vhnt, số 246
13 November 1996
Trong số này:
thư vhnt..................................................................PCL
T h ơ :
1 - Hạt nút rời khuy ........................................Thận Nhiên
2 - Buổi sáng, Skyline Drive .........................................Chinh
3 - Trăng trên đồi trọc .......................................Hoài Nam
4 - Vịnh lăng Tự Ðức ...........................................ian bui
5 - Quy Nhơn I, II, III .............................................Văn Cao
6 - Ðối thoại một đêm trăng mùa đông ...........Luân Hồ Triệu
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
7 - Giới thiệu film: Bí mật đảo Roan Inish .......................TCA
8 - thảo luận nhóm Ô-Thước:
"Một vài suy nghĩ về 'chàng và nàng' trong văn chương
Việt Nam" của Nguyễn Xuân Hoàng (phần 1/2) ...............o-thuoc
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
9 - Thu quyến rũ (tùy bút) ...................................Tứ Diễm
10- John Collier: Liều sau ....................................Y Cựu dịch
Thỉnh thoảng, tôi bị chìm đắm trong một ao ước mãnh liệt - được ôm ghì vào lòng một kẻ nào đó tôi yêu thương, một điều trừu tượng huyễn mộng chuyên chở hy vọng nào đó tôi tin tưởng, và chấm dứt sự sống ngay tức khắc, để điều trong tay tôi lúc đó sẽ mãi mãi là của tôi. Ao ước ấy ban đầu hiện đến, thoáng qua, như chỉ là một ý nghĩ bông đùa, nhưng dần dà ý nghĩ ngọt ngào ấy ở lại với tôi lâu hơn, có khi kéo dài trọn một tuần lễ. Một tuần lễ gọi là trăng mật đau đớn, tôi cân nhắc chọn lựa, để nhận thấy ngay trong thời điểm đó thật ra tôi không có gì cả, dù là người hay cả một điều trừu tượng chuyên chở hy vọng nào, để đem đi lúc sau cùng. Trong thời gian đó, tôi nghĩ nhiều về cha mẹ tôi, về người mẹ đau bệnh và khổ sở cả đời, và trong tinh thần của một kẻ mang ao ước một cách thành thực, tôi nghĩ điều ao ước nếu xảy đến, thì cha mẹ tôi rồi cũng sẽ được lo liệu cho đến nơi đến chốn.
Khi ao ước càng ngày càng như ăn vào tim, tôi nhận thấy tôi cần phải nói ra với một người nào như để bám lấy một chỗ bám và có người chứng minh cho niềm hy vọng của tôi. Tôi thường bắt gặp những lời khuyên nhỏ nhẹ, một sự im lặng có ý nghĩa, một câu chối từ tế nhị, có khi đó là lời cảnh giác tôi đang ở một tận cùng tuyệt vọng. Nhưng với tôi, đó là sự hy vọng sau cùng, là ước muốn của mọi ước muốn - được ôm trong lòng một người tôi yêu thương, hay cái điều hy vọng trừu tượng chuyên chở hy vọng, và chấm dứt sự sống ngay tức khắc. Không hiểu sao tôi đã có những phút như thế.
Và khi giai đoạn trăng mật với ý tưởng đã qua, tôi lại bước vào đời sống thường nhật, nối tiếp một ngày trong chuỗi đời sống, ngơ ngác như người vừa trở về từ một nơi không ai có thể đến được. Có thể có lúc nét mặt của tôi đã nói rõ về cái nơi không ai muốn đến đô Khi công việc chồng chất lên, ao ước cũng làm hao mòn hơi sức và có tiềm năng tàn phá, tôi mỏi mệt, cố gắng thôi không nghĩ ngợi, trung thành đóng vai trò hàng ngày, dù chỉ là một vai trò rất nhỏ nhoi không đáng kể trong khối nhân loại vĩ đại.
Chỉ trừ những buổi sáng thức giấc, khó khăn với cảm giác lẫn lộn vừa biết ơn vừa chán sự hiện diện của mình trong khung cảnh cũ, tôi trườn mình nhoài người nghe có tiếng chim hót lảnh lót và những chiếc lá lào xào ngoài lùm cây, bất chợt ý tưởng về một bài thơ thành hình. Tôi run rẩy tìm bút ghi xuống vội vàng, sợ nó bay đi mất, sợ nó bốc hơi tan đi khỏi ý nghĩ tôi. Và cái điều trừu tượng chuyên chở hy vọng kia bây giờ trở thành những câu hát trong nắng mai, bài thơ tôi ôm chặt trong lồng ngực. Tôi không có gì cả, và tôi đang có rất nhiều!
Thôi cứ đặt niềm bất hạnh ấy vào nơi Chúa đã an bài
khoác cho mình một manh áo mới
bước vào đời
hát trong nắng mai ...
- Nguyễn Quang Tấn -
oOo
Gửi bạn tình thương mến mà tôi còn có thể cho...
thân ái,
PCL/vhnt
Hạt Nút Rời Khuy
Tôi hôn lên giọt nước đọng trên bầu ngực em
ngọt mùi mưa đêm tháng bảy nhòa ánh đèn
cầu xa xe mờ xuôi ngược tóc bết đẫm tiếng
thở dài khuất sau trí nhớ
Ơn em không hỏi chuyện ngày sau trầu cau
mai mối tôi hai mươi tuổi trẻ biết gì hơn
lùa bốn bàn chân đùa ướt nước sông rác trôi
bềnh áo mưa che chung đầu hôn nối hôn mềm môi lưỡi.
Tôi tham lam mở cài có khi đứt khuy tay lùa mơn ngực...
Níu vai nhau huýt gió khẽ người yêu nếu ra
đi bì bõm dò dẫm lối về đường ngập nước
ổ gà coi chừng té sụp lỗ cống
Rã riêng một nỗi đau rời - tôi viết xong
câu lục không tìm ra câu bát vậy mà đã mười
ba năm vị nước mưa ngọt mềm đầu lưỡi em
rướn người run đón hôn tôi thả câu lục vào đêm
như hạt nút rời khuy như hạt nút rời khuy
Tôi cần cà phê sáng tỉnh táo bắt đầu
một ngày không câu lục không câu bát không
đứt khuy nút cài không mưa sầu tháng giêng
tháng bảy nhòa đèn cầu xa không rác sông không
trôi bềnh tóc bết không mưa đêm lối về không...
KHÔNG TRÍ NHỚ
Thận Nhiên
Buổi Sáng, Skyline Drive
Buổi sáng, Skyline Drive.
Mùa Thu.
Uống chút rượu để nhớ .
Mặt trời khô
Gió hấp hối
Dĩ vãng chưa chết hẳn
Thở hổn hển leo lên dốc trí nhớ
Ðưa hai bàn tay đón nắng
Tóc bạt gió
Châm điếu thuốc vàng đầy mùa thu.
Thắp lên hai hàng cây
Tiếng hát cũ.
Những thâm trầm lăn xuống vực
Cùng tôi
Muốn cầm dao đâm chết thời gian
Mà chiếc lá trên cành khô
vẫn rơi
xuống đất.
Máu chảy hoài theo dòng tâm thức.
Quật mồ ký ức
Những bãi bờ tôi.
Buổi sáng ở Skyline Drive.
Mùa Thu.
Uống rượu ngàn năm nhớ mãi.
