vhnt, số 229
23 September 1996
Trong số này:
thư vhnt............................................Nguyễn Hiện Nghiệp
T h ơ :
1 - Tan theo trăng ...........................................Ðặng Hiền
2 - Lối vào thiên thu ......................................Khuyết Tâm
3 - Con ngựa già lững thững .....................................Chinh
4 - Không đề .........................................................TTH.
5 - Chân dung của ngày ..................................Trần Thái Vân
6 - Lục bát Mỹ: Birthday poem .....................................Ian Bui
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
7 - Tản mạn "thơ con cóc" ...............................Trần Hoài Thư
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
8 - Ernest Hemingway: Một câu chuyện rất ngắn .........Y Cựu dịch
9 - Phượng Uyển ở Sài Gòn ........................Nguyễn Kỳ Phong
Bạn,
Nghệ thuật không bao giờ bắt đầu từ một điểm.
Các đường đi, ngã rẽ của nghệ thuật cũng không nhất thiết hướng về một điểm.
Ðời sống cũng vậy. Ða dạng. Muôn mặt.
Suối khe đổ vào dòng sông. Dòng sông tuôn vào biển rộng.
Hay
Biển là mạch nước của sông. Sông chia nhánh vào khe, vào suối.
Ðâu là cội nguồn.
Của nghệ thuật. Của đời sống. Của sông. Của biển.
Có bao giờ ngồi nhìn giọt nước mưa đọng thành vũng trên lòng lá. Lá trĩu. Nước tuôn thành giòng rơi lên mặt đất.
Ðể nghe lòng mình cũng suối khe. Cũng dòng sông. Cũng biển cả.
Tách rời suối khe từ con nước lớn. Là con tim.
Nhịp cầu nối liền hai bờ sông dị biệt. Là con tim.
Tiếng gầm thét của thác buông mình xuống vực. Từ con tim.
Chất chứa cho muôn dòng sông hợp về biển rộng. Vào con tim.
Hạnh phúc của kẻ sáng tạo,
vả chăng ,
là nâng tác phẩm con tim mình trên hai tay,
và dâng hiến
cho người thưởng thức.
Hạnh phúc của đời sống,
vả chăng,
là nâng niu một điểm ân tình của con tim
giữa người và người,
và dâng hiến cho đời
một mạch sống cuồng lưu.
Cho nhau.
Nguyễn Hiện Nghiệp
(viết thay PCL 1 kỳ - cho CQ)
Tan Theo Trăng
Tháng chín không của riêng ai
Mùa thu cũng vậy
Ðành ngồi nhìn ngọn Yosemite
Tháng chín thức dậy ở San Francisco
Hàng thùy dương rì rào phố biển
Mùa hè qua, đêm mưa, làm dáng
Vết xe lăn dài nụ cười quỳnh dao
Từ phượng hồng bỏ đi
Mùa trăng bỗng lạnh
Tháng chín ngập ngừng, từng chiều Berkeley
Tháng chín, đêm khuya về ngồi lặng
Nghe gió cười khúc khích rượu tan
Mai chắc sầu in trên đá
Em chắc quên rồi tháng chín, trôi.
Ðặng Hiền
(Cali tháng 9-96)
lối vào thiên thu
ai ngóng ai,
khi tiết đông về.
ai chờ ai,
cuối nẻo sơn khê.
và mai sau nữa... mai sau nữa...
ai gọi ai?
và ai sẽ nghe?
Huyền Trân ơi!...
hỡi, Huyền Trân...
trời ơi!...
ta gọi ngàn lần,
tên.
đau.
chết rồi sao?
chết rồi sao?
ngàn năm
cách
một lối vào
thiên thu.
khuyết tâm
Con Ngựa Già Lững Thững
gởi anh Nguyễn Tiến Dũng: bài thơ năm chữ
Ta say trên lưng ngựa
Ngựa chở ta về đâu?
Mưa, và mưa . Khắp ngã
Rũ ướt từng chiêm bao
Ta say trên lưng em
Em dắt ta vào đời
Khoả thân nào xanh mướt
Gió lùa một ngày trăng
Ta say trên cuộc tình
Tình bay, từng sợi nhỏ
Trăng khoả thân, hồng quá
Em còn khoả thân xanh?
