằng sống nơi con người xuất hiện như ngôi sao thành Betlem trong đêm đông xưa. Ngay cả nhà văn Áo gốc Tiệp khắc là Kafka từng vật vã, trôi dạt, ẩm mốc trong một thế giới đã bị rệp hoá, gián hoá, sâu bọ hoá cũng là để truy tìm cái đẹp của thiên sứ trong nhân tính, dù là cuộc đi tìm có lúc hầu như tuyệt vọng, nhưng là thứ tuyệt vọng cao cả, thứ tuyệt vọng của khát vọng đạo đức cùng đường. Nguyễn Du đã bị xã hội đẩy vào thế giới "xấu ghê gớm" là nhà thổ trần gian cùng với nàng Kiềụ Nhưng lạ thay, ở nơi cặn bã của thế giới, thi hào và nàng thơ của mình lại chứa chan lòng thương yêu con người, tìm lại được cái đẹp thiên sứ của trinh bạch ngay trước tượng thần Bạch Mi. Văn học, trên cánh đồng Araphát ngày phán xét chung của lương tri và nhân tính, bao giờ cũng như ngôi sao mọc bên phải loài người.
Văn học, hay là một phương cách hy vọng vào một thế giới tốt đẹp hơn, nhân aí và bao dung hơn. Nơi, ngay trong lòng thế giới bị qủy ám đi chăng nữa, nhà văn cũng phải chỉ cho con người biết cách phát hiện là thiên sứ Gabriel đến báo tin mừng về sự cứu chuộc của cái đẹp đã xuất hiện. Chỉ có Phạm Thị Hoài trong "Man Nương", như tuyên bố trên của mình, đã đánh mất khả năng thiên sứ bằng việc không còn biết phát hiện ra cái đẹp cuả thế giới. Ðánh mất khả năng khám phá ra cái tốt đẹp của thế giới, cũng có nghĩa Phạm Thị Hoài đã đánh mất thuộc tính quan trọng nhất của văn học vậy. "Một thế giới mà trong đó thú thực nhìn vào đâu ta cũng thấy xấu ghê gớm". "Man Nương" có thể là một minh chứng cho nhận định mang tính thẩm mỹ độc nhất vô nhị trên của tác giầ Phạm Thị Hoài qủa có sở trường về việc dựng lên một thế giới bỉ ổi, lưu manh, dâm đãng, đểu cáng và hèn ha. Con người dưới con mắt của Phạm Thị Hoài chỉ còn là một con vật, một con ruồi libido "bu quanh" một không gian gớm ghiếc: "Cứ thử quan sát họ, dù ở một nhà vệ sinh thu tiền, hay bu quanh một góc tiểu diện khoan khoái ấm cúng giữa phố... đến nhà nào cũng thấy một con đực, và kè kè bên nó một con cái, không rõ có phải của nhau hay không..."(19). "Tôi có đủ nghề nhưng chẳng thạo nghề nào ngoài ăn ngủ với đàn bà và lừa mị vợ"(111). Nhà văn trước hết phải là tông đồ cuả nhân tính, nghĩa là phải biết thương yêu đồng loại, nhưng Phạm Thị Hoài trong tác phẩm này, hầu như chỉ nhằm khinh rẻ, tởm lợm con người, cho họ là khỉ tuốt: "Tôi nghĩ ngợi về sự cẩu thả không thể tin được cuả con người trong cái cách họ im ỉm đóng cửa cãi lộn hay an ủi nhau... họ vén quần đái giữa phố một cách rất khiêu dâm, họ chôm hổm ở khắp mọi nơi như những con khỉ vui sống..."(11). Hãy xem tác giả xỉ nhục và thô bỉ hóa giấc mơ của con người còn tồi tệ hơn con vật ghê tởm nhất: "Anh mỗi ngày tắm một lần mơ một lần. Mơ được mẫu nào gói ngay vào số để quảng ra cửa sổ như gói cứt. Anh đừng có đánh rấm và chịu khó tắt thở là dí mũi vào Thiên Thai, vú chúng nó như bánh dày đùi như giò lụa"(42). Hãy xem tác giả dòi bọ hoá con người trong sự "nhung nhúc" cuả phố phường: "Ðám đông đang nôn nóng thành đạt nhung nhúc trên các đường phố"(158). Con người dưới mắt của Phạm Thị Hoài là một loài vật vô ý thức, thô tục, bẩn thỉu và man rợ: "Mẹ tôi lựa lời can thì dỗi, xuống bếp tè vào nồi nước rau" (67). "Ngồi chồm hổm trên ghế như đi cầu