Chinh
4 tháng 11, 1996
Trăng trên đồi trọc
Trên ngọn đồi hoang trọc
Lác dác một đàn bò
Ðêm trăng nằm ngậm cỏ
Những ngọn cỏ uá vàng
Hay là ánh trăng tan
Rớt xuống từng sợi nhỏ
Rồi ghép lại thành dòng
Một dòng trăng lạnh nhạt
Tôi bước qua hàng rào
Với tay vóc dòng trăng
Trăng tan như làn khói
Bỗng đàn bò hoang mang
Tôi muốn rớt xuống đồi
Cuối chân đồi có ngọn
đèn mờ nơi trang trại
Có chỗ nào cho tôi
Tôi nghe vọng từ xa
tiếng tru daì đăng đẳng
Tiếng gọi vọng lên trăng
Nhưng trăng vờ không biết
Tôi nghe vọng từ đâu
giọng tru trong tiềm thức
Những lời tru nức nở
Nhưng tôi lờ không hay
Tôi bước lại hàng rào
Trả lại cho đàn bò
Dòng trăng mờ như khói
Dòng trăng buồn như thơ
Hoài Nam
11/11/96
Vịnh Lăng Tự Ðức
Tượng mã đôi hàng, đá so le
Rường chồng giả thủ gạch chống tre
Nước xanh như lá êm như lá
Quanh quanh, vườn vạch lối thông che
Trước cổng thời gian mây trắng ngắm
Bên bờ thế kỷ gió thơm nghe
Gót chân thiên tử ngày hôn đất
Mỗi bước mình riêng mỗi vuốt ve
11'96
ianb
QUI NHƠN I
Một nửa hình con trai
Ngày
Lấp lánh sắc cầu vồng
Một nửa hình trăng
Ðêm
Nằm nghiêng trên cát biển
Quy Nhơn chúng ta
Vài dây buồm nhỏ
Vài con đường phố nhỏ
Vài ngôi nhà nho nhỏ
Vẫn ngày đêm lấp lánh
Mang vết thương xưa
Ngày đêm làm ngọc
Chưa được về Quy Nhơn
Mà nhớ em
Khuôn mặt càng hiền dịu
Càng lấp lánh
lấp lánh.
QUY NHƠN II
Tôi đã đến đây
Không phải Quy Nhơn
Chỉ một thành phố lạ
Biển đưa về vài chùm chim yến
Nắng làm khô những lá dừa non
Không phải Quy Nhơn đẹp
Các nhà thơ tôi đọc
Bích Khê, Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Xuân Diệu
Ôi Quy Nhơn hằng mơ
Khuôn mặt những con thuyền cá
Những người dân lầm lũi
Sau chiến tranh
Những người lái xe
Những xóm mọc bên đường
Chào mẹ
Các mẹ già lặng im
Chào các em
các em nhỏ lặng im
Lầm lì
Những vết thương xưa chưa xóa hết
Xây tất cả những tượng đài cao tưởng nhớ
Một thành phố lạ
Tôi đến đây để làm gì
Những chùm chim yến lại bay về đảo
Bỗng một ngày bà mẹ Quy Nhơn
Nói với tôi một lời
Một tiếng
À, con
QUY NHƠN 3
Từ trời xanh
rơi
vài giọt tháp chàm
Quanh Quy Nhơn
Tôi như đứa nhỏ yêu huyền thoại
Từ núi xuống
Từ biển vào
Từ cánh đông mọc lên
Con trai
Con gái
Nghĩa Bình
Một lưỡi mác
Vang tiếng trống Quang Trung
Xác xe tăng trên đường mười chín
Mọc giữa những làng dừa
Mẹ ơi muối đâu Sa Huỳnh
Phải mồ hôi làm nước biển
Mẹ ơi đường ngọt từ đâu
Phải mồ hôi đọng
Mẹ ơi các con từ đâu
Phải từ sữa mẹ
Mẹ ơi Quy Nhơn từ đâủ
Mảng trời chim yến
Mẹ ơi Nghĩa Bình từ đâu
Phải từ máu thấm
Không
Ðất này mọc lên
Từ
Nước mắt!...
15/04/1985
Văn Cao
Ðối thoại một đêm trăng mùa Ðông
Sương đêm?
- Lạnh!
Tiếng nguyệt cầm?
- Buồn!
Tiếng sáo?
- Buồn hơn!
Về quê?
- Nặng nề đôi vai tuổi trẻ
Hờn? Căm?
- Nhiều sau mấy cuộc chơi
Ánh trăng?
- Soi ... nỗi nhục tuổi trẻ
Ðộc lập, tự do, công bình...?
- Bánh vẽ,
lời nói suông buồn tẻ
Muốn giải sầu?
- Ðàn lạc cung!
rượu nước mắt!
Nhỡ
- Sông xưa,
chiều hoàng hôn ngày đi,
ngườ ở lại câm lặng, và...
chiếc thuyền nhỏ trên biển khơi
Ðời như chiếc lá rơi rụng
Sông dài, biển rộng, biết đụng nơi nào?
Luân Hồ Triệu
BÍ MẬT ÐẢO ROAN INISH
Tối hôm qua, tôi lạc vào thế giới huyền hoặc của câu chuyện cổ Ái Nhĩ Lan, có cô công chúa mắt to tròn và mái tóc vàng óng, có hoàng tử bé lướt sóng trên chiếc thuyền gỗ cẩn vỏ ốc. Câu chuyện nửa mơ nửa thật, mờ ảo như sương mù trên biển. Câu chuyện không cần biện minh hay giải thích, mê đắm người xem chỉ bằng đôi mắt não nùng của nàng ngư n Đôi mắt ướt với nỗi u buồn "sâu thẳm nh ư linh hồn"(1) của loài hải cẩụ Bạn có đang giật mình không? chắc tại vì tiếng con chim hải âu kêu đấy.
Một hòn đảo ngọc Ái Nhĩ Lan xanh mướt, bờ đá rêu xám đen, những chú hải cẩu quanh bờ và bầy hải âu trên cao, đó là bối cảnh cho Bí Mật của Roan Inish, một bí mật người ta thầm thì bàn tán xa xôi như ng không ai biết rõ. Cô công chúa của tôi là cô bé con người thuỷ thủ, cái nhìn đăm đắm và khuôn mặt nghiêm trang của những suy tính đi trước tuổi. Cô bé không có bao nhiêu kỷ niệm vui, ít khi cười, có cười chăng cũng là đôi môi mim mím, cười như sợ niềm vui không ở lại lâu. Một chiếc kẹp hay ruban nhỏ trên mái tóc vàng rối lọn, đôi chân trần, cô bé chạy nhảy qua những sườn đồi đi kiếm bí mật kia, không phải từ những mẩu chuyện hoang đường kể lại, mà từ nỗi khao khát yêu thương. Trên đỉnh đồi, cô công chúa nhìn thấy hoàng tử, tóc đen như trời đêm, đi dạo chơi trên cánh đồng hoa tím, xin h không kém gì Eros (chắc thế). Cuộc chạy đuổi của cô công chúa và hoàng tử bé, của thực và mộng, của tình yêu và lãng quên, cuối cùng dẫn về một đoạn kết không khác đoạn kết của những câu chuyện cổ tích: Họ sẽ hạnh phúc bên nhau suốt đời. Roan Inish mang vẻ đẹp hoang dã của hòn đảo ngọc, bàng bạc sương mù huyền bí Ái Nhĩ Lan, là biểu tượng cho sự hoà hợp tuyệt đối của con người và thiên nhiên, nơi con người thương nhớ thiên nhiên và thiên nhiên quyến luyến con người, huyền thoại cổ xưa nhất của trí nhớ loài người.
