vhnt, số 254
13 December 1996
Trong số này:
thư vhnt..........................................................Nguyện Ý
T h ơ :
1 - Chia buồn cùng ông độc giả khó tính ..........................tn
2 - Sau tháng ngày, lịch sử ....................................Lê Tạo
3 - Kỷ niệm đàn bà .....................................Dương Tường
4 - Lục bát Bolsa ...........................................Nguyễn Nam An
5 - Ôm giấc ngày đông .......................................Thụy Phong
6 - Rượt bắt .................................Trương Nguyễn Thi Thanh
7 - Một ngày dường như rất buồn ..............................Chinh
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
8 - Bí mật của thơ ............................................Khải Minh
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
9 - Nhớ người bạn nghèo (tùy bút) .................Lương Thư Trung
Hình ảnh của mùa thu là những chiếc lá vàng rực rỡ. Trên cành. Dưới đất. Là nét đẹp muôn thuở của hoàng hôn. Của diệp phong.
Thi nhân và văn nhân ca tụng mùa thu ở những điều như vậy. Và với họ, mùa thu đã qua đời khi ngàn cây chỉ còn cành khô trụi lá.
Mùa thu bị khai tử một cách âm thầm.
Có bao giờ bạn nhìn một thân cây trơ những nhánh hao gầy trong một chiều ủ mây xám gió,
để biết yêu nét đẹp
của nghị lực
tiềm tàng trong đó
giữa giá lạnh của thiên nhiên,
để biết yêu sự kiên nhẫn
của hứa hẹn phục sinh
trổ mầm non xuân sắc.
Có bao giờ nét đẹp, của mùa thu, của nghệ thuật, không là những huy hoàng, diễm tuyệt nhìn thấy. Mà là những gì còn lại trong ta, khi nét huy hoàng diễm tuyệt đã tàn phai.
Hạnh phúc chân thật của một cuộc chơi -
Là nụ cười khi đang vui đùa
với mọi người chung quanh?
Hay
Là niềm vui trong tim,
khi cuộc chơi đã tàn
chỉ còn ta với ta?
Và hạnh phúc của bạn,
Khi đọc VHNT
Là nôn nao khi chờ đợi nó?
Là niềm vui khi đọc nó?
Hay
Là hạnh phúc trong tim
khi đã đọc xong
những gì tìm thấy
trong đó.
Nguyện Ý
(viết thay PCL/vhnt)
Chia buồn cùng ông độc giả khó tính
Hiền sĩ như bún thiu
văn chương buổi chợ chiều
ông tìm vàng trong rác
Bằng trắc ê a thì buồn ngủ
hiện đại siêu thực lại nhức đầu
độc giả như ông sao khó tính
Nàng thơ
đã từ lâu cắt mái tóc thề
trút bỏ áo dài em thênh thang xuống phố
thì xá gì tứ thân hay quần sọt
cảm hứng đâu chỉ ở giữa đũng quần
cho thi nhân sờ soạng
thời trang hôm nay vô cùng ngổ ngáo
thiên tài ôm ngực húng hắng
ho khan
nghe cũng lạ tai
ồ ta là mới
thi ca được mùa nên thơ phải thặng dư
Tội nghiệp cho ông
tội nghiệp cho ông, ông độc giả ơi
hết nhức đầu lại buồn ngủ
trái tim ông bằng thịt
nội công ông chưa cao
mà văn chương chữ nghĩa
có hàng giả hàng thật
có bán sỉ bán lẻ
có cổ điển hiện đại
chia tà ma chính thống
ông đòi mua vòng vàng
ông nhức đầu cũng đáng
Nói nhỏ cùng ông một điều chân thật
khi nàng thơ trút bỏ xiêm áo phấn son
mode Eva bao giờ cũng đẹp...
và cái này chẳng thể là thơ
tn
Sau tháng ngày, lịch sử
Sau huyền thoại trăm con
người nhìn người, ngập tràn con nước lũ
cá lạc bầy, chim xa tổ cũ
Phượng hoàng đâu?
đen ngịt trời bóng quà quạ kênh kênh.
Sau trống đồng ngàn năm
lưng Mẹ còm, vai trĩu nặng vai
đêm từng đêm nghe tiếng Mẹ thở dài
Bình minh đâu?
đời ngập ngụa theo cơn hồng thủy.
Sau Diên Hồng lịch sử
tanh túa lợi danh, lầy lội mưu toan
hạnh phúc mong manh như bọt xà phòng
Bia đá đâu?
Văn Miếu phủ đầy, rêu xanh lớp lớp.
Say Bạch Dằng, Ðống đa
lòng nhỏ nhen bao trùm chí lớn
đem hư danh so gấm vóc sơn hà
Làm lịch sử
phủ đầy một màu tang tóc.
Sau sông Gianh, Bến Hải
nhìn ngàn sau vẫn tựa ngàn xưa
xác thân gầy lê lết dưới mưa
Gieo giống mới?
muôn hoa nở đỏ lừng màu máu
Sau Hồn kông, Mã, Phi cùng Thái
cạn kiệt đời, giọt nhân ái trần gian
người chết hai lần trong cùng cửa ải
Bóng thiên đường?
nhọn hoằc kẽm gai đâm nát mộng mơ
...
Sau những đọa dày
Sau tháng Tư đen
Sau bao gian nan
Sau ngàn tuổi nhục...
Có còn không mặt trống ngàn năm?
Có thêm một lần hội nghị Diên Hồng?
Có huy hoàng Bạch Ðằng, Ðống Ða lịch sử
Huyền thoại Mẹ ngàn năm còn giữ?
hay cầu rút nhịp khi đã qua sông?
Lê Tạo
Kỷ Niệm Ðàn Bà
Thả đỉa ba ba
Chớ bắt đàn bà
Kỷ niệm đàn bà
Kỷ niệm đàn bà
Quả cà độc dược
Nhịp cầu Ô Thước
Tôi xanh em xanh
Cái nhớ cũng xanh
Cái hờn cũng xanh
Cái đau cũng xanh
Mà chiều xám lạnh
Mà chiều trống trếnh
Không ai đợi chờ
Quán cà phê mưa.
Dương Tường
1963
lục bát Bolsa
Bolsa có phố đèn hồng
Giấy 5, 20, $100, gởi băng
Welfare cha mẹ lạnh căm
Con đi "xế" mới nhăn răng với đời
Bolsa: Kênh! Liếc... Ngậm ngùi
Con trai, con gái, con ruồi, bay quanh
Bolsa có "xế hộp" anh
Cuối tuần chở "ghệ" chạy quanh mua tình
Bolsa đả đảo hoang nghênh
Có quán khuya mở có tình motel
Short skirt, mắt trông theo
Bolsa chìm đắm theo chiều BaSol
Nguyễn Nam An
Ôm Giấc Ngày Ðông
Một nhánh cây khô rớt bẽ bàng
Trong vườn hiu quạnh gió mơn man
Từng phiến bụi mưa rơi không ngớt
Trên lá hoa cành tuyết mênh mông
Lạc cánh chim buông bóng lỡ làng
Trên trời cao vọng tiếng than van
Ủ rũ vườn mây không nắng sớm
Vây kín lưng trời khói sương giăng
Lại đến rồi đây dấu lạnh lùng
Một mùa đông nữa đến mênh mông
Bó gối nhìn mây trôi hờ hững
Ngày lặng im về không bướm ong
Xóa mãi không vơi tuyết trong lòng
Bao ngày tháng đợi bấy nhiêu mong
Ðể mặc hồn đơn ôm nỗi nhớ
Tưởng vọng chân trời đôi mắt trong
Nhớ mãi hình ai nét gợn buồn
Trên vành chăn mộng gối thơm hương
Mơ bóng dáng em đang hờn dỗi
Ðể mặc cho lòng bao vấn vương
Chan chứa rèm mi ứa lệ hồng
Bao lần thổn thức nỗi niềm mong
Ðời mãi buông trôi trong bối rối
Nào có ai người thương nhớ không?