tiêu và xỉa răng như quét chợ, những câu chửi đời phun ra giữa hai lần và soàn soạt thối không chịu được, nhưng mẹ bảo, khách đã là thượng đế thì thế chứ bĩnh ra đây mình cũng phải nuốt." (69). Các nhân vật của Phạm Thị Hoài ít khi nói được một câu tử tế, toàn là giọng bặm trợn, thô bỉ, đầu đường xó chợ:" Ngoài miệng thì chị chị em em, tấm bánh thì chia tấm chồng giấu như mèo giấu cứt." (48). "Chiều cái con tiều" (44). "Anh xin em anh đéo biết nịnh đầm" (39). "Mẹ kiếp, chỉ thiếu cái mồ hôi hố xí hai ngăn nhà anh là toàn diện" (48). "Một ngày hăm bốn tiếng ăn ngủ đụ ị" (42). "Mũi như ống bô xe máy" (43). "Anh vào ra đếch xin phép, mẹ kiếp như việc xã hội" (46). "Mồ hôi anh như mùi hố xí hai ngăn" (37). "Ðéo chơi với cái đoạn đi giày da Ý" (42)... Chừng như Phạm Thị Hoài rất khoái trá nhìn vào một thế giới " ruồi và cứt ruồi bám như đâụ đen vừng đen" (70), vượt qua cả giới hạn của chủ nghĩa tự nhiên để hóa thành chủ nghĩa dung tục, đã tìm mọi cách thối rữa hóa linh hồn và thể xác đồng loại trong cái nhìn bệnh hoạn, nhẫn tâm, sung sướng nhìn đồng loại bị hủy hoại của thày ẠK., một phát ngôn viên của tác giả: "Người ta suy dinh dưỡng và toét mắt , ngứa ngáy và đau bụng ỉa chảy, lên sởi, động kinh, băng huyết và uốn ván, tê thấp đậu muà, trúng gió, cấm khẩu, giun sán, còi xương, ngớ ngẩn, đau ruột thừa, lên nẹo, cả tin bướu cổ, ung thu, u mê, sâu răng, đi rắt, ho lao, phù thũng, quáng gà, tuyệt tự, thối rữa linh hồn, rụng tóc, mê sảng, bội thực, thối mồm, tảo tinh, táo bón, biếng ăn, sốt rét, thiếu máu, nói nhịu, cười vô cớ, quai bị, tim la, thoái hóa cột sống, sợ ma, chảy máu não, cuồng dâm, sỏi thận, chán đời, bạo phổi, rối loạn kinh nguyệt, ra mồ hôi trộm, teo cơ giả phì đại, ngất, hủi, liệt, mù, câm... (192). Quả "là một thế giới xấu ghê gớm". "Man Nương" đã thành câu lại bộ bệnh hoạn của chứng động kinh phi nhân tính, một bệnh viện khổng lồ của con người, nơi chỉ toàn bệnh nhân mà không có thầy thuốc. Ðồng loại tật nguyền toàn phần kia dưới đôi mắt tàn nhẫn của nhà văn, ngay một người mẹ cũng rất ác với chính con mình: "Người mẹ trả thù cho việc mang thai tôi rất bất đắc dĩ bằng cách cứ tiện tay thì bổ guốc cao gót xuống đầu tôi" (102). Còn người cha thì vô hồn: " Bố thì giống máy hút bụi chưa có trên thị trường" (77). Do vậy, cái nhân vật - xưng tôi - tác giả, đã hơn một lần giận dữ và kinh tởm đồng loại: "... hôi rình ở miệng và nách", ..." nhổ nước miếng mấy trăm lần. Từng cái lông chân của thiên hạ đều khiến tôi giận dữ và kinh tởm" (10,11). Một cái nhìn đen tối về thế giới, một thái độ khinh rẻ và căm ghét con người đến như vậy của Phạm Thị Hoài, phỏng có phải là một thế giới quan bệnh hoạn và một quan niệm thẩm mỹ chối bỏ nhân tính chăng? Với một thế giới đen hơn mực Tàu, không một mẩu đom đóm của lòng trắc ẩn, không một ánh lân tinh của hi vọng như thế, khiến ta có thể gọi "Man Nương" là một tác phẩm văn học được chăng? Bởi, nói như Joan Giô-Nô: "nhà văn là giáo sư của niềm hy vọng", chứ đâu phải là trò chơi bịt mắt bắt dê của cái xấu xa và sự tuyệt vọng trong ao tù của con-người-thú-tính? Rất tiếc một thái độ nhìn đời đen tối và báng bổ như trên, chừng như đang manh nha thành một khuynh hướng trong văn học Việt Nam?