TCA
(1) lược dịch một câu trong phim
The Secret of Roan Inish
Dựa theo truyện Secret of the Ron Mor Skerry
Đạo diễn : John Sayles
Tài tử : Jenni Courtney
Thảo luận của nhóm Ô Thước (o-thuoc@saomai.org)
Một vài suy nghĩ về "Một vài suy nghĩ về 'chàng và nàng' trong văn chương Việt Nam" của Nguyễn Xuân Hoàng
Phùng Nguyễn soạn
oOo
Phần I
Vào lúc 16:20PST Chủ Nhật 27.10.96, tức 0:20GMT 28.10.96 (Greenwich Mean Time - giờ quốc tế), Phùng Nguyễn (PN) gởi bài tiểu luận Một vài suy nghĩ về "chàng và nàng" trong văn chương Việt Nam của nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng, đăng trong Văn Học số 127 tháng 11.96, lên diễn đàn Ô Thước. 10:25PST Thứ Ba 29.10.96, tức 18:25GMT cùng ngày, bài viết của Tuyết Phương (TP) gởi từ San Jose, California chấm dứt cuộc thảo luận của thành viên Ô Thước về bài tiểu luận nêu trên. Trong vòng 42 tiếng đồng hồ, 15 bài viết liên quan đến quan điểm của NXH trong việc nên hay không nên khai tử hai đại từ "chàng" và "nàng" trong tác phẩm va (n học đến từ Ðức, Canada, và nhiều nơi trong nước Mỹ dưới dạng điện thư mà phần nội dung được đăng tải dưới đây. Tuy nhiên, trước hết xin nói qua về phương thức thảo luận mới mẻ này của nhóm Ô Thước.
Ô Thước là một diễn đàn hạn chế (moderated newsgroup), được thành lập với hai mục đích: hỗ trợ tập san điện tử Văn Học Nghệ Thuật Liên Mạng (VHNTLM) và mở ra những cuộc thảo luận có liên quan dến văn học nghệ thuật nói chung. Diễn đàn này quy tụ thân hữu của VHNTLM, phần đông thuộc giới chuyên gia và sinh viên, và do Phạm Chi Lan, chủ biên của VHNTLM làm điều hợp viên. Phương tiện thông tin chính của nhóm là điện thư qua hệ thống Internet; nhờ vào đó, liên lạc giữa các thành viên trên khắp thế giới chỉ mất có vài phút thay vì hàng tuần lễ. Với phương thiện thông tin hiện dại này, biên giới địa l ý đã không còn là một trở ngại cho mục đích của nhóm. Tưởng cũng nên nói thêm là Ô Thước có hội viên đang sinh sống tại Pháp, Hòa Lan, Ðức, Nhật, Uc Ðại Lợi, Canada, và dĩ nhiên, Hoa Kỳ.
Thông thường, những cuộc thảo luận của nhóm bắt đầu với sự gợi ý của một hội viên, có khi là một câu thơ, một đoạn văn, một truyện phim, một ý tưởng, hoặc như trong "chuỗi" thảo luận này, một bài tiểu luận. Không khí thảo luận thường là thân mật, cởi mở, nhưng nghiêm chỉnh và thẳng thắn. Những bài tham luận thường là ngắn gọn, không hoa mỹ, đôi khi hơi cẩu thả trong cách hành văn, nhưng đủ để gói ghém tư tưởng của tác giả, khác hẳn với những bài viết trau chuốt, tỉ mỉ cùng một thể loại đăng trong các tạp chí văn học định kỳ. Ðiều này thực ra cũng dễ hiểu, ý tưởng được ném ra vội vã giữa hai công việc hoặc trong giờ nghỉ giải lao ở nơi tác giả đang làm việc hoặc học hành. Tuy vậy, điều này không bắt buộc phải có ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng thuyết phục của những luận cứ trong các bài viết. Nhận định này của người giới thiệu nhất định là rất chủ quan, cần được điều chỉnh bởi nhận xét của người đọc.
Trong phần dưới đây, xin gởi đến quý bạn đọc toàn bộ cuộc tranh luận liên quan đến Một vài suy nghĩ về "chàng và nàng" trong văn chương Việt Nam của nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng. Ðể quý bạn đọc có mộ t khái niệm về tính "cấp thời" và năng động của các diễn đàn điện tử, các bài tham luận dược sắp xếp theo thứ tự nhận được theo giờ
quốc tế (GMT).
oOo
0:20GMT Thứ Hai 28.10.96
Phùng Nguyễn - California, USA
Xin gởi đến các bạn bài tiểu luận của Nguyễn Xuân Hoàng (NXH), đăng trên Văn Học số 127 - 11/96. Trong bài viết này, NXH đã (hoặc có ý định) khai tử hai đại từ "chàng" và "nàng" trong tác phẩm văn học VN. Tất nhiên ông phải có lý do vững vàng nào đó để kết luận như vậy. Mong các bạn tham gia đông đảo trong chuỗi thảo luận này. Ðề tài tự nó không đòi hỏi nhiều, theo thiển ý, nhưng rõ ràng có ảnh hưởng đến phong cách sáng tác của người viết và cảm nhận của người đọc. Chúng ta hoặc là độc giả, hoặc là người sáng tác, hoặc cả hai cũng nên có một thái độ rõ ràng về những nhận định của nhà v ăn Nguyễn Xuân Hoàng. Chúc các bạn một tuần lễ mới vui vẻ và ... sôi nổi :)
(Xin tham khảo toàn bộ bài tiểu luận trong Văn Học số 127, 11/96.)
oOo
11:30:35 GMT - Thứ Hai 28.10.1996
Nguyễn Tiến Dũng - Florida, USA
Ðọc cái post của anh Phùng đề nghị chúng ta thảo luận về việc dùng chữ Chàng và Nàng dựa trên vài suy nghĩ của anh NXH làm tôi hơi áy náy, vì tại sao một cái tưởng chừng như rất đời thường như vậy lại đem ra mổ sẻ, đòi đổi mới ????? Chữ Chàng và Nàng xuất hiện đã lâu và còn được dùng đến tận bây giờ đã chứng tỏ văn học VN đã chấp nhận chúng như một thực thể không thay đổi. Tôi có thể vịn vào những lý luận của Nguyễn Hưng Quốc về bài thơ Con Cóc để bảo rằng Chàng và Nàng là hai danh từ Hay trong văn chương xưa cũng như nay. Chàng và Nàng là tiếng để ám chỉ nhân vật ngôi thứ ba. Trong tiếng Việt, có nhiều tiếng để ám chỉ nhân vật ngôi thứ ba: Dùng cho người nam thì có anh ấy, ảnh, hắn, nó, tên riêng (Tuấn chẳng hạn), y, gã, ông, chàng...hoặc dùng cho người nữ thì có: cô ấy, cổ, chị ấy, chỉ, tên riêng (Hương), ả, mụ, bà, Nàng....Tuỳ theo từng trường hợp, các nhà văn, nhà thơ của chúng ta đã dùng những tiếng trên để bỏ vào truyện mình. Thí dụ như dùng chữ Y, Gã, Hắn để ám chỉ một nhân vật không lương thiện. Hoặc dùng chữ CHÀNG để ám chỉ nhân vật chính đàng hoàng, có tư cách... Tôi thoải mái khi đọc CHÀNG và NÀNG trong Mười đêm ngà ngọc, Sống chỉ một lần của Mai Thảo. Tôi cũng thoải mái khi đọc CHÀNG và NÀNG trong những truyện du đãng nổi tiếng của Duyên Anh: Ðiệu ru nước mắt, Vết thù trên lưng ngư .a hoang...hoặc chữ Gã, Hắn trong truyện Kinh Nước Ðen của Nguyễn Thụy Long, v.v... Như vậy tuỳ từng hoàn cảnh và nội dung cốt truyện, nhà văn nhà thơ dùng những danh từ chỉ ngôi thứ ba để đặt cho nhân vật của hỗ Không có lý do nào để lọai bỏ CHÀNG và NÀNG trong văn chương hiện đại. Ai không muốn dùng CHÀNG và NÀNG thì tự do dùng cách kêu riêng của mình. Còn những truyện về tình yêu, CHÀNG và NÀNG không thể thiếu.