Âu là huyễn mộng phút âm thầm
Giữa mùa sương đọng thấm yêu thương
Chiếc lá lập đông run rẩy chết
Bên gốc cây già trơ xác thân
Một thoáng mưa giông đến ngỡ ngàng
Cõi đời xua động tiếng rền vang
Ôm giấc mùa kdông ta mòn mỏi
Ðể lúc xuân về băng giá tan.
Thụy Phong
(1989)
R Ư Ợ T B Ắ T
Ta đuổi nhau
Người chạy trước
Kẻ theo sau
Một trò chơi chẳng ai là kẻ được.
Anh với gọi
tay vẫy mời
tất tả theo sau.
Em bất kể,
xoay lưng
băng mình qua những đồi cao
ngày đêm không biết mỏi
rượt đuổi một người.
Một lần chân vấp ngã
chợt thấy rằng
người kia chỉ là cái bóng
cũng như em - là cái bóng của anh.
Vết thương sâu
mà thân không biết khóc!
mới nhận thức được rằng
bóng hình vốn vô giác vô tri.
Trương-Nguyễn Thi Thanh
Một Ngày Dường Như Rất Buồn
(gửi Q)
Anh đi bên em bước chân trên sóng
Ðêm tóc bay những sợi mưa xiên
Mười ngón tay gỡ nhau ra
Lời từ biệt theo mùa cuốn mất
Ðêm xô anh xuống khoảng đen nào tanh tưởi
Lượm lấy nước mắt mình
Nghe bước chân em xa dần thiên thu mỏi
Qụy té giữa đường không kéo nổi tay ai
Ai xô anh ngã giữa đời rồi
nằm xuống âm u nghe gió lạnh
Mệt nhoài tìm kiếm dung nhan khuất xa
Ngồi xuống bên con đường bụi thổi
Ðể không tránh khỏi lần khóc cuối
Ngày chia tay phố cạn kiệt lời
Chẳng nói nổi câu cảm thông
Tình như chuyến xe lửa khuya
sầm sập đi qua thành phố thức giấc
rồi ngủ lại
ngủ luôn một đời dài
Anh mãi là một hành khách giang hồ
Châm điếu thuốc chiều nhà ga khói ám
Ðợi chuyến tàu nào lê mỏi thời gian
Em bỏ đi tiếng gió nghe sầu khuya khoắt nhớ
Hạnh ngộ nào sao chóng vánh qua
Em cứu rỗi anh một mùa
tưởng như chết đuối
Ðể bây giờ lại nằm chết thêm thôi.
Chinh
Bí Mật Của Thơ
Khái niệm
Thơ là gì. Ngay cả triết học, khi luận về thơ vẫn lúng túng và bế tắc trong phạm trù lý trí đồng thức (áp dụng cho mọi người) vì thơ ở một cõi xúc cảm, nội tâm, độc thức (khác nhau nơi mỗi người). Vì vậy triết không thể định nghĩa thơ. Thơ trở thành bí mật trong lý trí và vô cùng sống động trong cảm thức. Chúng ta phải vượt qua triết, qua lý trí, qua đạo đức để trở thành thơ. Nghĩa là thơ ở trong mỗi người nhưng không có câu trả lời chung cho mọi người.
Thơ khởi sự từ phản ảnh của một nội tại đối với thế giới ngoại cảnh. Nó ở một nơi thoát thể tâm trí toàn diện, biến chính người sáng tác thành thơ trước khi thành ngôn ngữ văn chương. Chúng t a tạm ví thơ bằng hình ảnh một hạt lúa từ lúc gieo cho đến lúc gặt với ba giai đoạn: 1). Tiềm thể - Lúa giống (lý thuyết văn thơ); 2). Hiện thể - Cây lúa (đạo đức thơ) và 3). Thoát thể - Hạt lúa chín (thơ).
1. Lý thuyết thơ
Cho đến hôm nay, chúng ta mới có một vài tài liệu sơ sài về kỹ thuật văn vần và chưa có một lý thuyết căn bản cho nghệ thuật thơ. Ðây là một ám ảnh trách nhiệm cho những ai mang danh thi hào, thi bâ B ản thân tôi và hầu hết những người viết văn thơ hôm nay đều tự học mò mẫm. Những bài viết về thơ hầu hết dựa trên cảm xúc bâng khuâng và lượm lặt phiên dịch chắp vá nhiều hơn là lý thuyết nguồn cội. Người đọc càng dễ lún sâu vào cõi mù mờ cảm quan nào đô Kết quả chúng ta thấy:
- Thơ văn được hiểu quá đơn giản. Nghĩa là chỉ áp dụng mù quáng niêm luật, văn phạm (luật lục bát, luật Ðường của Trung Hoa, luật " thơ mới " trộn luật của thơ Ðường và thơ Tây). Chưa có ai giải thích luật bằng trắc một cách xác đáng để người làm thơ biết cách biến báo xoay sở cho mỗi trường hợp sáng tác.
- Thơ văn lộn xộn (văn vần rất nhiều, thơ rất ít), một rừng văn chương non nớt nông cạn, sáo xạo, nhàm nhảm. Ða số viết để diễn tả rườm rà hoặc giải thích dài dòng một chủ đề nào đó. Chung cuộc chúng ta thấy không có bài nào thuần ý trọn bài. Nhạc điệu giữa các khổ thơ còn rất lẩm cẩm và đương nhiên cảm xúc thì lạc lõng vì bị văn vần chi phối, đôi khi bị ép ra khỏi nội dung thơ.
- Bế tắc về thể loại. Phân biệt thơ cũ, thơ mới; văn vần, văn xuôi và thơ một cách mơ hồ, ồn ào. Hoang mang theo thời trang bằụng một kiểu thơ tự do. Cuối cùng thể loại nào cũng nhàm sáo, cũ cùn với thời gian như cái chết buồn thảm của thơ mới hiện nay. Thay vì để thơ áp chế ngôn ngữ chúng ta lại cố tìm một dạng ngôn ngữ mới để diễn tả thơ. Nếu tiếp tục như vậy, người sá ng tác sẽ không bao giờ có tiêu chuẩn để chọn một âm ngữ và vị trí của nó trong câu thơ.
- Văn thơ viết theo chủ đề (chính trị, tôn giáo, luân lý, trường phái). Chúng ta biết rằng thơ áp chế cái tinh tuyền của nó lên mọi hoàn cảnh, nếu đi ngược lại, bắt nó nhốt vào một chủ đề nào đó th ì nó biến chất ngay để còn lại ít nhiều tâm tưởng con người trong cái xác văn vần, văn xuôi đơn giản.
- Không có bộ môn phê bình vì không có căn bản lý thuyết.
- Không có phương trình lịch sử để phát triển thơ.
- Người sau viết lại người đi trước. Không có phương pháp và kinh nghiệm bằng tài liệu nên mất rất nhiều thời giờ học mò và hao mòn tâm sức sáng tạo.