2) MỘT CÁI NHÌN KHÔNG PHẢI VỚI NGƯỜI VIỆT NAM
Nhân vật xưng "tôi-tác giả" có lúc xưng là em, xưng là nhà thơ, xưng là thày ẠK. Khốttabít hâm hâm kia trong "Man Nương", ngoài khả năng khinh rẻ con người nói chung ra, nó còn có một khả năng khác cũng gần như vô tận là thái độ coi thường, thậm chí mạ lỵ người Việt Nam chúng ta nữa. Than ôi, thử tìm dưới gầm trời này xem có một nhà văn, một trí thức chân chính nào lại đi khinh rẻ dân tộc mình, tổ tiên, thậm chí lăng mạ cả tín ngưỡng của ông bà mình như nhân vật xưng tôi trong tác phẩm này của Phạm Thị Hoài hay không? Hãy nghe tác giả nói về đất nước của mình: "Ông ta là một công dân của một đất nước ở vào thời buổi không có gì đáng sĩ diện hết" (30). Những dòng này, tác giả viết vào tháng 12 năm 1990, nghĩa là vào thời hiện nay, có thật đất nước chúng ta là một đất nước "không có gì đáng sĩ diện" như Phạm Thị Hoài đã viết? Trong lịch sử bốn nghìn năm của mình, đất nước chúng ta bao giờ cũng là một đất nước không ngại bất cứ sự hi sinh to lớn nào để giữ sĩ diện quốc gia, giữ sĩ diện nòi giống bằng hàng chục cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đạị Chúng ta sẽ bị lăng nhục ghê gớm khi một buổi sáng nào đó, một kẻ nào đó chợt chỉ vào mặt ta mà chửi rằng ngươi là một kẻ không có sĩ diện. Nhưng chúng ta chả lẽ sẽ không bị lăng nhục hơn khi có ai đó nhân danh bất kỳ thứ qủy quái nào, dám bảo đất nước Việt Nam đau thương và anh hùng của chúng ta là một đất nước "ở thời buổi không có gì đáng sĩ diện hết"(!) Thảo nào, bằng lối tự sự của dòng độc thoại nội tâm, Phạm Thị Hoài ở trang 112 trong truyện "Một anh hùng" đã "nguyền rủa số phận là người Việt Nam của mình" bằng cách viết: "Cũng như mọi người Việt Nam khác, hễ có dịp là tôi nguyền rủa số phận là người Việt Nam của mình, và hễ được hỏi vậy muốn là người gì tôi sẽ nhất định thở dài mà xin làm người Việt". Kinh Thánh có kể chuyện thánh Jop vì bị Chúa thử thách cho tan gia bại sản, cô độc, đói nghèo, cùi hủi, đến mức không chịu đựng được đã phải nguyền rủa ngày sinh của mình, nguyền rủa số phận mình, chứ tuyệt nhiên không dám nguyền rủa số phận là dân Do Thái dòng dõi Abraham của mình. Không có một tác phẩm văn học chân chính nào không tìm cách gắn với cội nguồn dân tộc, gắn với bầu sữa của bà Mẹ Tổ Quốc đã từng nuôi nấng mình, chỉ trừ Phạm Thị Hoài mà thôị Khi đang tâm "nguyền rủa số phận là người Việt Nam của mình", không biết văn học của bà sinh ra để phục vụ một đất nước nào khác vậy? Do đó, chúng ta không lạ gì thái độ rẻ rúng người Việt Nam khi tác giả hàng xén hóa đồng bào mình: "Người Việt Nam chúng ta sinh ra không phải chỉ làm một việc. Mỗi chúng ta là một tài cán tạp nhạp, người sáng giá nhất thì có cái diện mạo và cử chỉ của một ông chủ hàng xén thành đạt" (111). Quả thậm vô lý khi tác giả lên án những ai yêu nước bằng cách "lo việc nước": "Mà lo việc nước lắm lại khổ việc nước nhiều đấy thôi, chứ ích gì. Cái quốc gia này chỉ thực sự chuyển mình khi không còn bất kỳ ai lo đến nó" (111). Chừng như bất cứ biểu hiện gì "lo việc nước" đều dị ứng với tác giả: "Chúng ta không dám cầm bút ghi vào sổ cảm tưởng trong đó một người vô danh viết bằng các bức "nu" trong phòng tranh này cũng láo toét như những khẩu hiệu chính trị" (115). Vì sự nóng giận mất bình tĩnh, tác giả đã kích rồi chửi đổng cả một số tờ báo có đăng tin vụ án và cho rằng báo chí gián tiếp ăn xác chết như những con kên kên chính hiệu: "Ông ấy mặt lặng như phu mộ tải thây người đi dọc phố. Cũng đếch có thây xịn, báo Công an nước đầu, báo Tiền phong nước hai, xào đi xào lại đến báo Ðại đoàn kết thì chết qua tay mấy lần. Tiên sư đời" (43). Ở trang 115, không biết với dụng ý gì, tác giả bịa ra một tòa án binh lố bịch và man rợ, diễu cợt và bôi bác khi xét xử một vụ hủ hóa "thấy da thịt một đen một trắng hổn hển lao vào ngực chính trị viên"... "khi cô ta rên...", bằng cách đốt hai cái quần của đôi nam nữ xem có ngửi thấy mùi "ấy" không: "Trước tòa án quân sự... Người ta quyết định đốt hai chiếc quần, một gabađin quân phục, một phíp đen dân sự, nhờ ngọn gió phán xét. Gần trăm con người nín thở đứng thành vóng tròn quanh giàn thiêu. Ðại úy chính trị viên châm lửa. Khói quân sự và khói dân sự ngập ngừng bốc lên, chừng một gang tay chưa hề có dấu khả nghi, rồi bỗng quyện vào nhau, cuốn quýt, say đắm, được tiếng vải vổ tanh tách khích lệ, thắm thiết dìu nhau tỏa mãi vào không gian vùng quê lành mạnh. Họ vô tội trong chừng một gang tay để rồi ngay sau đó hiển nhiên sa ngã" (115).