oOo
13:47:01GMT - Thứ Hai 28.10.1996
Chinh Ðinh - Virginia, USA
Trước khi nói về bài viết của NXH, Chinh hơi thắc mắc về đoạn này:
"nếu bỏ chàng và nàng thì sẽ thay bằng từ gì? Y? Ông ấy? Anh? Anh ta? Tên nhân vật? Cô ta? Người phụ nữ ấy? Chị ta?... Tôi chưa có câu trả lời ngay một cách rõ ràng và dứt khoát. Tôi chỉ giải quyết theo từng bài viết, từng sáng tác."
Nếu cách dùng "Ông ấy" hay "Anh" hay "Anh Ta" hay "Cô Ta" chỉ được NXH "giải quyết theo từng bài viết, từng sáng tác", thì Chinh nghĩ cũng có một vài trường hợp nào đó, tùy từng sáng tác, tác giả có thể dùng "Nàng" hoặc "Chàng". Chinh nhớ ngày xưa có đọc một truyện rất ngắn của Phan Thị Vàng Anh, PTVA dùng chữ "Nàng" và "Chàng" trong truyện ngắn đó rất hợp, và, đặc biệt là còn làm cách diễn đạt câu chuyện rất "mới". Người sáng tác có thể dùng một chữ rất cũ (ví dụ chữ "Chàng" ... cũ như "chàng" trong Chinh Phụ Ngâm) để áp dụng trong sáng tác của mình và làm sáng tác đó "mới" hơn . Chữ "Nguyệt" chắc là... cũ lắm, mà Trịnh Công Sơn làm thành rất "mới": "Từ trăng thôi là nguyệt
Là trăng với bao la
Từ trăng kia vừa mọc
Trong tôi không trí nhớ
Từ trăng thôi là nguyệt
Hôm nao chợt có lời thưa
rằng em thôi là nguyệt
tôi như đứa bé dại khờ"
Nhưng đoạn này là... thơ , có lẽ NXH chỉ muốn nói đến "chàng" và "nàng" trong truyện, trong tiểu thuyết . Sẽ trở lại sau nếu tìm được một ít "dẫn chứng " !!! :)
oOo
17:17:14 GMT - Thứ Hai 10.28.1996
Phùng Nguyễn - California, USA
Trong khi không đồng ý với Dũng là truyện tình (thơ tình, etc...) cần thiết phải sử dụng đại từ chàng và nàng, tôi đồng tình với Dũng ở những điều còn lại. Cũng như Chinh, tôi cho rằng nên để chính khả năng sáng tạo của người viết quyết định việc chọn lựa từ ngữ của họ hơn là lạnh lùng khai tử bất cứ từ nào đã góp phần làm giàu cho ngôn ngữ Việt. Xin góp ý thêm:
1. Tôi không nghĩ rằng nên loại bỏ bất cứ từ nào đã được sử dụng trong bất cứ thời điểm nào của nền văn học (và trong dân gian nói chung). Có nhiều từ đã lỗi thời vì lý do này hay lý do khác, nhưn g nếu cần thiết, hãy THÊM vào những từ mới. Anh ngữ chẳng hạn, trong thời gian gần đây đã mọc ra thêm vô số các từ ngữ mới để mô tả những sự vật chưa hề có từ trước. Chỉ riêng ngành điện toán, đã có biết bao nhiêu từ mới, và ai dám bảo là chúng dã không được sử dụng trong các tác phẩm văn học? Tóm lại, THÊM, không bao giờ bớt. Cũng xin nói thêm là tôi nghi ngờ khẳng định của NXH về sự tử vong của những từ "phàm là," "song le," "bèn"... Có thực là một bài viết sẽ không còn là một tác phẩm văn học với sự hiện diện của những từ đã nêu? Và tôi mong NXH chứng minh giùm tôi điều đo ' có thực, đã và ngay cả sẽ xảy ra!
2. Về việc loại bỏ từ "chàng và nàng," ý kiến của NXH không có gì mới là. Ðiều này đã được thực hiện ở miền Bắc trong suốt thờ gian nội chiến, và có thể còn kéo dài cho đến mãi gần đây. Vì thiếu tài liệu, mong được sự xác định (hoặc phủ định) từ Ðông A, Hồ Tú Bảo, Dũng Trọng Nguyễn, VyKhanh, KỳPhong, etc. để khỏi lâm vào cảnh nói không có căn! Lúc còn ở quê nhà, tôi thích Phan Tứ (Mẫn và Tôi) và Nguyễn Minh Châu (Dấu chân người lính). Họ là những nhà văn có thực tài. Bị giới hạn trong những điều kiện cực kỳ khắt khe về mặt phô diễn tư tưởng cũng như ngữ vựng, họ đã có khả nă ng diễn đạt rất phong phú, mặc dù sự gò bó vẫn được phát hiện trong từng trang giấy. Không hề có một chữ "chàng" hay "nàng" trong mấy ngàn trang giấy tôi đã đọc. Và tôi cho rằng không có "chàng nàng" chi hết trong bất cứ tác phẩm nào xuất bản tại miền Bắc trong thời gian chiến tranh. "Chàng nàng" là sản phẩm của tiểu tư sản, chấm hết!
Ðiều nêu trên không có mục đích chỉ trích hay than oán, mà chỉ muốn đưa đến một kết luận: không nên áp đặt một "tiêu chuẩn ngôn ngữ" nào trong phạm trù sáng tác văn học. Vô cùng bất công cho người v iết nếu họ phải né tránh một số từ ngữ cấm kỵ chỉ vì có ai đó tuyên bố rằng... Phạm Duy đã chết :) Theo chỗ tôi biết, ông vẫn còn sống hùng sống mạnh và sử dụng máy vi tính rất thuần thục (cố tình lạc đề :))).
3. NXH có quyền sử dụng hay không sử dụng bất cứ đại từ nào ông chọn. Ðó là chọn lựa cá nhân. Tuy nhiên, độc giả, những người mà tác phẩm được viết ra cho họ, sẽ có phần quyết định quan trọng tron g sự tồn vong của bất cứ từ nào. Chính họ là những người có quyền lực tối hậu trên sự phổ cập (hay thiếu phổ cập) của một từ văn học. Và cuộc hành trình của "chàng" và "nàng" đến bờ vực tu +? vong theo như NXH sẽ được thời gian trả lời, nếu chúng ta chịu khó chờ đợi.
oOo
18:23:22GMT Thứ Hai 28.10.1996
Ðông A Trần Minh Tiên - Dersden, Germany
Tôi mới đọc lướt qua bài của NXH, nhưng nghĩ rằng vấn đề NXH nêu ra thuộc vấn đề rộng lớn hơn, đó là vấn đề: Ngôn ngữ trong văn chương có cần phải là ngôn ngữ trong đời sống?