Dù vậy, mặt trái của con đường mò mẫm có thể đem lại những lợi điểm như:
- Cánh cửa thế giới thơ rộng mở vì tưởng dễ dãi nên có rất nhiều tín đồ. (tin tưởng và sáng tác văn vần).
- Cái nhàm nhảm của văn vần hiện ra rất rõ làm nhiều người bỏ cuộc và ít người dám đương đầu với những uẩn ức của nô Họ đi tìm hoặc sao chép kỹ thuật lạ như phong trào "Thơ Mới".
- Một số hiếm hoi thoát khỏi cái nhàm của văn vần nhưng lạc vào cõi lang bang của ngôn từ như phong trào thơ "Tự Do".
- Còn lại thấp thoáng hiện ra một vài bài có vẻ ngẫu nhiên được chất thơ chi phối.
Tóm lại, ở biên giới của văn vần, thơ hiện ra xa gần trước tầm tay mỏi rã của những người đi tìm kiếm quá lâu trong mâu thuẫn và gian khổ trong tâm tưởng.
Nứt mộng của hạt lúa là do tác động đất đai, khí hậu, những yếu tố bên ngoài tác động làm tiềm năng của lúa thức dậy. Còn thơ, nó tác động tiềm năng ngôn ngữ, nhạc, cảnh thức dậy trước một hứng mới, cảm xúc lạ. Bí mật của thơ ở đây là thi sĩ sáng tạo âm ngữ sao cho hợp với hứng thơ. Nghĩa là định hình tượng theo tiềm thức rồi phản ảnh lại thế giới ngoại cảnh bằng phưông tiện ngôn ng Thí dụ trong đoạn thơ sau đây:
Hồn mịn nắng thưa thưa
mưa qua đêm hồng hạ
vàng vàng ánh tuổi thơ
thanh thanh thanh gió lạ
thu về.
Tại sao hai tiếng " thu về " biến thể nhạc điệu sắc xảo như vậy? Luật nào cho phép chúng tạo thành một vẽ. Lý thuyết nào khẳng định âm thanh và vị trí cho hai tiếng này? Bạn đã từng hoang mang, nghi ngờ!, đã từng xóa đi hoặc thêm vào 3 tiếng cho nó đúng luật thơ mới hoặc ngũ ngôn?. Ôi con đường mò mẫm gian truân may rủi, nghi ngờ! Bây giờ nếu lý thuyết văn vần Việt ngữ nói:
- 3 âm bằng gieo vần với nhau (lục bát, thơ Ðường, thơ mới) tạo thành một hợp âm trọn vẹn thì ba tiếng " thanh thanh thanh " đã đạt nghệ thuật. Còn hai tiếng " gió lạ" trong vế này, nó vừa độc lập về ý, vừa kết hợp bằng nhạc với ba vần (thanh thanh thanh) tạo nên một cấu trúc trọn vẹn.
- Nếu luật đối trong việt ngữ làm nổi tứ và âm thanh, từ đó tăng độ nhớ trong tâm trí người nghe thì " gió lạ " đối với " thu về " có nét nhạc rất sắc và gọn.
Và còn nhiều lý do khác để định vị trí mỗi tiếng nữa, ở đây, với 2 lý do sơ đẳng trên, người sáng tác sẽ tự tin và quyết định một dạng thơ của mình.
Tóm lại, lý thuyết văn thơ là phương tiện căn bản để người sáng tác, hoặc đưa tâm tình vào ngôn ngữ như viết văn vần, hoặc đưa tiềm thức vào ngôn ngữ để tạo thơ.
2. Ðạo đức thơ (Sinh trưởng của lúa):
Tới đây coi như bạn đã quán niệm được lý thuyết nhưng mâu thuẫn thay bạn không sáng tác được nữa. Một phần vì bạn không muốn viết văn vần, phần khác vì bạn đang ở trong cõi phân vân đồng đều giữa sinh hủy trong khoa học, giữa âm dương trong Kinh Dịch, giữa cái Có và Không của Phật, giữa cái biến đổi, nghi ngờ của Triết... Mà thơ đòi hỏi bạn phải vượt qua tất cả những nguyên lý này. Thí dụ bạn ở trong tình trạng phân vân giữa ăn chay thì phá giới mà giữ luật thì chết đói, hoặc như bạn lái xe chở người bị thương tới trước đèn đỏ, nếu vượt thì phạm luật, nếu không thì chết người... Cái đạo đức của thơ đòi hỏi bạn phải chọn lựa và chọn lựa đúng. Thí dụ bạn phải chọn luật thơ Ðường hoặc thơ Lục Bát hoặc chẳng chọn cái gì để giữ cái nguyên sơ của thơ? Cái phân vân này l à nguyên nhân bế tắc hiện thời của bạn. Cái bí mật của thơ ở đây là nó không có cái lưỡng lự phân vân kia. Thơ như hạt giống, nó tự rữa mục hủy thể không phải để giữ luật bù trừ mà để biến thể tăng trưởng gấp bội. Nhà tu, băng đảng, người lính, xã hội, quốc gia, tôn giáo, chính bản thân cá nhân... ai cũng có cái đạo đức riêng. Chính cái đạo đức tạp niệm phàm tục này làm thơ chết trước khi chạm vào hồn. Có mấy ai tu trì mà đạt thơ (vì họ phải giữ luật)!. Chính những tạp niệm này ngăn cản ngôn ngữ nhập vào thơ, nghĩa là vẫn nghĩ một đàng nói một nẻo. Bí mật của thơ là một cõi nguyên sơ, vô thức (không quá khứ, khôn g hiện tại, không tương lai, không tôn giáo, không chính trị...).
Ðể phá vỡ cái bí mật này, thiên hạ đã tìm đủ cách như: tịnh thiền, hút sách, rượu chè, đi tu, du lịch, phát điên, siêu thực (viết..., viết..., viết cho đến khi hết giác quan, viết tiếp cho đến hết suy nghĩ, viết tiếp cho đến khi hết chữ nghĩa, viết tiếp cho chạm đến tiềm thức... vô thức...). Thật sự những người này đi con đường dài nhất, cam khổ nhất, họ là những tù nhân văn chương thê thảm. Danh họa Picasso đã xác định càng về già ông càng vẽ như trẻ thơ. Kinh nghiệm cho chúng ta thấy những thi sĩ là những người rất phóng khoáng, ít tạp niệm. Họ sinh sống mật thiết với thiên nhiên, họ v ô tư hồn nhiên như trẻ thơ, tâm hồn thanh thoát như sống ngoài thế gian... Cái "nhân chi sơ tính bản thiện" có nhiều cơ hội tồn tại nơi hỗ Cái đạo đức của thơ là vô niệm. Vô niệm để quán niệm được hết mọi sự vật và hưởng được cái tinh hoa của sự vật. Chúng ta thường thấy trạng thái này ở những bài Haiku (một loại thơ Nhật), hoặc thấp thoáng trong những bài thơ Ðường . Thí dụ mấy tiếng sau:
Ðào nở
Cu gáy
Hương rừng
Hồn ta
Chúng ta thấy chúng thật nguyên sơ: thị giác có hoa đào nở, thính giác có tiếng chim gáy, khứu giác có hương rừng và tâm giác có tiếng "ta". Nhưng hoa nở như thế nào? chim gáy làm sao? hương gì, hồn ra sao? thì chỉ có tác giả và người đọc ở một hoàn cảnh nào đó mới thấu. Nếu viết lại những tiếng kia bằng một vế 8 tiếng và thay tiếng "ta" bằng một tiếng khác... thì cái nguyên sơ kia đổi khác ngay.