"Man Nương" đã chạm vào nơi sâu thẳm nhất là tín ngưỡng của người Việt Nam, bằng cách diễu cợt, xúc xiểm qúa tục tằn rất Phạm Thị Hoài: "Ngày xưa tín ngưỡng trộm, lòng thành nơm nớp như mót ị sợ bị bắt qủa tang bĩnh ra quần. Bây giờ đéo mót người ta cũng đến nhà bắt rặn" (44). Cái cách "mót" và "rặn" ra tín ngưỡng của Phạm Thị Hoài qủa tình đã xúc phạm, thóa mạ các vụ thần linh cuả người Việt. Nữ văn sĩ hiện sinh chủ nghĩa nốc-ao cả vua Hùng và Ðức Thánh Trần Hưng Ðạo, một vị là ông tổ của dân tộc, một vị là anh hùng dân tộc được nhân dân phong thánh: "Tất cả thần thánh đất Việt cùng một số vị ngoại quốc nhưng đã Việt hóa hoàn toàn: nào đức thánh Trần, nào Liễu Hạnh Tản Viên, nào sơn thần thủy quái, chúa Thượng Ngàn, nào các cô các cậu, các vua Hùng... Quan Công... pho nào cũng gôm một cái mặt đuôn đuỗn trai chẳng ra trai, gái chẳng ra gái, và một trang phục phường chèo thậm vô lý"(118). Tác giả sàm sớ, bờm xơm, diễu cợt cả mẹ Âu Cơ: "Tôi để trăm cái trứng hết nhiệm vụ làm tổ tiên" (46). Cao hứng vì cú trừng phạt tổ tiên, hạ bệ thần tượng thần linh một cách ngoạn mục, Phạm Thị Hoài không tha cả một anh hùng dân tộc khác - một nhà văn hóa vĩ đại nhất lịch sử nước nhà là Ðức Nguyễn Trãi: "Ðúng là tôi toàn trích Ức Trai tiên sinh... Cái văn phòng lặng ngồi tẩn mẩn xót xa thương người thì ít thương ta thì nhiều trong các bài thơ thất xủng của ông có thể dạy cho tôi, rằng không nên để mình bị thất sủng như thế (111).à Nội thủ đô, trái tim đất nước, đất nghìn năm văn vật, được rất nhiều văn nhân thi sĩ cổ kim ca ngợi, là niềm tự hào rất đỗi thiêng liêng của mỗi người Việt Nam. Chúng tôi vô cùng kinh ngạc vì Phạm Thị Hoài sao lại căm ghét thành phố này đến thế khi mỗi buổi sáng thức dậy, bà lại đến nỗi lỗ mãng chào nó bằng một phát trung tiện rất hiện sinh của mình: "Phải sống ở Hà Nội, phải hít thở nó đằng mũi, đằng mồm và thấy nó nghèn nghẹn nơi cổ, nó từ từ trườn vào phổi, nó máy trong bụng như thai nhi, nó chạy tê tê xuống hai bắp vế, rồi nó chào thân ái ta, hay ta chào thân ái nó bằng một phát trung tiện nghe như tiếng thở dài" (149). Xin lỗi, tiếng chào Hà Nội kiểu này của Phạm Thị Hoài hẳn là một cách để cám ơn cái thành phố đã qúa hào hiệp và lơ đãng, đến nỗi đã để nhà xuất bản của nó in ra tập truyện có một không hai này chăng? Vâng, một Hà Nội mà trong các trang viết của mình, Phạm Thị Hoài bao giờ cũng biết cách trả ơn nó bằng một gáo nước lạnh hắt thẳng vào mặt: "Hà Nội còn mình tôi với anh trôi trên áo hàng thùng. Một mình tôi với anh. Nhìn xung quanh là cánh đồng chết. Nhìn nhau chán như bà già gặp kẻ cắp. (46). "Bắt cóc nàng mang về Hà Nội thôi, ở đó đầy rẫy những tiên nữ thôn quê thoái hóa biến chất, giọng thì cứ bèn bẹt ra, mông đánh vù vù, hở ra câu nào vô duyên câu ấy" (182).
3) DUNG TỤC CÓ PHẢI LÀ CON ÐƯỜNG CỦA VĂN HỌC?