Ðã có nhiều người khi đọc các tác phẩm của các nhà văn Nam bộ đã cho rằng ngôn ngữ trong đó thiếu tính văn chương, và qua đó không đánh giá cao tác phẩm của họ. Ngược lại, khi đọc các tác phẩm của nhà văn Bắc bộ, người ta có cảm giác trong đó "chửi nhau cũng văn vẻ", ngoài đời có ai nói như vậy. Về chàng và nàng, tôi không thấy mấy ai dùng trong đời sống. Còn trong văn chương vẫn còn dùng. Ngày nay cũng không ai còn dùng thiếp, phu quân, nội tử... cũng như chưng, bui, phàm là... trong văn chương hiện đại. Vậy câu hỏi nảy ra là tại sao các từ này không được dùng trong văn chương nữa? Tôi nghĩ chỉ có câu trả lời, đó là đời sống không dùng nó nữa.
Vậy văn chương và cuộc sống có cần thiết phải liên kết trong ngôn ngữ và liên kết như thế nào? Nếu văn chương cứ tiếp tục dùng các từ ngữ mà cuộc sống đã đào thải thì cuối cùng văn chương sẽ tách biệt ra khỏi nguồn sữa đã nuôi chúng. Và như vậy mối liên hệ giữa văn chương, cuộc sống, nhân cách chỉ mang tính hình thức đầy giả tạo. Ðiều này có thể thấy khá rõ trong toán học hiện đại và cuộc sống, khi hai ngôn ngữ không còn thống nhất trong một nhân cách nữa thì mối liên hệ giữa toán học và cuộc sống chỉ mang tính hình thức, không còn gắn bó trong một quan hệ hữu cơ. Ngược lại, nếu cuộc sống không dùng các từ ngữ của văn chương nó sẽ trở nên tẻ nhạt chán ngắt và làm sao có thể sinh ra được nguồn sữa phong phú nuôi sống văn chương? Vậy văn chương và cuộc sống cần phải thành một thể thống nhất trong ngôn ngữ như thế nào? Cái gì có thể thống nhất chúng làm một dù chỉ trong ngôn ngữ.
oOo
18:13:27 GMT - Thứ Hai 28.10.1996
Phùng Nguyễn - California, USA
Ðông A, đây là một nhận định sâu sắc. Tuy nhiên, xin góp ý về ngôn ngữ văn hoc. vs. ngôn ngữ dân gian, đặc biệt về 2 chữ "chàng và nàng."
Tôi cho rằng thực ra không phải 2 từ này tự ý xa rời quần chúng mà chính vì ít nhất có 2 lẽ:
1. Sự thất bại của người sáng tạo (giới làm văn học nói chung) trong việc phổ cập hóa 2 từ này, vốn vô cùng tiện dụng trong chức năng thay thế những đại từ khác khi nói về nhân vật thuộc 2 phái tính 1 cách chung. Phần đông các ngôn ngữ khác có 2 đại từ này, il/elle, he/she, v..v... trong khi VN ta lại thiếu. Ðôi khi trong một tác phẩm, nếu gọi 1 nhân vật nữ là "cô" chẳng hạn, khi truyện kéo dài, nhân vậ t nữ này sẽ trở thành ... bà, thím, dì, chi đó v.v... Tôi không nghĩ là điều này sẽ có ảnh hưởng xấu đến tác phẩm, tuy nhiên độc giả thì thuộc nhiều lứa tuổi, cả nam lẫn nữ, có thể không cảm thấy những xưng hô cá biệt như vậy thích hợp ở vị trí của họ. Trong trường hợp này, "nàng" hoặc một đại từ mới nào đó có chức năng phổ cập tương tự có lẽ thích hợp hơn.
2. Như đã đề cập trong bài trước, "chàng nàng" không có chỗ đứng trong văn học miền Bắc từ 1954... Không có cơ hội, nên những đại từ này đã không được phổ biến trong dân gian. Cho rằng chúng tự tr ốn vào tháp ngà thì oan cho chúng quâ Tất nhiên, một người có thể lý luận rằng tại sao 20 năm được sử dụng tại miền Nam vẫn chưa đủ, điều này VyKhanh có thể giúp. Nên nhớ là "chàng nàng" có gốc gác và xuất hiện trước tiên trong văn học miền Bắc.
oOo
18:53:24 GMT - Thứ Hai 28.10.1996
Tuyết Phương - California, USA
1. Vốn dĩ văn chương và cuộc sống đã "tuy hai mà một, tuy một mà hai" từ ngàn xưa. Có rất nhiều chữ dùng trong văn chương không bao giờ được dùng bên ngoài đời sống. Tại sao? Có lẽ đơn giản chỉ vi ` nếu giống nhau y hệt thì không cần phải gọi bằng hai tên? Giống như ngôn ngữ, đề tài trong văn chương chính là bắt nguồn từ cuộc sống, nhưng không hoàn toàn là cuộc sống, vì nếu vậy đâu khác gì nghe chuyện ngồi lê đôi mách, ai lại gọi là văn chương? (tuy là nhiều nhà văn viết không khác...ngồi lê bao nhiêu, nhưng đó là chuyện...bên lề :))
2) Văn chương không thể tách rời cuộc sống, vì văn chương phải nương vào người đọc. Ðào thải văn chương (đề tài, kiểu viết, ngôn ngữ) đều do người đọc quyết định. Khi người đọc chê chữ nào, thì chữ ấy bị khai tr
oOo
10:42:49 GMT - Thứ Ba 29.10.1996
Ðông A Trần Minh Tiên - Dresden, Germany
Ðông A không đồng ý [với Phùng Nguyễn] ở luận điểm này.
Thứ nhất, chàng và nàng là những từ vốn từ đời sống đi vào văn chương. Tuy không thể chứng minh chặt chẽ ông bà ta thưở trước dùng chàng-nàng trong đời sống, nhưng căn cứ vào ca dao, dân ca còn tồn tại đến ngày nay thì có thể tin được điều này. Thứ hai, trước đây chàng-nàng không chỉ là đại từ ngôi thứ ba, mà còn là đại từ ngôi thứ hai. (Chàng học bài chưa? nàng đi chợ chưa?). Ngày nay văn chương chỉ còn muốn dùng chúng ở ngôi thứ ba. Tại sao ngôi thứ hai không thấy ai còn muốn dùng trong văn chương?