Ðào nở cu gáy hương rừng hồn xa (tả tình)
Ðào nở cu gáy hương rừng hồn xuân (tả cảnh)
Đào nở cu gáy hương rừng hồn xanh (tình & cảnh)
Ðào nở cu gáy hương rừng hồn dương (tục, diễu)
Cái nguyên sơ tuyệt đối không có ở trong chữ nghĩa, cũng không phải "ý tại ngôn ngoại", nó là bông hoa đào trên một cành cây, là con chim cu sống động, là hương thơm trong giộ. Nó cần phải thoát kh ỏi cái hiện thể của thiên nhiên để nhập vào con người và biến ngôn ngữ họ thành thơ.
3. Thoát thể (Lúa chín):
Thơ là một thoát thể của thiên nhiên (trong đó có con người) vào cội nguồn vô thức để tạo hình tượng rồi vận dụng ngôn ngữ tạo thơ. Giống như cây lúa, nó phải khô đi, thoát thể vào những hạt thóc chín vàng để về cội nguồn nguyên sơ của nó. Người sáng tác lúc này không còn vận dụng lý trí nữa. Ngôn ngữ tự phóng ra từ một cõi vô niệm nào đô Có những hứng thơ nhập vào thơ Ðường, đoạn khác thoát ở Lục Bát, và rất thường, cảm xúc t hơ áp đảo ngôn ngữ đến muôn hình vạn trạng, không một thể loại văn vần nào nhốt nén nó được. Ở trạng thái này tinh tiết của thơ nở như hoa, thanh thoát như giộ. ngữ ngôn hiển hiện lạ lùng. Cái nhàm, cái sáo của văn vần biến mất ở đây.
Bí mật của thơ ở đây là thi pháp của mỗi thi sĩ. Không bao giờ có hai hạt lúa giống nhau. Câu nói "Người làm sao văn làm vậy" mới chỉ là tương đối, trong thơ chúng ta phải nói ngược lại: "thơ làm sao, người làm vậy", có nghĩa là thơ không thể giả tạo, gượng ép được, nó bắt người mang danh thi sĩ phải sống chết cuồng si với nó. Ngược lại biết bao thi nhân còn sống nhưng hồn đã chết (hê 't thơ) để trở thành chính trị gia, thầy tu, hoặc đảng viên của đảng phái nào đó.
Trong bài "Giá trị một bài thơ", chúng ta đã xét hình thức của thi pháp, nhưng đâu là cội nguồn của nó. Chúng ta giới hạn ở đây một " bí mật " gọi là cõi tượng trưng, cõi tưởng tượn g nguyên thủy về sự vật.
Trong văn vần, cái tượng trưng này bị tạp niệm hóa thành những cách so sánh thỏa thuận văn hóa. Thí dụ: so sánh người thiếu nữ như liễu thướt tha (so sánh đồng dạng thức); như trăng tròn, như hoa , như xuân... (so sánh đồng cảnh); như sư tử Hà Ðông, như chim bồ câu, như con cố.. (so sánh đồng tính); như khúc xương sườn đàn ông (so sánh đồng hệ)... Những cái so sánh này dù cụ thể hay ẩn ngầm vẫn bị giới hạn trong một văn hóa nào đó, có nghĩa là cách so sánh này được chấp nhận trong văn hóa Việt nhưng có thể bị từ chối trong văn hóa khác.
Trong thơ, cái tượng trưng là cái sống động của sự vật nơi thi sĩ. Nó giao động để tạo những liên hệ chưa hề có giữa những sự vật để phát sinh âm thanh, hình tượng của thơ. Thí dụ trong khi văn vần suy diễn từ một thiếu nữ ra: hoa, xuân, trăng, liễu, chim cò thì trong thơ cấu trúc hình tượng thiếu nữ này hoàn toàn trái ngược. Hoa, Trăng, Liễu, Chim, Cò, Sư T có thể tượng trưng một hình tượng khác trước khi tạo một nét nào đó về người thiếu nữ; và sau hoặc bên cạnh hình ảnh thiếu nữ, nó còn tượng trưng cho sự vật nào đó nữa. Có nghĩa là Hoa, Trăng, Liễu... không bao giờ trở th ành thỏa thuận văn hóa. Trong đoạn thơ thật đơn giản sau, cõi tượng trưng sẽ cho chúng ta thấy ít nhiều âm thanh và hình tượng thơ:
Xuân xuân sầu trắng váng
gió mềm mềm bóng quê
thơ đau thơ nhớ mẹ
con vệ đợi con về.
Ðào rơi rơi ngõ vắng
Tủi tủi gọi Cha ơi!
Tình ngọt, lòng đắng đắng
Ðào rơi đêm tuyết rơi.
Hai tiếng "Xuân xuân" phá vỡ cái luận lý thường có trong tạp niệm văn vần như:
Xuân sang sầu trắng vỡ
Xuân đau sầu trắng vỡ
Xuân con sầu trắng vỡ
...
Thơ tạo tiếng nhiều hơn là tạo âm (chữ " xuân " có thể có nhiều cường độ âm thanh khác nhau tùy nơi mỗi người đọc). Hơn nữa âm thanh của thơ khác âm thanh thính giác nên hai tiếng này tạo thành một điệp ngữ, tượng trưng một âm thanh " mùa xuân " đồng thời nó cũng để người đọc thấy một hình tượng thời gian (" xuân xuân " có nghĩa là đã nhiều lần xuân qua, đã nhiều năm xa cách).
sầu trắng: là một hình tượng lạ. Tiếng trắng tô mầu lên sầu, một danh từ trừu tượng. Một lần nữa cảnh của thơ khác với thị giác chúng ta.
váng: một hình ảnh tượng trương cho thời gian, có nghĩa là sầu đã lâu, đã nhiều năm.
Gió mềm mềm: Vừa tạo âm thanh (điệp ngữ mềm mềm vừa tạo hình tượng (bản chất của gió không hình dạng được biến thành một hình thể mềm mềm nào đó).
Và thơ cứ tiếp tục như vậy cho đến hết đoạn.
Riêng câu cuối, tiếng đêm đã được cấu trúc làm biến bản chất thời gian của nó đi. Ðêm ở đây biến thành một khung cảnh gặp gỡ tình cảm thầm kín trong nỗi nhớ giữa người cha và người con mà khó có một cấu trúc tạp niệm nào có thể thay thế được. Thí dụ nếu bỏ tiến "đêm" đi và thay thế bằng:
" Cha đào rơi, con tuyết rơi " hoặc:
" Bên đào rơi, bên tuyêt rơi " hoặc:
" Nơi đào rơi, nơi tuyết rơi "
Thì không đủ lịch sự và tinh tế diễn đạt tình tiết kín đáo giữa cha và con.
Hoặc nếu viết thành hai vế:
Ngày đào rơi
Ðêm tuyết rơi
Thì ai cũng hiểu là cha và con cách xa nửa địa cầu, bên cha mùa xuân thì bên con mùa đông, quê nhà ban ngày thì bên con ban đêm... quá luận lý và mất hết cảm xúc.
Tóm lại, thơ sống động khi không có tạp niệm ám ảnh. Ngay cả kinh nghiệm văn hóa chúng ta cũng cần quên đi để gặp gỡ được cái nguyên tuyền của sự vật. Cái nguyên tuyền này sẽ tự tìm kiếm một cấ u trúc âm thanh lạ với hình tượng chưa bao giờ có để tạo thành một thi pháp theo đời sống riêng biệt của mỗi người chúng ta.