Viết "Man Nương", chừng như Phạm Thị Hoài muốn lập hội quán libido, nơi những ức chế khao khát được thỏa mãn bằng chữ nghĩa khỏa thân, tha hồ tuôn chảy những hành vi phòng the giữa thanh thiên bạch nhật của người đọc và giấy trắng. Chúng tôi hiểu rằng, tình dục là một hành vi, một ứng xử văn hóa, hơn nữa nó còn là vẻ đẹp, nỗi đam mê không phải chỉ ở hành động truyền giống mà là biểu hiện của nghệ thuật và cái đẹp thiêng liêng hằng sống. Văn hóa tình dục chỉ có thể trở thành thẩm mỹ, thành niềm say mê cao cả và qúy phái khi nó xảy ra đúng nơi, đúng lúc, đúng người, đúng việc dành riêng cho nô Nhưng khi người ta lôi tình dục ra biểu diễn trước đám đông, trước độc giả, nhất là lại núp dưới chiêu bài triết học thì xin lỗi, đó là hành vi không văn hóạ Chúng tôi phần nào thông cảm với Phạm Thị Hoài khi bà hăng say thực hành giáo điều của chủ nghĩa hiện đại là bất chấp thế giới khách quan và những khế ước của nó, bất chấp thuần phong mỹ tục, cứ mặc nhiên lột truồng cái tôi bản năng ra như lột hành lột tỏi, thả lỏng ngòi bút trôi theo dòng vô thức vô bờ bến của những thèm muốn thú tính, mặc xác mọi thứ y phục của đạo đức, cứ thoát y vũ tư tưởng và tâm hồn trong một thế giới không còn thượng đế, không còn lương tri, lòng tốt... Nhưng chúng tôi không thể thông cảm với Phạm Thị Hoài, vì thật ra bà đâu có khả năng theo chủ thuyết văn nghệ nào, dù là những chủ thuyết đã cáo chung, để tha hồ bày trên trang sách những điều tầm thường mang nhãn hiệu hiện sinh với hậu hiện đạị Bà chỉ núp dưới tên tuổi của Sartres và Camus, Kafka và Máckét, Proust và Joycễ. để triết lý ba lăng nhăng dung tục nhằm cân khách rẻ tiền. Không ai cấm và không thể cấm văn học viết về đề tài tình yêu, tình dục. Nhưng là một tình yêu, một tình dục khác mang tính thẩm mỹ hướng thượng, chứ không phải theo lối viết qúa bấy hầy của Phạm Thị Hoài dưới đây. Chúng tôi xin phép trích ra không bình luận, còn những câu, những đoạn qúa quắt qúa, những trang tả chân cách mút và ngoáy lưỡi, cách lột quần áo, cách làm cho nhau hưng phấn khi làm tình... chúng tôi xim miễn trích vì sự tôn trọng độc giả: "Ðầu Nguyễn Thái Học có nhà tắm nước nóng mậu dịch mỗi xuất một sô giang mai". "Tốc hành xong khoản ấy thì dạng háng ra". " Em ơi một phát thôi không vừa rút ra ngay" (38). "Ðúng năm giờ, ngày đang bước vào thời điểm đực cái bắt đầu cuốn lấy nhau... Một lát sau họ lần lượt khỏa thân. Toàn những con ngựa không có người cưỡi, xác thịt chảy buồn bả như suối" (35). "Phụ cấp năm phút nhòm chay từ dưói lên, tôi cứ váy rộng đứng chênh vênh trên ghế treo hàng là hồn vía thằng cha sà xuống cống. Mẹ kiếp thuế má dâm ô đéo chịu được". "Anh đếch biết thằng nào bóc tem em thằng nào hớt em nước đầu, anh đây xin nước hai có mầu" (40). "Thỉnh thoảng tôi chổng mông, hồn cu cậu lập tức dông lên nóc khách sạn mười tầng cao nhất Hà Nội" (41). "Nhưng đàn ông có bao giờ mòn. Ðàn bà chỉ dùng một phút là thành đồ cũ. Tôi đố anh đi cả phố tăm đưọc con nào còn nguyên hộp" (48). " Tôi đã rót đều đều về nhà mỗi tuần một lượng tinh trùng cần thiết để duy trì hạnh kiểm của đôi bên" (109). "Anh dịch vụ tôi tôi sòng phẳng anh tuốt tiền mặt, rút ra cho vào cái đếch gì" (89). "Tôi chơi với bóng tôi trong nước tồng ngồng" (46). "Anh lượn đi cho tôi nhờ, dắt con bờ anh sang tiệm bánh ngọt" (49). "Tôi mới liếm hai đầu nhũ có mùi táo tầu" (8). "Khiếp mấy anh đầm đìa liếm l" (45)... vân vân và vân vân... Những dòng viết nhơ nhớp trên, lạ thay sao có người khen nức nở và dũng cảm gọi nó là văn học hiện sinh, làm ảnh hưởng đến thanh danh và uy tín học thuyết đã qúa vãng của Sartres và Camus?
Tóm lại, tập truyện ngắn "Man Nương", có thể đã được Phạm Thị Hoài viết trong trạng thái ức chế của những khuynh hướng (refoulement des tendances)? Những ẩn ức phân tâm bị kìm hãm này đã tìm cách xì ra trang giấy một cách vô thức, vô tội vạ, bất chấp những giới hạn và hành vi giao tế là một chức năng quan trọng của văn học. Mặt khác, nhưng quan niệm triết học và thẩm mỹ xa lạ, kỳ quái, một sự đua đòi bắt chước những phưong pháp sáng tác chợ chiều, ưa làm dáng trí thức bằng khả năng của dung tục nổi loạn, cộng với sự khinh mạn con người nơi tác giả, khiến "Man Nương" trở thành một cuốn sách biểu dương cái ác, cái xấu một cách quái đản và dị hợm, có khả năng làm mất cảm tình độc giả nhất trong mấy năm gần đây. Văn học có thể viết về những điều bẩn thỉu, hạ cấp nhưng là để không đánh mất khả năng sạch sẽ và sang trọng của mình. Văn học có thể viết về nỗi tuyệt vọng nhưng để hướng về ánh sao đêm của hi vọng . Văn học có thể lăn lóc trên giường, nhưng là để hướng về hạnh phúc của cái đẹp mang tính đạo đức, chứ không phải dẫn con người vào thế giới hưởng lạc, sa đọa, vô luân. Văn học, trước hết là một cách ứng xử văn hóa, chứ không phải là câu lạc bộ của bản năng buông tuồng, sàm tấu, chửi đổng, dung tục, khiêu dâm, xúc phạm ông cha đất nước của bất cứ sự nhân danh và từ bất kỳ phía vào của đời sống, để thông báo tín điều của qua về "một thế giới xấu ghê gớm". Chị Minh Quân, nhà văn quen biết của Sài Gòn trước năm 1975 nói với chúng tôi rằng, với tập bản thảo "Man Nương" này, ngay cả chính quyền Sài Gòn cũ cũng không dám cho xuất bản vì nó vừa tục tĩu, vừa nói xấu vua Hùng và Trần Hưng Ðạo. Rất tiếc, nhà xuất bản Hà Nội, một nhà xuất bản vốn có uy tín, năm 1995 đã làm một việc không thể hiểu nổi là cho in cuốn "Man Nương", xúc phạm lòng tự trọng và tình yêu văn học của bạn đọc xa gần.