Như vậy, chàng-nàng đi từ đời sống vào văn chương, tồn lại trong văn chương, trong khi đó đời sống đã loại bỏ. Bài của NXH có nhắc Tản Ðà cách đây nửa thế kỷ chê truyện của Khái Hưng hơi quê vì dùng chàng-nàng cho thấy lúc đó chàng-nàng đã bị đời sống đang loại bồ Khái Hưng có lẽ muốn "phục hưng" chàng-nàng trong đời sống qua văn chương nhưng rõ ràng đã thất bại. Thất bại không chỉ vì miền Bắc không sử dụng trong văn chương, mà trong đời sống cả hai miền không ai còn dùng nữa. Tại sao ngoài đời không ai muốn dùng nữa? Tôi chưa tìm được câu trả lời, nhưng tin rằng ngôn ngữ cũng có nhữn g logic nội tại, song song phát triển cùng nhân tố xã hội và con người. Truyện Hồ Biểu Chánh đầy dẫy chàng-nàng, nhưng có ai ở Nam bộ dùng chàng-nàng ngoài đời? Tất nhiên, ngày nay ai muốn dùng gì th ì do người đó quyết định, nhưng cuộc sống cứ cuồn cuộn trôi theo lẽ của mình, đâu cần phải đợi ai.
còn tiếp phần II
Thu Quyến Rũ
Hơn tuần nay, thời tiết thật lạ. Có những hôm, trời nắng thật đẹp. Không phải ánh nắng gay gắt tỏa hơi nóng hầm hập của mùa Hế Cũng chẳng phải ánh nắng chói chang báo hiệu một ngày buốt giá của mùa Ðông. Mà là những tia nắng hanh vàng ấm áp, hòa nhịp với những làn gió mát hiu hiu khiến lòng người chợt thoáng xao xuyến, bâng khuâng. Có những hôm, trời mưa dầm dề. Trời đất u ám, cây cỏ xơ xác vì những trận mưa dai dẳng kéo dài tưởng chừng không bao giờ tạnh. Có những hôm, trời đang nắng, bất chợt lại mưa. Những cơn mưa ào ào đổ như trút nước. Những hạt mưa nặng nề rơi xuống tạo thành những tiếng ầm ầm trên mái nhà, đan kết lại thành những màn lưới màu xám bạc phủ giăng khắp nơi nơi. Rồi tụ lại thành những dòng nước chảy xiết hai bên lòng đường. Thế rồi, mưa chợt tạnh, trời lại trở nắng. Những tia nắng lung linh chiếu xuyên qua những vòm cây còn lóng lánh những giọt nước mưa tạo thành những mầu sắc rực rỡ của cầu vồng. Phải chăng đó là những dấu báo hiệu mùa Thu đang trở về?
Mùa Thu, mùa gợi nguồn cảm hứng của thi nhân để dệt nên muôn vần thơ trầm bổng, mùa khơi động tâm hồn của nhạc sĩ để viết lên biết bao khúc nhạc tuyệt vời ca tụng mùa Thu. Mùa rừng cây thay đổi sắc áo tạo nên bức tranh lập thể với muôn vàn màu sắc được điểm tô bởi nét cọ thần kỳ của thiên nhiên khiến ngẩn ngơ lòng người. Có thể nói mùa Thu là mùa tuyệt vời nhất ở vùng đất giá băng này. Mùa Thu không quá ngắn ngủi như mùa Xuân, không nóng bức hừng hực như mùa Hè, cũng không rét buốt lạnh lẽo như mùa Ðông. Tuy mùa Thu ở nơi đây không có cảnh:
Con nai vàng ngơ ngác
Ðạp lên lá vàng khô ..."
(Tiếng Thu - Lưu Trọng Lư 1937)
nhưng vẫn đủ khiến rung động lòng người.
Kể cũng lạ. Chỉ sau vài cơn gió mát dìu dịu thoáng qua, cả thành phố bỗng dưng nhuốm một sắc thái khác hẳn bầu không khí rộn rịp, hối hả của mùa Hè. Những chiếc áo T-shirt, những bộ áo tắm màu sắc sặc sỡ âm thầm nhường chỗ cho những bộ y phục mùa Thu với màu sắc hài hòa, thanh nhã. Thời tiết cũng đột ngột đổi thay. Những buổi sớm đầu Thu, trời mát lành lạnh. Không phải cái lạnh buốt đến tận óc mà chỉ hơi lành lạnh, vừa đủ để ta chợt thấy thèm làn hơi ấm từ ly cà phê thơm ngát trên tay. Vào xế trưa, tiết trời thật dễ chịu, ấm nhưng không nóng, mát nhưng không lạnh. Nền trời cao, trong vắt điểm tô bởi vài cánh chim. Buổi tối, nhiệt độ bắt đầu giảm dần, trời trở lạnh vừa đủ để cho những chiếc áo khoác mùa Thu được dịp đem ra chưng diện. Thế rồi, những hàng cây trong thành phố lần lượt theo nhau thay đổi sắc áo. Có những cây phong vài hôm trước còn xanh ngăn ngắt, ấy thế mà chỉ sau vài trận gió lạnh thổi ngang đã vội chuyển màu. Chả mấy chốc mà phong cảnh bỗng dưng trông lạ hẳn khiến ta thoáng ngẩn ngơ. Cứ thử lái xe dọc theo những con đường rợp bóng cây mà xem. Những hàng cây lá đỏ, vàng, cam, tía, lam chen lẫn nhau tạo thành những bức tranh lập thể thật độc đáo. Ðẹp quá phải không ??
Mà cũng chẳng cần phải đi đâu xa, chỉ quẩn quanh trong khuôn viên của ngôi trường Ðại Học thôi cũng đã có biết bao cảnh thật đẹp. Cứ mỗi cơn gió nhẹ thoáng qua là những phiến lá phong cam, đỏ, tím, vàng lại thi nhau rời cành, chao lượn uyển chuyển như những cánh bướm, rồi khẽ khàng đáp xuống nằm rải rác đó đây trên những thảm cỏ xanh mượt, hay bên những luống hoa cúc vàng sặc sỡ. Những phiến lá Ivy rực rỡ đủ màu sắc phủ theo bờ tường, theo các vòm cửa sổ của những tòa building cổ kính cũng khe khẽ rung rinh như đang vẫy chào đón mùa Thu tới. Và những tấm áo khoác của đám sinh viên là những nét chấm phá sinh động cho cảnh sắc mùa Thu nơi đây. Hay ta cũng có thể thả bộ lang thang theo những lối mòn trong công viên để có thể ngắm nhìn thật gần những phiến lá đổi màu. Chao ơi, biết cơ man nào là lá, mà mỗi phiến lá dường như lại mang một màu sắc riêng biệt thì phải. Cứ thử nhìn kỹ mà xem. Những vòm lá đan nhau ở tít tận trên cao cũng nhuốm màu vàng, cam, đỏ, tím, thế nhưng những màu sắc đó hình như không giống với màu của những phiến lá chạy dài dọc theo hai bên lối ta đang đi, và lại cũng chẳng tương tự với màu của những xác lá đang ròn tan vụn vỡ dưới bước chân ta. Phải chăng vì ta hoa mắt nên không nhận rõ, hay vì nét cọ của tạo hóa quả thật quá thần kỳ ?? Mỗi lần trời trở gió thì một trận mưa lá lại rào rào trút xuống, tạo nên một cảnh sắc thật đẹp, mà cũng rất độc đáo, đặc biệt. Phải chăng đây cũng là một trong những nét quyến rũ của mùa Thu?