Khải Minh
NHỚ NGƯỜI BẠN NGHÈO
Chiếc phi cơ của hãng hàng không Singapore từ từ giảm cao độ. Tôi nhìn qua khung cửa hẹp. Phía dưới kia là con sông Ðồng Nai chạy vòng vèo, uốn khúc như một con rắn khổng lồ. Những làng mạc, vườn cây xanh, những mảnh ruộng xanh rì được ngăn bởi những "bờ bi" nhỏ như những lằn ranh thành những ô hình vuông, hình thang, hình chữ nhật. Rải rác những ngôi nhà, những chòi, những trại lợp bằng lá, bằ ng tranh nằm chơ vơ đơn độc trên những nền đất cao...
Chiếc phi cơ càng xuống thấp dần, thấp dần... Tôi như dán cặp mắt vào khung cửa kính thấy mang máng dưới kia là ngọn đồi Tăng Nhơn Phú, Trường Bộ Binh Thủ Ðức ngày nào... Thoáng trong đầu tôi bao nhiêu hình ảnh cũ hiện về với những ngày tháng "quân trường đổ mồ hôi" trên những bãi chiến thuật như vườn cao su non, hồ Lệ Thủy, bãi mìn bò hoả lực, cùng khắp những lối mòn, nhừng dốc cao, dốc thấp dưới cái nóng bức của trưa hè hay cái ẩm ướt của những cơn mưa dầm tháng bảy... càng làm cho đời lính vốn đã cực càng cực hơn. Những ý nghĩ miên man bị cắt đứt khi chiếc phi cơ lướt nhanh . Phía dưới kia là con sông Sài Gòn, cầu Tân Cảng, bến Bạch Ðằng, đất thánh Tây gần bên phi trường Tân Sơn Nhất và cả một Sài Gòn với những phố thấp lầu cao san sát cùng những giòng xe cộ ngược xu ôi như đàn kiến đang di động... Dường như phi đạo chưa sẵn sàng. Người phi công cho phi cơ quành đi một vòng. Tôi lại được dịp nhìn lại thành phố Sài Gòn thêm một lần từ trên cao mà nghe lòng như b ồn chồn, hồi hộp của đứa con đi xa trở về thăm lại quê hương... Dường như tiếng động cơ, của chiếc phản lực ngưng nổ cho cho đến khi các bánh xe của phi cơ chạm vào mặt nhựa của phi đạo. Rồi tiế ng động cơ như gầm rú lên những tiếng động inh tai. Tôi nhìn ra bên ngoài, những rào kẻm gai sét rỉ, những bụi cỏ nắng cháy khô cằn bị lãng quên với dáng vẽ hoang phế tiêu điều, đang vun vút như chạy, như đuổi cùng vận tốc lướt nhanh của chiếc phi cơ trên đường nhựa gồ ghề...
Người phi công tiếp tục cho chiếc phi cơ lăn bánh từ từ vào vị trí bãi đậu. Tôi tự hỏi, bây giờ mình đã đến phi trường Tân Sơn Nhất rồi sao! Mình đã về tới Sài Gòn rồi sao! Tôi cũng làm theo m ọi hành khách khác, những bà con khác. Cũng xuống phi cơ, lên xe ca, tôi quên không biết lúc bấy giờ có trình giấy tờ gì không, cũng lãnh hành lý, cũng bỏ tiền "cò" qua một vài quày kiểm soát. Bên ngoài n hà kiếng có thân nhân của tôi chờ sẵn. Bao nhiêu mừng mừng, tủi tủi, nước mắt trào ra... Rồi tôi lên chiếc xe chời sẵn. Chiếc xe lăn bánh rời phi trường vòng vèo trong đường phố SaiGòn rồi trực chỉ con đường ra Phú Lâm. Chiếc xe chạy vun vút qua cầu Bình Ðiền, Bình Chánh, Bến Lức, Long An, Ngả Ba Trung Lương, Cai Lậy, Cái Bè, Giáo Ðức, Bắc Mỹ Thuận. Mặc dù qúa mệt mỏi cho một chuyến đi dài nh ưng tôi cố giương đôi mắt nhìn kỹ quê hương thêm một lần cho thỏa lòng nhung nhớ.
Qua bắc Mỹ Thuận với dòng sông Cưủ Long đục ngầu, chảy xiết của con nước đổ tháng Năm. Với cảnh ồn ào, tấp nập, hỗn tạp của hàng quán hai bên đường, của xe cộ, của khách bộ hành kẻ qua người l ại tôi cảm thấy cơ thể như mệt đừ. Chiếc xe chạy thêm mấy mươi cây số với con đường tỉnh lộ gập ghềnh ổ gà, lỗ trâu bằng cái nia, cái thúng. Rồi tôi cũng về tới quê tôi-một làng quê nghèo - với con rạch cạn nước, với cánh đồng lúa thân yêu, con đường đất h(c)p ngoằn nghoèo. Những anh em, bằng hữu, chòm xóm, con cháu bu quanh mừng tôi trở về sau bốn năm họ đã chảy nước mắt tiễn tôi khi t ôi ngâm ngùi rời bỏ quê hương. Tôi cũng nhớ có gặp lại chú hai Khá -người lính Sư Ðoàn 21 những ngày chiến tranh, người bạn nông dân, người bạn cùng giăng lưới giăng câu, người hàng xóm nghèo sát bên nhà tôi cách con mương nhỏ.
Tiếng tít tít... của đồng hồ báo thức làm tôi giật mình tỉnh giấc. Tôi thấy mình đang còn nằm trong căn phòng với giấc ngủ chập chờn. Thì ra tôi vừa nằm mộng thấy mình vừa về thăm lại căn nhà t hân yêu với tất cả nỗi lòng nhớ về quê cũ, nhớ anh em, bằng hữu, nhớ chòm xóm ngập đầy...
Từ ngày qua Mỹ tới giờ với những ngày tháng sống lưu lạc nơi xứ người, thỉnh thoảng tôi cứ nằm mơ thấy những lần về thăm nhà như vậy hoài. Mà lần nào cũng như lần nào, sau cơn mơ tôi đều rưn g rưng nước mắt.
Bên tách trà ngào ngạt mùi thơm hoa lài bốc khói mà anh tôi mua ở tiệm Chánh Hương -một hiệu trà mà anh em tôi rất hạp khẩu vị và rất thích uống mỗi khi có dịp ngồi lại với nhau ở quê nhà, sau một ngày công việc đồng áng vất vả nặng nhọc của những ngày hàn vi, cơ khổ nhất trong cuộc đời-Và vừa mới gởi qua cho tôi cách nay mấy hôm cùng với cuốn video ghi lại tất cả anh em, bằng hữu, con cháu, chòm xóm, mồ mã tổ tiên, vườn tược, ruộng lúa-những gì thân thiết nhất, gần gủi nhất, chân thật nhất mà không lúc nào rời xa trong lòng tôi. Ngồi trước màn ảnh Tivi tôi dán cặp mắt vào từng gốc cau, gốc mít, những con đường, những lối mòn, chiếc cầu khỉ bắt ngang con rạch, bờ rào xương rồng, những tảng đá lót trên lối đi dẫn xuống bên con rạch cạn nước. Bên cạnh cái kiệu màu da lươn mà mẹ tôi ngày xưa để lại, đựng đầy nước với chiếc gáo bằng sọ dừa mòn nhẵn được úp lên đầu một nhánh tre ngắn cắm bên cạnh, cao hơn miệng kiệu độ vài tấc vẫn còn nguyên văn. Ðặc biệt tôi nhận ra ngay bụi tre Mõnh Tông với những thân tre suôn đuột bên gốc xoài lớn nhất trong vườn tôi, che rợp bóng mặt trời quanh năm. Nơi chốn mà chú hai Khá thường hay ngồi với chúng tôi trên chiếc đệm cũ rách nhắm nháp vài ly rượu đế mỗi khi có con rắn, con lươn mà chú đi đồng bắt được đem về, sát bên con mương nhỏ dẫn nước lên ruộng hoặc tháo nước từ trên đồng ra mỗi khi lúa bị ngập, bị chìm.