Ta say trên bóng ta
Ngựa rời xa mất rồi
Em xanh hồng một thưở
Lục lạc giờ, xa xôi .
Em bây giờ xa xôi
Ta: ngựa già, lững thững .
Chinh
19 tháng 9 96
(*) thơ Nguyễn Tiến Dũng
Không Ðề
Chiếc lá vàng
Chiếc lá nâu
Chiếc lá vàng
Lại một chiếc lá nâu...
Một người mù ngồi ngẩng mặt
Nghe mùa thu đang rụng ngang đầu ...
9/1996
TTH
Chân Dung Của Ngày
Ngày trong quỹ đạo thời gian
Bay theo cánh chim ngã bóng
Cỡi trên đầu từng con sóng
Gọi thủy triều về dâng cao
Ngày ngủ lịm dưới chòm sao
Úp mặt vào không trốn lạnh
Quay lưng ra nhìn hiu quạnh
Cho đêm không trả cứ vay
Dòng chữ bay vòng ngất ngây
Ðời sống trong hai dấu ngoặc
Ngượng ngùng ba chấm thành thật
Gọi từng bước chân xa xăm
Ánh mắt nói chuyện thì thầm
Tư tình cùng trang giấy trắng
Ðôi tay lắng nghe im lặng
Mỉm cười mừng ý thành hoa
Chữ rồi bỏ đời đi xa
Xa xa xa thành ảo ảnh
Ðóng đôi tay gầy hiu quạnh
Hạnh phúc chưa ồn đã im
Và đôi cánh trắng của chim
Ðều đều gõ nhịp tích tắc
Chuông ngân giữa giờ trong vắt
Hoàn hồn tỉnh giấc mộng du
Và ngày tóc tai rối bù
Hơi thở nhẹ nhàng thành gió
Nước hoa thiên nhiên nồng cỏ
Hàng chữ chín người đợi mong
Và ngày sau cuộc chơi rong
Nhiệm ý tìm thơ kết bạn
Trong cơn nóng lạnh mê sảng
Ợ chua dấu ngoặc tràn đầy
Và ngày mệt mỏi hao gầy
Thiếu chỗ cho dòng chữ đứng
Tâm hồn ngõ cụt bần túng
Bay vào quỹ đạo thời gian...
trần thái vân
Birthday Poem
When pained antiquity
arrives to gracefully explain:
borne inside god's Arrange
is Love, on its most strange union
(cho TA)
96'916
ianb
Tản Mạn "Thơ Con Cóc"
Thời còn học sinh, mỗi lần nghĩ một bài thơ hay, tôi vẫn tìm đến tác giả Hoài Thanh và Hoài Chân để viện dẫn. Có thể nói cuốn Thi Nhân Việt Nam là cuốn sách gối đầu giường về phê bình thi ca đối với tôi thời ấy. Hai ông đã để vào đấy những bài thơ mà tất cả chúng ta đều nghĩ là đẹp, và sống mãi từ thế hệ này sang thế hệ khác. Một Hàn Mặc Tử với những bài thơ về Trăng. Một Xuân Diệu với những bài thơ tình yêu. Một Huy Cận với những bài thơ buồn nhè nhẹ, man mác. Không ai qua sông, nhìn dòng trường giang trong hoàng hôn mà không nhớ đến những câu như Sóng gợn trường giang buồn điệp điệp. Con thuyền xuôi mái nước song song. Thuyền về nước lại sầu trăm ngẩ Củi mục cành khô lạc nối giòng... Chúng ta cảm tạ Hoài Thanh Hoài Chân không phải vì những lời phê bình nhưng ở cái công trình khám phá những nhà thơ tài hoa qua những bài thơ tuyệt vời của họ. Hai ông đã đứng ngoài nhìn vào như người chiêm ngưỡng những món đồ quí giá, những trân châu mỹ lệ. Hai ông đã "GIÚP" vào công việc tô son trét phấn những bài thơ mà chút ta đều công nhận chúng là những bài thơ hay.