Trần Mạnh Hảo
Thành Phố Hồ Chí Minh 2h sáng 29/4/1996
Ðoản khúc 8: Phạm Ðỗ Trường An
Mẹ con gởi thư báo tin mang thai con, bác chẳng vui mừng chút nào. Mẹ con, em con nhà cô của bác, từ nhỏ tới lớn bệnh hoạn triền miên. Bác mãi không quên lần đầu tiên bác biết mẹ con. Lúc đó bác vừa 4,5 tuổi gì đó theo ông bà ngoại con vào nhà thương thăm mẹ con. Bác rụt rè đưa tay rờ vào cô bé đang nằm lả người trên giường, bàcon nói :
- Em Yên cháu đấỵ Em Yên con giữa của cô, lớn hơn cháu 3 tuổi.
Mẹ con cười. Buồn lắm. Ðưa tay cho bác nắm, ánh mắt van xin:
- Mai mốt Yên khỏe rồi cho Yên chơi chung với mấy chị và em Trinh, em Ðan nhé.
Mẹ con khỏe, nhưng ít khi được chạy rong ngoài nắng hay dầm mưa nghịch phá như chị em. Thường chỉ ngồi trong hiên ngó ra thèm thuồng. Trong số 5 cô con gái, ngũ long công chúa của ngoại con, thì mẹ con èo uột không có sức khỏe và minh mẫn như 2 chị và 2 em. Bác cũng ít khi thân thiện với mẹ con, vì mẹ con hay khóc. Lớn lên mẹ con khỏe hơn, và đặc biệt là hát rất hay. Không hiểu sao từ cái thân thể yếu đuối đó mà mẹ con có thể cất giọng cao vút, trong vắt. Tiếng hát của mẹ con đã làm xiêu lòng ba con-khi ấy là sinh viên Sư Phạm dạy thực tập ở trường. Tới phiên bác chạy theo mẹ con đòi nghe chuyện. Mẹ con khi ấy 19 dỗ bác 16:
- Mai mốt chị lớn như Yên, Yên kể, nhé. Bác chưa kịp lớn thì đã xa anh chị em họ thân thiết cả nửa vòng trái đất. Ba mẹ con lấy nhau nhiều năm sau đó mà vẫn phập phồng lo sợ sức khỏe mẹ con. Cái vốn sức khỏe ít oi đó không đủ để cưu mang con, thậm chí còn có thể mất mạng.
Thế mà bây giờ mẹ con lại mừng mừng tủi tủi viết thư cho bác, nhờ bác đặt cho con 1 cái tên lấy hên. Tội nghiệp con. Con phôi thai thành hình không có sự mong đợi của gia đình. Mẹ con đi liều 1 canh bạc duy nhất trong đời mà cơ hội thua đến 2/3. Nếu như may mắn giữ được cả mạng mẹ lẫn con, chưa chắc con đã lớn lên khỏe mạnh. Bác đặt tên cho con, ghép họ cha mẹ: Phạm Ðỗ Trường An. Có lẽ gia đình mình không kỳ vọng bất cứ điều gì nơi con, mà chỉ mong con bình an cả đời. Nếu như con là gái, con có tủi thân vì cái tên không? Nó chẳng mang điển tích văn thơ như khi bác đặt tên cho con gái của các dì con. Bác muốn đặt cho con cái tên Như Thoa ngụ ý người con gái cài trâm kim thoa có tài văn chương, hay Tưởng Dung lấy từ ý thơ Lý Bạch nghĩ tới người mà tưởng dung nhan. Nhưng cuối cùng lại vẫn là cái tên vô cùng con trai, Trường An. Nếu con là trai, con có trách sao bác lại đem bút hiệu của 1 ông nhà văn gắn cho con. Nhà văn Hồ Trường An biệt danh Bà Già Trầu, có lần bác đọc đâu đó người ta ví văn chương của ông ta mướt như quần lãnh a của mấy bà nhà quê. Nghĩ tới đó, bác lại cười. Bút hiệu nhà văn mang tên sông hồ ở quê hương. Biệt danh nhà văn có dí dỏm đầy dân tộc tính. Còn tên của con bác đặt với nhiều xót thương, an phận. Thôi thì cũng mong là con đến cuộc đời nầy, bình bình, an an con nhé.