Sở dĩ tôi gọi Hai Khá bằng chú vì Hai Khá nhỏ hơn tôi vài tuổi. Theo thói quen ở nhà quê rất trọng tôn ti trật tự trong giao tiếp hằng ngày. Cách xưng hô giữa người này với người khác rất rành rọt - Ðáng anh gọi bằng anh, đáng em gọi bằng chú kèm theo thứ tự trong gia đình. Chẳng hạn anh hai, anh ba hoặc chú hai, chú ba. Nếu thật là thân tình, người lớn tuổi hơn có thể gọi người nhỏ tuổi hơn bằ ng chú kèm theo cái tên mà cha mẹ đặt cho. Ðó chẳng qua là cái trật tự trong thôn, trong xóm có từ xa xưa và duy trì cho tới bây giờ. Vì vậy tôi gọi Hai Khá bằng Chú Hai Khá vì giữa tôi với chú có nhiều cái khắn khít, thân tình trong những ngày tôi về quê làm ruộng gần bên chú.
Bên kia con mương là vườn chuối lá ta che khuất ngôi nhà ọp ẹp như một mái chòi, mái trại mà gia đình chú hai Khá đã sống chui rút ở đó. Mồ coi mẹ từ nhỏ. Cha thì bỏ quê đi lập nghìệp ở Kiên Lương, Rạch Giá. Chú hai Khá sống với Ông Bà Nội từ những ngày thơ ấu. Cha mẹ đặt cho chú tên Khá nhưng gia đình chú thì nghèo lắm. Dường như có đến ba đời. Tôi thường nghe Tía tôi kể lại. Suốt đời Ông Nội của chú nghèo đến đỗi không có trong nhà được một đồng một cắc chứ đừng nói lúa chục, lúc trăm. Ông Nội chú Hai Khá quanh năm chuyên nghề nhắp cá với chiếc xuồng câu đóng rong r êu, với cây cần câu nhắp, với những con cá mồi bằng ngón chân cái như các loại cá rằm, cá rô. Ông Nội của chú thả hết đầu sông đến cuối sông dựa theo mấy gốc cây gáo, cây bần phủ bóng mát hoă .c mấy đống chà. Tay mặt cầm cần câu, tay trái với cây dầm giữ cho chiếc xuồng đứng yên tại chỗ. Hôm nào may mắn, ông nhắp được vài ba con cá lóc. Có hôm chẳng được con nào. Cuộc sống gia đình chú hai Khá đắp đổi qua ngày nhờ vào mấy con cá lóc mà ông Nội chú nhắp được. Thêm vào đó là tiền bán được vài nãi chuối lá ta mua gạo, mua muối, mua dầu lửa... Khi chú hai Khá ở tuổi mười lăm, mười bảy là bắt đầu một đời làm thuê, làm mướn như đào đất, cuốc khoai, cắt lúa phụ giúp Ông Bà Nội chú tuổi già.
Rồi chiến tranh càng ngày càng ác liệt. Chú hai Khá không ở nhà được. Chú tình nguỳện đi lính Sư Ðoàn 21 bộ binh. Vậy mà chú cũng đã đi lính như vậy hơn mười năm trời. Mãi tới sau tháng tư năm 75, chú mới về quê tiếp tục lại cuộc sống nông dân ngày cũ.
Bây giờ là tháng năm âm lịch. Nước sông Cửu Long bắt đầu đục ngầu. Con rạch Cái Tàu không còn cạn nữa. Dường như lúc nào vào những ngày tháng này dòng sông Cửu Long cứ chảy xuôi về biển không c ó con nước chảy ngược về nguồn như những ngày tháng giêng, tháng hai. Những cơn mưa lớn ở nguồn cũng như những cơn mưa tháng năm của vùng đồng bằng đã kéo theo những bùn, những đất làm cho dòng nước càng thêm ngầu đục. Con nước cứ lớn dần, lớn dần mãi cho đến tháng bảy, tháng tám, tháng chín mọi cánh đồng biến thành một biển nước. Nếu không có những con kinh, con rạch nhỏ, những vườn cây , những con đường làng, những con đường tỉnh lộ chia đồng bằng ra từng ô, từng vùng thì cả vùng châu thổ sông Cửu Long vào những ngày tháng tám, tháng chín là một biển nước trùng trùng... Ðủ mọi loại cá tôm từ trên nguồn, từ Biể Hồ bên Nam Vang, từ trong dòng sông Cưủ Long muôn đời sanh sôi nảy nở cùng với cơn nước lũ theo các con kinh, con rạch, con sông nhỏ tràn lên đồng, lên ruộng. Những cơn mưa dầm làm mực nước càng lúc càng lên cao. Những cơn gió chướng kéo về làm dậy sóng bạc đầu, nhiều lúc làm trôi dạt xuồng câu, xuồng lưới. Ðôi khi gió mạnh làm lật úp hoặc hất tung những tấm rèm che mưa che nắng. Tôi nhớ chú hai Khá vô vùng về những đêm giăng lưới giăng câu vào những ngày tháng đó.
Cuộc đời chẳng còn gì sau bao nhiêu năm tháng dặm trường, vinh nhục. Tôi theo chú hai Khá lên đồng lên ruộng, chập chửng làm một "ngư ông tài tử." Ðể có cơ hội hít thở khí trời bao la mà không bị c ản ngăn. Ðể được nhìn ánh trăng tròn mười sáu trên bầu trời trong cũng như được ngắm bóng trăng lung linh trên biển nước bạt ngàn mà nhớ lại hai câu thơ dễ thương của thi sĩ Trụ Vũ ngày nào:
Em mười sáu tuổi, trăng mười sáu
Mười sáu trăng rồi, em nhớ không.
Và cũng để có được những cảm xúc lạ thường khi bắt được những con cá dính lưới dính câu mà tôi thì không đủ chữ nghĩa diễn đạt hết được niềm vui lâng lâng như bất tận đó...
Sau một đêm với đồng, với cá kể cả với muỗi vo ve không ngớt, khi nghe tiếng chuông chùa làng "công phu hiệp nhứt" từ xa vọng lại - có lẽ vào khoảng 4 giờ sáng - là lo cuốn lưới, cuốn câu. Ðể rồi cò n bơi xuồng về nhà khi trời chưa sáng hẳn cho kịp buổi chợ quận ban mai. Vợ tôi bán vội vài ba cân cá. Mua muối, mua dầu tạm sống qua ngày.
Trưa trưa trở lại đồng với chiếc xuồng câu đầy đủ bộ vận những lưới, những câu, cơm, gạo cùng lò cùng củi và năm ba bó lá dừa để dành nhóm lửa. Nhà tôi cũng thường gói theo cho tôi vài nồi trà cùng tờ báo Văn cũ rách mất bìa nhét trong nồi gạo, để những lúc nằm chờ cá, đọc lại những truyện ngắn, những bài thơ của các văn sĩ, thi sĩ một thời.