Càng lớn lên, càng già dặn với cuộc đời, sự cảm nhận thi ca càng thay đổi. Vị giáo sư Việt Văn thời Quốc Học, mỗi lần phê bình truyện Kiều, hay nói về ý nghĩa của bao nhiêu chữ Buồn mà cụ Nguyễn Du đã viết khi khi tả lại nỗi buồn của Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích, đã làm học trò ông đâm ra phục cụ Nguyễn Du ghê gớm. Nhưng khi mình sa vào cái nghiệp này, mình càng hiểu không bao giờ cụ Nguyễn Du lại phải giới hạn đến mấy chữ buồn như vị thầy cũ đã từng giảng. Có nghĩa là chỉ có tác giả mới biết tác phẩm của tác giả, nhân vật mà tác giả xây dụng, nỗi lòng mà tác giả gởi gấm. Người phê bình, nhất là phê bình thơ, một người ngoại cuộc làm sao hiểu rõ nhịp đập của con tim tác giả, nơi cõi mà ngay tác giả đôi khi cũng không biết nó nói thế nào? Nào ai hiểu được trái tim? Còn nữa. Những sách văn học sữ thời ấy như của Hà Như Chi, Dương Quãng Hà m v.v... thì quá bảo thủ. Bộ Quốc Gia Giáo Dục thì gồm những cụ già khoa bảng. Cứ bắt học sinh học hoài những điều cũ rích, như cứ theo thầy đi hoài trên con đường một chiều, xây bằng gạch bát tràng... Chắc chắn các cụ không bao giờ biết đến (mà cũng chẳng cần biết đến) Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Bùi Giáng, Vũ Hữu Ðịnh, Viên Linh, Du Tử Lê, Nguyê ~n Tất Nhiên, Mường Mán, Hạc Thành Hoa, Khê Kinh Kha, Sao Trên Rừng, Nguyễn Bắc Sơn, Linh Phương (?) (Em hỏi anh bao giờ trở lại. Anh trả lời mai mốt anh về....) và biết bao nhiêu người thơ tài hoa khác . Bất công. Và cũng tủi nhục cho những người trẻ miền Nam. Thời tiền chiến chỉ có bao nhiêu người làm thơ? Một đại đội? Thời trước 75 có bao nhiêu người thi sĩ? Quá nhiều.
Nhưng chẳng có một tên tuổi nào lọt vào cặp kính tháp ngà của mấy ông đặc trách viết văn học sữ của Bộ QGGD. Một câu trả lời là mấy ông phê bình gia cũng như vị giáo sư dạy Việt Văn trên kia.
Mấy ông ở ngoài nhìn vào, không ở trong nhìn ra, không xúc động, không thấm thía, không ngất ngây, không thẫn thờ, không hiểu âm nhạc thơ, không biết một dấu chấm, dấu phẩy, khoãng cách có tác dụng thế nào. Họ không hiểu mãnh lực của trái phá bởi vì họ có bao giờ nghe trái phá đâu. Họ ít khi nhìn thơ bằng sự từ tâm như chính cõi lòng của thơ. Họ đâu có hiểu Qua đôi hồ của mùa hè vừa dậy. Mây xanh mà gợn chút buồn thiu là người thi sĩ đã tả đôi mắt của người con gái nào... Họ chỉ dùng những lý luận nhập cảng, xa xí phẩm, qua kinh điển hơn là qua cái cảm nhận huyền bí của thi ca.
Người bình thơ không phải là người vô tư, mà trái lại là một người phải đặt lòng mình cùng cõi lòng của người thi sĩ. Tôi rất dốt chữ Nho, không ham đọc sách Tây Mỹ, cũng chẳng học Văn Khoa một ngày nào. Nói như vậy có nghĩa là tôi không yêu thơ, hay có thể thẩm định được bài thơ hay. Có điều, mỗi người có một sự thẩm định riêng. Có bao nhiêu cách để nói về một bài thơ hay. Hai ông Hoài Thanh và Hoài Chân có cách thẩm định riêng của hai ông ấy. Cụ Dương Quảng Hàm có cách thẩm định riêng của cụ. "Chú tiểu" (*) hay Nguyễn Phước Nguyên, Vy Khanh có cách nhìn riêng. Sự thẩm định này không ai có quyền bắt bẻ, xuyên tạc, phê bình. Bởi vì thơ không phải là một thực thể. Thơ là một cõi lạ, hun hút, mắt trần không thể nhìn. Nếu mà ta nhìn được, thì ta chia xẽ cho người khác. Người đọc sẽ cám ơn ta. Nhờ ta mà người đọc càng hiểu, càng mến yêu hơn bài thơ.