Có những buổi sớm, trời se lạnh, lái xe dọc theo Don Valley Parkway, ta bỗng ngỡ ngàng trước nét cọ thần kỳ của hóa công. Những tia nắng chiếu xuyên qua những hạt sương long lanh đọng trên những cọng cỏ xanh mướt, trên những phiến lá đủ màu rơi rải rác đó đây trên những thảm cỏ mượt mà, tạo nên những màu sắc vui tươi của bảy sắc cầu vồng. Những hàng cây thấp thoáng ẩn hiện sau lớp màn sương mù hững hờ giăng ngang, với muôn vàn màu sắc rực rỡ chập chùng đan quyện lẫn nhau tưởng chừng như bất tận. Hay những buổi chiều, rẽ từ xa lộ vào con đường nhỏ dẫn đến khuôn viên campus Erindale của Ðại Học Toronto, ta đã sững sờ trước vẻ đẹp khó tả của cảnh sắc mùa Thu. Cũng chỉ những hàng cây phong lá đỏ, vàng, cam, tím mọc xen lẫn nhau, cũng chỉ những ngọn đồi đất hay những vực sâu hun hút, thế nhưng bỗng dưng lại tạo nên một vẻ đẹp vừa lộng lẫy, vừa hùng vĩ vô cùng khi ta ngắm nhìn qua khuôn kính xe lái với tốc độ thật nhanh dọc theo con đường nhỏ ngoằn ngoèo, khúc khuỷu. Cứ thử tưởng tượng mà xem. Thoạt đầu, vừa từ xa lộ rẽ vào, những hàng cây râm mát dọc hai bên đường khiến ta chợt thấy thoải mái sau những phút phóng xe vùn vụt len lách giữa những dòng xe trên xa lộ. Quen đà, ta vẫn cứ để xe chạy nhanh hơn tốc độ hạn định khá nhiều. Vừa lái xe, vừa ngắm nhìn vẻ đẹp thật nên thơ của những biệt thự thấp thoáng sau những hàng cây đủ màu sắc dọc theo con đường nhỏ nhưng khá thẳng này. Bỗng bất chợt, đường bỗng dốc dần xuống, rồi uốn lượn ngoằn ngoèo. Và nếu ta cứ giữ nguyên tốc độ cũ, chiếc xe sẽ lao vun vút trên con đường quanh co uốn khúc lượn theo bờ một vực sâu hun hút bên dưới. Eo ơi, thật khó tả vô cùng cái cảm giác vừa chợt ùa vỡ trong lòng ta. Tưởng chừng như tất cả các giác quan đều hoạt động cùng lúc trước những cảnh sắc loang loáng thay đổi liên tục theo tốc độ xe chạy. Những màu vàng, đỏ, tím, chàm, cam của hàng phong hòa quyện với những màu sắc tươi thắm của những cánh hoa dại mọc xen giữa những tảng đá nằm trên sườn những ngọn đồi thoai thoải bên lê đường, vừa lọt vào tầm nhìn của ta, thoắt cái đã vội nhường chỗ cho dãy hàng rào mỏng manh ôm dọc theo một vực sâu đen hun hút. Thế rồi, chỉ qua một khúc quanh, những tàng cây màu sắc rực rỡ lại hiện ra trước mắt ta. Cứ thế phong cảnh thay đổi không ngừng, khiến ta vừa thú vị, vừa hồi hộp khi thưởng thức những cảnh đẹp bất ngờ xuất hiện trước mắt. Nửa muốn đi chậm lại để có thể ngắm nhìn kỹ hơn những tuyệt tác của hóa công, nửa lại muốn phóng xe nhanh hơn để có thể thấy được những cảnh đẹp ẩn dấu ở phía trước. Nhưng rồi, sau khúc quanh cuối, hai hàng cây lại khoe sắc thắm hai bên lề đường dẫn đến khuôn viên Erindale campus với rặng liễu nghiêng nghiêng soi mình bên hồ nước...
Có những hôm, trời mưa thật nên thơ. Những hạt mưa lất phất giăng nhẹ, chỉ vừa đủ để làm ẩm mái tóc, để hơi lành lạnh bờ vai. "Mưa ướt mi người yêu" dễ thương như thế đô Cũng có những buổi, trời mưa rả rích suốt cả ngày. Nhịp mưa rơi trên mái nhà như âm điệu rộn ràng của một khúc nhạc: "hạt mưa, mưa rơi tí tách, mưa tuôn róc rách, mưa xuyên qua mành...". Ta cứ lắng nghe tiếng mưa rơi ròn rã, để rồi chợt thoáng xao xuyến, bâng khuâng khi chạnh nhớ lại những cơn mưa ở nơi quê nhà ngày xưa ấy. Cũng có những hôm, trời đang nắng, bất chợt đổ mưa. Trời đất u ám, tối sầm, tưởng chừng như trút hết nỗi giận hờn vào những hạt mưa ào ào tuôn trên mái nhà, rồi tụ lại thành những dòng nước cuồn cuộn chảy xiết dọc theo hai bên lòng đường. Những hàng cây ủ rũ dưới trận mưa nặng nề, thật ảo não. Nhưng rồi, mưa chợt tạnh, trời trở nắng. Những tia nắng hanh vàng chiếu xuyên qua những vòm lá còn ướt đẫm nước mưa rồi phản chiếu thành những màu sắc lóng lánh của cầu vồng, tạo nên một vẻ quyến rũ bất ngờ của mùa Thu.
Mùa Thu, mùa của những nụ hồng kính dâng Mẹ hiền nhân ngày lễ Vu Lan, mùa của ngày tựu trường, mùa của các bé thơ mừng đón Tết Trung Thu, mùa của ngày lễ Halloween. Mùa Thu, mùa của những đóa hoa cúc vàng khoe sắc thắm, mùa của rừng cây thay sắc áo, mùa của những cơn mưa dai dẳng, rả rích kéo dài suốt ngày. Mùa Thu, mùa của những buổi thẩn thơ dạo chơi theo những lối mòn ngập đầy xác lá trong công viên. Hay nằm gối đầu dưới gốc cây lặng ngắm nhìn cảnh gió đùa lá bay bay, để tha hồn mơ mộng vẩn vơ, để dệt những vần thơ ngu ngơ, vụng về...
Mùa Thu ơi mùa Thu, phải chăng Thu đã về......
Tứ Diễm
Aug. 31, 1996
John Collier sinh năm 1901 tại Luân Ðôn. Ông là biên tập viên về thơ của tờ Time and Tide trong khoảng thập niên 1920 và 1930. Nhưng ông được biết đến như một tiểu thuyết gia châm biếm pha lẫn với siêu nhiên. Tiểu thuyết nổi tiếng nhất của ông là His Monkey Wife (1930), tả cuộc hôn nhân giữa một nhà thám hiểm với con khỉ dã nhân của mình. Năm 1935, ông sang Mỹ và sống ở Hollywood bằng nghề viết truyện phim. Ông mất năm 1980.
The Chaser (Liều Sau) trích trong A Reading Apprenticeship, do Norman A. Brittin tuyển chọn; Holt, Rinehart and Winston, New York, xuất bản năm 1971.
oOo
Liều Sau
Alan Austen bồn chồn như một chú mèo con, leo lên mấy bậc thang tối và kẽo kẹt trong khu nhà đường Pell. Chàng nhìn quanh một lúc lâu nơi đầu cầu thang mờ tối trước khi thấy tên người muốn tìm được viết lờ mờ trên một trong mấy cánh cửa.
Chàng đẩy cánh cửa này mở ra, vì chàng đã được dặn trước như thế, và thấy mình trong một căn phòng nhỏ không có đồ đạc gì, ngoại trừ một cái bàn làm bếp đơn sơ, một cái ghế đu và một cái ghế thường. Trên một bên vách tường vàng bẩn gắn hai cái kệ, tất cả chứa có lẽ một tá chai lọ.
Một ông lão ngồi trên ghế đu đọc báo. Alan không thốt một lời, đưa ông tấm thiếp người ta cho chàng. Ông lão nói rất lịch sự:
- Mời ông Austen ngồi. Tôi hân hạnh được làm quen với ông.
Alan hỏi:
- Có thật là cụ có một loại hợp chất - à - có ác dụng rất đặc biệt không?