Chú hai Khá dạy tôi cách bủa lưới, bủa câu. Mùa nào giăng bắt loại cá nào và phải biết dùng những câu những lưới cho từng loại cá. Kể cả mồi dùng để nhử cá cũng phải theo từng mùa. Chẳng hạn m uốn bắt cá lóc thì tháng năm, tháng sáu, tháng bảy dùng mồi nhái với lưỡi câu dấu ó loại vừa vì cá còn nhỏ. Nếu dùng lưỡi câu đúc thì lớn quá, con cá nhát ăn. Nếu dùng lưỡi câu nhỏ qúa, cá lại dễ sẩy. Tháng tám, tháng chín thì dùng mồi cua, lưỡi câu đúc. Những con cua bằng ngón tay cái là vừa. Lưỡi câu được tóm với sợi dây gân dài độ ba bốn tấc, buộc vào giường câu thả ngầm dươ 'i đất. Vì cá lớn thường nằm sâu dưới gốc cỏ, gốc rong, gốc rạ. Khi cần mới lên ngốp thở trên mặt nước, chứ không lóc chóc táp mồi trên ngọn cỏ, ngọn rong như mấy con cá nhỏ. Luồng câu cũng ph ải dọn cho sạch rong, sạch cỏ để con cua mồi không bị vướng, bò tới, bò lui dễ dàng, tự nhiên như những con cua khác trong nước trong bùn. Như vậy cá sẽ dạn ăn hơn. Tháng mười, tháng mười một, trời tr ở lạnh. Cá bị ê răng. Chú hai Khá dạy tôi nên dùng mồi cắt-tức là những con cá linh được cắt ra làm hai, làm ba cho vừa miếng mồi tùy theo lưỡi câu lớn hoặc nhỏ. Còn mồi trùn mùa nào dùng cũng đu +ợc. Cá loại nào cũng thích mồi trùn nhưng ít khi bắt được cá lớn.
Còn lưới cũng phải tùy tháng, tùy mùa, tùy cá mà có những loại lưới. Chẳng hạn muốn bắt cá rô thì dùng lưới loại hai phân rưỡi hoặc ba phân. Cá trắng như cá mè vinh, cá vảnh thì lưới năm phân vào đầu mùa khoảng tháng bảy, tháng tám. Muốn bắt cá mè vinh cườm, cá hô đất, cá thác lác còm-loại cá có bảy chấm đen tròn bằng đầu đủa ăn ở đuôi cá xếp thành một hàng dài-thì dùng lưới từ năm ph ân rưỡi tới sáu phân. Còn lưới bốn phân bắt đủ loại cá bằng cổ tay như cá trê, cá lóc nhỏ, cá rô lớn hoặc cá mè vinh, cá vảnh cả ba ngón tay, cá lớn thì không bắt được. Còn muốn giăng bắt cá linh thì phải đặt thợ đan loại lưới bằng nilon nhuyễn. Lỗ lưới từ một phân đến một phân rưỡi là vừa vì cá linh con lớn nhất cở bằng ngón tay cái.
Vào tháng năm âm lịch trứng cá linh mới nở. Tháng sáu, tháng bảy cá linh còn nhỏ. Tháng tám, tháng chín cá linh thật sự đã lớn. Cá linh ở trong rong, trong cỏ. Vào sáng sớm, lúc hừng đông và buổi chiều khi mặt trời gần sáng, cá linh từ trong rong trong cỏ, từng đàn, từng đàn kéo ra những láng trống "ăn móng nheo con." Thêm vào đó, những đàn nhạn đất bay phía trên đầu kêu chí-choé như báo hìệu những con mồi lội đặc trong nước. Giăng lưới cá linh thì chọn những láng trống như vậy để mà bủa lưới. Lưới cá linh viền dưới có dằn nhữn g miếng chì nhỏ nên vừa bủa lưới xong, dạo lưới được căng ra, viền dưới nằm cách mặt đất, mặt bùn vài tấc để cua khỏi kẹp lưới. Sau khi bủa lưới, hút tàn điếu thuốc thì thăm lưới là vừa.
Cá linh dính từng chùm, từng chùm. Nhiều lúc chúng cuộn lại với nhau làm cho dạo lưới xoắn tròn như sợi dây luột buộc ghe với cá là cá. Những lần như vậy chú hai Khá thích lắm. Không có cách nào ngồi gỡ từng con, từng con. Chú dạy tôi cuộn lưới lên xuồng rồi giủ, giủ mạnh, cá sẽ rớt ra. Rồi lại tiếp tục kiếm những láng trống như vậy bủa lưới tiếp. Hết luồng lưới này tới luồng lưới khác không ngớt tay. Giăng lưới cá linh là cực nhất. Hai bàn tay chú hai Khá rướm máu vì nước ăn lỡ loét. Tôi thấy chú hay đem theo chai nước phèn chua hoặc những lá gáo non. Chú vò nhuyễn lá gáo ra, chà sát vào những chỗ nước ăn. Rồi chú lấy nước phèn chua thoa thoa lên những kẻ ngón tay, ngón chân rướm máu đó cho da thịt săn lại. Tôi nghe chú hít hà vì đau rát.
Giăng câu cũng cực vì phải đi thăm câu hoài. Nếu để lâu cá dính câu sẽ vẫy vùng, dễ bị sẩy. Giăng lưới cá mè vinh là khoẻ nhất, nhàn nhất. Mỗi luồng lưới cá mè vinh có khi cả ngàn thước. Chú hai Khá thường có những luồng lưới dài như vậy. Tôi thì không chuyên nghìệp, nên luồng lưới của tôi chỉ năm trăm thước là nhiều. Trên cánh đồng bao la, không phải chỗ nào cũng bủa lưới được. Phải chọn luồng, chọn địa thế, chọn cá. Chẳng hạn nên tránh những vùng có rong mền-loại rong như màu cứt ngựa, mềm nhũng, khi bám vào mặt lưới làm bít chịt các lổ lưới như chiếc mền. Cá ở rải rác trong rong đuôi chồn, trong những đám bông súng ma, hoặc rong mã đề lưa thưa, theo những dòng nước mát của các ngọn mương dẫn lên đồng lên ruộng. Vì thế nên chọn những luồng lưới ở những địa thế này là lý tưởng nhất.
Sau khi bủa xong một luồng lưới dài như vậy, chú hai Khá cũng như tôiđều nằm xấp trên mũi xuồng, tay trái nắm viền lưới để lần chiếc xuồng đi tới, tay mặt vẹt rong vẹt cỏ, vừa quạt quạt cho dạo lưới căng ra chìm xuống mặt đất nằm giữa gốc rong, gốc cỏ gọi là dằn lưới. Dĩ nhiên, sau khi phải nằm áp ngực lên mũi xuồng với một luồng lưới dài như vậy, lồng ngực bị cấn đau, trái tim bị ép lại rất là cơ khổ. Nếu không làm như vậy, lưới không căng ra, cá sẽ chui dưới luồng lưới, có khi cả ngày không dính mmột con. Dằn lưới xong là xong. Tìm một bóng cây nào đó hay tấp vào đám bô ng điên điển cắm sào, buộc xuồng, căng cà rèm lên che nắng, nấu cơm, nấu nước uống trà mà nghe thơ thới trong lòng, quên đi thế sự. Trong khi chờ đợi những con cá vất vưởng kiếm ăn đi ngang luồng lưới, tôi và chú hai Khá mặc tình kể cho nhau nghe những chuỳện trên trời dưới nước. "Chim trời cá nước" mà! Người ta có thể giam hãm thể xác mình, "quản chế" sự đi lại của mình nhưng làm sao làm tu ` hãm được những ý nghĩ, những nhớ nhung về một qúa khứ của đời mình.