Cỏ Nhớ
Vòng Tay Ðàn Bà
Rời tiệc cưới thì đã quá nửa đêm, Tấn chẳng còn biết trời trăng chi hết, vì đêm nay gã hơi quá chén. Gã đã uống để mừng cho thiên hạ, và cũng để buồn cho chính mình. Ðêm nay, lại thêm một người tình vừa rời xa vòng tay của gã. Tấn không hiểu tại sao hể cô gái nào quen gã chỉ một thời gian ngắn là phải vội bỏ đi lấy chồng, và người chồng đó lại không phải là Tấn mới đau. Bạn bè vẫn chọc Tấn:
- Thằng này tán gái mát tay thật. Em nào đụng đến nó đều phải lỡ bước sang ngang.
Những lúc đó Tấn chỉ biết thui thủi vào phòng, lấy đàn ra gãy và hát một mình tình khúc "Người Yêu Cô Ðơn", trong đó có một đoạn rất hợp tình cảnh của gã:
Ðời tôi cô đơn nên yêu ai chẳng bao lâu
Ngày mai đây em lên xe hoa bước theo chồng
Tôi quen rồi những chuyện dang dở từ khi mới yêu
Cuộc tình tan vỡ nào cũng có cái đau của riêng nó, nhưng cái đau của đêm nay mới thật sự là niềm đau nhớ đời, vì Liễu, cô dâu của tối nay là người tình chung thủy nhất của Tấn, người mà Tấn đã không ngờ có ngày dám bỏ gã để ra đi theo tiếng gọi của con tim. Và đau hơn nữa là tiếng gọi này xuất phát từ thằng bạn thân cùng phòng của gã.
Hậu quả gì cũng đều có nguyên do của nó, nếu như mà Tấn đừng có tin tưởng thằng bạn cố tri của gã, đừng giao cho nó chìa khóa xe đi đưa đón Liễu, những khi gã bận. Nếu như mà Tấn để ý kỹ một tí thì đâu có đến nỗi, thì biết đâu gã đã dập tắt được mọi nhen nhúm ban đầu. Khi gã biết là khi lửa đã quá gần rơm và bốc cháy nghi ngút. Những cái "nếu" oái ăm khi Tấn nhận thức ra nó thì đã quá muộn màng. Và đêm nay, thêm một lần nữa, Tấn lại bị tình nhân tặng cho một vết thương đau ngọt ngào.
Tấn bước đi loạng choạng ra xe, định tra chìa khóa vào ổ thì Bền đi đến vỗ vai gã:
- Có chắc là lái xe được không đó chú em. Hay là lên xe anh đưa về, để xe của em lại đây đi, mai anh chở ra đây lấy.
Anh Bền là đàn anh kỳ cựu trong trường, hiện tại là giáo sư dạy môn Toán trong trường đại học nơi Tấn đang theo học. Tấn nhìn anh, cười xòa:
- Cám ơn anh. Ừa, chắc không sao đâu, em lái xe về được mà anh Bền. Nhưng nếu anh có nhã ý mời thì em không dám từ chối, đi với anh cho vui...
Tấn nói giọng nhừa nhựa, đầu cúi gục xuống, hai tay tì lên trên cửa xe. Bền đỡ gã về hướng chiếc xe "van" đang đậu gần đó. Lên trên xe Tấn mới nhận ra rằng gã không phải là người duy nhất, trong xe đã có lố nhố năm, sáu mạng được nhét ở băng sau. Tất cả đều đang say bí tỉ không hơn không kém gì gã. Tấn nhận ra vài khuôn mặt lúc bình thường có bao giờ dám rớ tới bia rượu, sao đêm nay cũng ham vui. Không lâu sau đó Tấn nhận thức ra rằng mấy gã trên xe đều cùng ôm một tâm trạng như Tấn đêm nay; họ uống là vì buồn, vì phải chia tay người tình lỡ là cô dâu của tiệc cưới hôm nay. Tấn nghe mấy thằng bạn ỉ ôi than trách tình đời thay trắng đổi đen, làm như Liễu là người tình bấy lâu nay của chúng, làm gã nổi cơn tam bành, chỉ muốn dộng cho tụi nó mỗi đứa một đấm, nhưng gã suy nghĩ kỹ lại thấy không nên, vì bây giờ Liễu đâu còn là cái gì của gã, và biết đâu chừng bọn nó nói thật, biết đâu bấy lâu nay gã bị cắm sừng đầy đầu mà nào có hay biết gì. Tấn chỉ còn cách ngồi đó, nghe mấy gã say sưa nhắc đến người yêu cũ mà cõi lòng tan nát rụng rời.
Chiếc xe van nổ máy, rời bãi đậu nhà hàng và lao nhanh dọc theo phố đêm. Gió mát mùa hè len qua cửa số, tạt vào mặt Tấn làm gã tỉnh táo đôi chút. Cái thành phố Memphis này đất rộng người thưa, chỉ được đông đúc nhờ con số sinh viên ở đây. Vào những dịp lễ như đêm nay sinh viên rủ nhau về thăm nhà, để lại sau lưng một thành phố hoang vắng tiêu điều.