Ông lão đáp:
- Ông à, hàng họ của tôi không nhiều - tôi không buôn thuốc tiêu và thuốc làm răng - nhưng dù vậy tôi cũng có nhiều loại. Tôi tin rằng không có thứ nào tôi bán mà diễn tả một cách chính xác là có tác dụng bình thường.
Alan bắt đầu:
- À, sự thể là -
Ông lão cắt ngang, với lấy một cái chai trên kệ:
- Ðây, chẳng hạn. Ðây là một chất lỏng không mầu như nước, hầu như không có mùi vị, hoàn toàn không nhận thấy được trong cà phê, sữa, rượu vang, hay bất cứ thức uống nào khác. Nó cũng hoàn toàn không nhận thấy được bằng bất cứ phương pháp phân tích nào hiện nay.
Alan kêu lên, rất đỗi kinh hãi:
- Cụ nói đó là thuốc độc à?
Ông lão dửng dưng nói:
- Gọi nó là thuốc rửa găng nếu ông thích. Có thể nó rửa được găng tay. Tôi chưa bao giờ thử. Người ta có thể gọi nó là thuốc rửa cuộc đời. Cuộc đời đôi khi cần được tẩy rửa.
Alan nói:
- Tôi không muốn loại đó.
Ông lão nói:
- Có lẽ thế cũng hay. Ông có biết giá cái này không? Một muỗng, như thế là đủ, tôi đòi năm ngàn đô la. Không kém. Không kém một xu.
Alan hoảng sợ nói:
- Tôi hy vọng là tất cả hợp chất của cụ đều không đắt thế.
Ông lão nói:
- Ồ thưa ông, không. Tính giá như thế cho một liều thuốc yêu chẳng hạn thì hỏng cả. Những người trẻ đang cần một liều thuốc yêu, rất ít khi có năm ngàn đô la. Nếu có thì họ đã chẳng cần thuốc yêu làm gì.
Alan nói:
- Nghe thế tôi rất mừng.
Ông lão nói:
- Tôi nhìn sự việc thế này. Làm khách hài lòng với một món hàng, thì họ sẽ quay lại khi cần món khác. Dù có đắt hơn. Nếu cần họ sẽ dành dụm để mua nó.
Alan nói:
- Vậy cụ có bán liều thuốc yêu thật à?
Ông lão với lấy một cái chai khác và nói:
- Nếu tôi không bán thuốc yêu, tôi đã không kể các thứ khác với ông. Chỉ khi nào làm được người ta mới có thể thổ lộ nhiều.
Alan nói:
- Và mấy liều thuốc này. Nó không chỉ - chỉ - à -
Ông lão nói:
- Ồ, không. Nó công hiệu vĩnh viễn, và vượt ngoài tác dụng nhất thời. Nhưng nó cũng có cả đấy. Mạnh mẽ, bền bỉ. Vĩnh cửu.
Alan cố làm ra vẻ khách quan khoa học và nói:
- Trời ơi! Hay quá!
Ông lão nói:
- Nhưng hãy suy xét về mặt tinh thần.
Ông lão nói:
- Ðối với sự thờ ơ, nó sẽ thay bằng sự tận hiến. Ðối với khinh miệt là kính yêu. Cho một thiếu nữ một liều nhỏ chất này - mùi vị của nó không thể nhậnthấy được trong nước cam, súp hay rượu cốc-tay - và bất kể cô ta vui nhộn và ngốc nghếch thế nào đi nữa, cô ta sẽ thay đổi hoàn toàn. Cô ta sẽ không muốn cái gì ngoài sự cô đơn, và ông.
Alan nói:
- Tôi khó mà tin nổi. Cô ấy thích tiệc tùng lắm.
Ông lão nói:
- Cô ta sẽ không còn thích tiệc tùng nữa. Cô ta sẽ sợ các cô gái xinh xắn mà ông có thể gặp.
Alan kêu lên trong sự sung sướng vô ngần:
- Cô ấy sẽ ghen thật à? Vì tôi?
- Ðúng, cô ta sẽ muốn là tất cả đối với ông.
- Cô ấy đã là tất cả đối với tôi rồi. Chỉ có cô ấy không thèm để ý đến thôi.
- Cô ta sẽ để ý sau khi uống liều này. Cô ta sẽ để ý hết lòng. Ông sẽ là mối quan tâm duy nhất trong đời cô ta.
Alan kêu lên:
- Tuyệt vời!
Ông lão nói:
- Cô ta sẽ muốn biết tất cả điều ông làm. Mọi thứ xảy đến với ông trong ngày. Từng lời một. Cô ta sẽ muốn biết ông đang nghĩ gì, tại sao ông bỗng nhiên mỉm cười, tại sao ông trông có vẻ u sầu.
Alan kêu lên:
- Ðó là tình yêu!
Ông lão nói:
- Ðúng. Cô ta sẽ chăm sóc ông cẩn thận làm sao! Cô ta sẽ không bao giờ để ông mệt mỏi, khát uống, đói ăn. Nếu ông trễ một giờ, cô ta sẽ sợ hãi. Cô ta sẽ nghĩ ông bị ai giết, hay là một bà quyến rũ nào đó bắt ông.
Alan kêu lên, choáng ngợp vì sung sướng:
- Tôi khó tưởng tượng nổi Diana như thế!
Ông lão nói:
- Ông sẽ không cần dùng đến trí tưởng tượng. Và, à này, vì lúc nào cũng có những người đàn bà quyến rũ, nếu tình cờ sau này ông _có lỡ_ sa ngã một chút, ông không cần phải lo. Cuối cùng cô ta sẽ tha thứ cho ông. Cô ta sẽ đau lòng ghê lắm, dĩ nhiên, nhưng - rốt cuộc - cô ta sẽ tha thứ cho ông.
Alan sôi nổi nói:
- Ðiều đó sẽ không bao giờ xảy ra.
Ông lão nói:
- Dĩ nhiên là không. Nhưng nếu có xảy ra, ông không cần phải lo. Cô ta sẽ không bao giờ ly dị ông. Ồ, không! Và dĩ nhiên, bản thân cô ta sẽ không bao giờ gây cho ông một chút nào, dù rất ít oi, chuyện để - bực bội.
Alan nói:
- Vậy cái hợp chất tuyệt vời này giá bao nhiêu?
Ông lão nói:
- Nó không đắt như cái thuốc rửa găng, hay như thỉnh thoảng tôi gọi là thuốc rửa cuộc đời. Không. Liều đó năm ngàn đô la, không bao giờ kém một xu. Người ta phải lớn tuổi hơn ông mới thích loại đó. Người ta phải dành dụm cho nó.
Alan nói:
- Nhưng liều thuốc yêu thì sao?
Ông lão mở ngăn kéo bàn làm bếp, lấy ra một ống thuốc nhỏ, trông khá dơ bẩn và nói:
- Ồ, cái đó. Cái đó chỉ một đô la.
Alan nhìn ông ta đổ đầy ống thuốc và nói:
- Tôi không biết nói sao để tỏ lòng cám ơn.
Ông lão nói:
- Tôi thích làm vừa lòng khách hàng. Rồi khách sẽ quay lại, sau này trong đời, khi họ khá giả hơn, và muốn những thứ đắt hơn. Ðây của ông. Ông sẽ thấy nó rất công hiệu.
Alan nói:
- Cám ơn ông lần nữa. Chào ông.
Ông lão nói:
- Hẹn gặp lại.
Y Cựu dịch