Chú hai Khá ơi,
Tôi đang nhớ về chú, đang nhớ lại những lần anh em mình đi giăng lưới, giăng câu như vậy-những lần chú kể cho tôi nghe về những trận đánh mà chú đã tham dự với hơn mười năm chú tình nguỳện đi l ính Sư Ðoàn 21 Bộ Binh. Chú đã kể trong niềm kiêu hãnh, trong sự tự hào - những trận đánh ở U Minh, ở Bà Ðầm Thác Lác, ở Bạc Liêu, ở Hoả Lựu Vị Thanh v.v... và cả những lần đơn vị chú về tăng cường giải tỏa Bình Long An Lộc. Chú đi lính nhưng lòng chú lúc nào cũng nghĩ rằng chú là một nông dân, không kiêu căng hách dịch, không hận thù. Nhìn thấy những em bé, những cụ già hớt hải từ vùng địch chạy về phía lính Sư Ðoàn 21 tìm nơi bình an, chú thương cho những cụ già, những em bé - những người dân vô tội. Dường như gặp được lính Việt Nam Cộng Hoà - bất cứ binh chủng nào - bà con tươi lại nét mặt và tin rằng mình đã thoát chết. Sau tháng 4-1975 khi trở về với đàn con nheo nhóc để sống đời nông dân cũ ngày nào, chú hai Khá vẫn không lấy gì làm ân hận cho một chọn lựa của mình. Chú không rụt rè và cũng không mặc cảm. Trái lại chú còn hãnh dìện với huy hìệu Sư Ðoàn 21 mà chú đã mang trên vai. Chú thích mặc lại chiếc áo trận cũ dù có vá nhiều lổ như một niềm vui, một bằng lòng với số phận đời mình. Và điểm đặc bìệt là chưa bao giờ chú nghĩ là chú thua trận sau chiến tranh. Hễ có dịp là chú cứ nhắc đi nhắc lại hoài những trận đánh, những chiến công của đời chú, của đại đội , của tiểu đoàn... Dĩ vãng đời lính như một cái gì không thể dứt ra khỏi cuộc đời chú hai Khá. Phải chăng dòng sinh mệnh trọn vẹn một đời người gồm cả ba giai đoạn dĩ vãng, hìện tại và tương la i góp lại. Nếu ai chối bỏ một trong ba giai đoạn đó thì cuộc sống chẳng còn gì ý nghĩa, thú vị - sống mà như đã chết tự lúc nào.
Bà con chòm xóm, ai ai cũng mến chú, nễ chú ở sự khí khái, ở sự trung thành của một người lính và thương chú, giúp đỡ chú cảnh con đông, nheo nhóc cơ hàn.
Tôi nhớ có một lần bà Nội chú hai Khá già quá, bệnh và qua đời. Trong nhà chú không có một hột gạo, không có một đồng, một cắc. Anh em chòm xóm, ai có gạo mang gạo, có tiền mang tiền gom góp lại giúp chú. Họ còn tổ chức từng toán, từng toán đi đầu trong, xóm ngoài quyên góp thêm giúp chú lo việc ma chay.
Dường như những khi giàu sang người ta thường cho nhau lễ nghĩa và lúc nghèo khó, cơ hàn, người ta dành cho nhau trọn vẹn tấm lòng.
Ðời sống của người dân ở chợ búa còn đó. Ðời sống của người nông dân chơn chất, lương thìện ở đồng ở ruộng những ngày tôi về quê khổ sở, vất vả trăm bề. Có nhiều người như gia đình chú hai Khá khi mạnh không đủ ăn, khi đau không thuốc uống, khi chết chẳng có tiền lo chôn cất, ma chay... Nhưng bù lại đời sống ở trong thôn, trong xóm là một đời sống đầy tình người, một đời sống chan hoà yêu thương, thắm thiết, mặn nồng. Ông bà thường khuyên con cháu: "Bà con xa không bằng láng giềng gần" mà.
Thắm thoát mà tôi đã xa chú hai Khá tròn bốn năm. Bốn năm tất bật với cuộc sống ở một xã hội ồn ào, nhộn nhịp như chạy như bay từ cái ăn, cái ngủ cho đến cái đi, cái đứng. Nhiều lúc ra khỏi n hà trời chưa sáng hẳn và khi trở về mặt trời đà lặn tự lúc nào. Không gian và thời gian cùng con người cứ cuộn lấy nhau chạy đua trong một cuộc vật lộn không ngừng... Con người thì không thể bắt kịp không gian, thời gian về thể xác nhưng cõi lòng vượt xa không gian, thời gian để tìm về với người thân, với bằng hữu, với quê cha đất tổ muôn đời. Như tôi đã gặp lại chú hai Khá tối hôm qu a trong giấc mộng-một giấc mộng đẹp mà tôi cứ ngỡ là có thật ngoài đời.
Chú hai Khá ơi,
Cứ mồi sáng trên đường đến sở làm đi qua chiếc cầu bắt ngang con rạch, nước ròng bỏ bùn, bỏ bãi để lại bờ cỏ chơ vơ còn ướt mù sương với cái gió nhẹ ban mai. Buổi chiều về, con nước lớn ngập đầy con rạch, mấp mé tràn bờ với cái nhấp nhô của những ngọn sóng xô dạt bởi những làn gió mát từ biển lùa về. Tôi nhớ quê hương mình quá đổi. Tôi nhớ con rạch mình khi cạn nước - muốn đi chợ, hoặc đi xay lúa phải lội bùn, lội bãi đẩy chiếc xuồng nặng chịch ra con sông lớn. Cơ cực biết dường nào. hay khi nước rong, nước lớn tôi với chú thường ra đồng rút bộng, khai "chen" cho nước theo con mương tràn lên đồng lên ruộng. Dường như chú cũng như tôi - hai anh em mình cùng nghe được tiếng reo vui của cánh đồng lúa sau bao ngày nắng cháy, khô cằn khi những dòng nước mát róc rách bò dưới gốc, dưới rễ ngập đầy. Và đặc biệt tôi đang nhớ về chú-người hàng xóm nghèo nhất ở quê tôi, người lính Sư Ðoàn 21 gan lì nhưng nhân hậu, người bạn nông dân một thời giăng lưới, giăng câu.
Tôi nhớ về chú kèm với nổi cắn rứt trong lòng vì tôi không giúp gì được chú nhiều. Với vài mươi đồng quà để chú mua câu, mua lưới, mua dầu chai "lấp vò" lại chiếc xuồng câu cũ mục để làm ph ương tìện kiếm gạo, kiếm cơm nuôi sống gia đình. Một chút ít tiền bé nhỏ như một chút tình, xin chú vui vẻ nhận như anh em mình đã ở bên nhau ngày nào, hiểu nhau nhiều, cảm thông nhau nhiều, thương nhau nhiều...
Tận bên trời này, xa xôi nghìn trùng, tôi tin rằng tôi còn có chú ở trong đời - nghĩa là tôi còn có niềm vui trong những ngày tháng xế chiều hiu hắt, mông quạnh, buồn nản này...
Lương Thư Trung
Boston ngày 10-6-96