Bền tiếp tục rú ga. Tấn liếc nhìn qua kim chỉ vận tốc. Bảy mươi dặm một gi Gã buột miệng than:
- Trời, anh Bền. Anh làm gì mà chạy nhanh quá vậy? Mình đang ở trong khuôn viên trường đại học. Coi chừng tụi cảnh sát!
Bằng một giọng đầy tự tin, Bền quay qua bảo Tấn:
- Chú khỏi phải lo. Giờ này chả có thằng cảnh sát nào rảnh rổi mà ra đây rình bắt. Bọn nó thà ở nhà ấp vợ còn sướng hơn.
Bền tiếp tục rú ga. Tấn thầm hiểu là Bền đang nôn nóng về với vợ. Ðáng lý đám cưới đêm nay phải có mặt vợ anh, nhưng chị đang có bầu, sắp đến thời kỳ khai hoa nở nhụy, Tấn nghĩ có lẽ vì vậy mà anh đang nôn nóng về với vợ.
Nhưng rồi việc gì phải đến đã đến. Chiếc xe van vừa rời khỏi khuôn viên đại học, còn một hai block đường nữa thì về đến khu chung cư nơi Tấn và đám bạn cư ngụ thì mọi người trong xe nghe tiếng "oáo oáo" tru tréo nổi lên, nhìn ra phía sau thì thấy đèn xanh đèn đỏ quay vòng vòng.
- Chết cha, cảnh sát!
Giọng của Bền ấp úng, mất hẳn vẻ tự tin ban nãy. Mặc dù trong xe tối om nhưng Tấn chắc chắn nét mặt của Bền bấy giờ phải tái xanh thảm hại đến dường nào. Bền nói tiếp:
- Phen này chắc bị DUI rồi Tấn ơi. Trong xe toàn mùi bia không làm sao thoát!
Tấn nhìn vào kính chiếu hậu, thấy hai viên cảnh sát công lực bước ra khỏi xe, nét mặt hai người đầy thị uy. Một trong hai người tiến lên phía trước, bàn tay kề kề trên bao súng, như cao bồi viễn Tây, sẵn sàng rút súng bóp cò bất cứ lúc nào. Trong khi đó tên còn lại dùng ngọn đèn pin cực mạnh chiếu thẳng vào trong xe.
Bền run run giọng:
- Good evening, officer!
Thầy đội liếc mắt đảo quanh một vòng trong xe, rồi lạnh lùng quay qua Bền:
- May I see your driver license.
- Yes, sir.
Bền nói xong mò tay quanh ghế tìm cái bóp. Lão cảnh sát thấy vậy tưởng anh tìm vũ khí, hoảng quá nên lão bắt anh bỏ tay lên vô-lăng. Anh phải phân trần là đang tìm bằng lái. Anh đưa lão tấm bằng lái, nhân tiện bỏ nhanh một thỏi kẹo cao-su vào trong mồm, nhai để khử mùi bia. Lão cảnh sát thấy vậy ra lệnh cho anh phun viên kẹo cao-su ra. Lão nói chắc phen này mày khó thoát cái tội uống rượu lái xe, trong xe mùi bia rượu nồng nặc quá.
Bền nói tao không có say, tao là "designated driver", là tài xế được chỉ định, đưa mấy thằng bạn say này về nhà. Thầy đội lắc đầu:
- Say hay không thì tao cũng phải ghi tặng mày một tấm thẻ phạt cái tội lái xe quá tốc độ. Mày có biết là mày chạy 70 dặm một giờ trong khu vực giới hạn 45 không?
Bền nhanh trí suy nghĩ:
- Nhưng tôi có một lý do rất chính đáng, thầy đội ạ!
- Lý do gì?
- Tôi đang chán đời đây thầy ơi. Ðêm nay bạn gái tôi đi lấy chồng, tôi vừa mới đi dự đám cưới của cô ta về đây. Thử hỏi thầy, cõi lòng tôi tan nát thì còn tâm trí nào mà nhìn cây kim tốc lực.
Như sợ lão cảnh sát không tin lời mình, anh chồm về phía trước, vói tay nhặt lấy tờ phong bì, nói tiếp:
- Ðây này, thầy xem đi. Ðây là thiệp mời dự đám cưới tối nay.
Viên cảnh sát công lực lấy đèn pin ra rọi, đọc lướt sơ qua rồi cất giọng từ tốn:
- Tao hiểu rõ hoàn cảnh của mày lắm, vì chính tao cũng mới bị bồ bỏ. Thôi, tao tha cho mày phen này, nhớ lái xe cẩn thận.
Bền rối rít nói cám ơn, rồi đề máy xe vọt lẹ, như sợ lão cảnh sát đổi ý.
Chiếc xe van lao nhanh trong màn đêm bằng một tốc độ chậm và đều. Tấn bâng khuâng thả tầm nhìn ra bên ngoài. Gã không tin vào tai của mình. Không phải là gã ngạc nhiên về sự nhanh trí của giáo sư Toán học Bền, gã chỉ không ngờ gã đàn ông này cũng từng là người tình một thời của cô dâu đêm nay.
Bùi Thanh Liêm
Tháng 8, 1996