Bởi vậy, tôi phải cảm ơn Nguyễn Hưng Quốc.
Tôi phải cám ơn ông, sau khi đọc bài tiểu luận về Thơ Con Cóc. Ông đã làm cho tôi sáng mắt thêm, "ngộ" được thêm, yêu thích thêm những điều mà từ trước đến nay tôi cứ nghĩ là hết sức tầm thường. Ông dẫn cho ta đến những cái gì quá lạ quá mới. Ông không dùng lối phê bình cố hữu như Hoài Thanh và Hoài Chân từng làm. Ông không nói thêm cái rung động mà chúng ta đã có, đã cảm nhận. Trái lại, ông khai phá những cõi nào ngoài màn sương phủ của định kiến, truyền thống. Ông "chỉ" cho chúng ta biết hơn là "tán" thêm những gì mà chúng ta đã biết.
Con cóc trong hang
Con cóc nhảy ra
Con cóc nhảy ra
Con cóc ngồi đó
Con cóc ngồi đó
Con cóc nhảy đi
Tôi chép lại. Tôi đang nhìn 6 câu thơ. Tôi đọc lại. Tôi lắng nghe âm điệu. Ðâu có gì trái tai. Vẫn êm vẫn không bị vướng mắc. Tưởng tượng thêm một chút nữa về nhân vật chính. Con cóc. Nó đã nhảy ra, và ngồi đô Vâng NHQ đã nhận xét quá tài tình, tại sao lại có khoảng trống giữa hai đoạn thơ. "Một Quãng ngắt. Một quãng im lặng dài". Con cóc ngồi đô Bao lâu. Một giây. Một phút. Một giỡ. Giả dụ bài thơ như thế này:
Con cóc trong hang
Con cóc nhảy ra
Con cóc nhảy ra
Con cóc nhảy đi
Thì chúng ta không có gì phải nói. Bởi vì nó quá dở, không âm điệu, chẳng lưu lại cái gì hết. Con cóc phải ngồi lại. Ngồi lại để làm gì? Ðể ta nhìn nó. Ðể nó nhìn ta, nhìn trời nhìn đất, nhìn trăng sao, đêm tối, ung dung, nhàn nhã, vô tư lự. Ðể mỗi người trong chúng ta trở về vị trí chủ quan của mình có những nhận định riêng và cảm nhận riêng. NHQ đã nói rất nhiều về chữ đi. Ông đã cho chúng ta biết thêm về nỗi trống trãi cuối cùng, cái vô định sau khi con cóc nhảy đi. Những nhận xét lạ, âm ấp nhân sinh, triết học của ông giúp tôi càng liên tưởng đến nẽo cuối cùng. Nhưng theo tôi, tôi thích lúc "c on cóc ngồi đó" hơn. Tôi muốn nhìn nó, và nó nhìn tôi.
Tự nhiên muốn biểu thị bằng hình:
:::(trong hang)::::->(nhảy ra)
........(ngồi).........................
........ -> nhảy đi???????????????
Cũng như NHQ cứ đọc hoài, cứ để trong tâm trí hoài mấy câu thơ con cóc, sau khi đọc xong tiểu luận, tâm trí tôi cũng bị vây bủa bởi hình ảnh chú cóc với lớp da sần sùi, hai con mắt lộ lên, hai chân trước chống đòn, nhìn tôi. Cái uy của nó ai mà không biết. Con cóc là cậu ông Trời mà. Nó còn có thể là bà Tiên, hay người con gái đẹp đội lốt như trong một chuyện cổ tích, hay là một bà phù thủy. Nó "hiên ngang, dõng dạc đàng hoàng" (mượn chữ). Ba động tác của con cóc, nhảy ra, ngồi đó, nhảy đi , là ba động tác hiên ngang, đàng hoàng, không nao núng, không sợ hãi. Ðó chỉ là điều mà tôi không đồng ý với chữ nhảm mà NHQ đã dùng để nói về nghịch lý của bài thơ: Trịnh trọng vô nghĩa.
Trần Hoài Thư
(*) "Chú tiểu", một biệt danh của Sung Nguyễn, thành viên nhóm Ô-Thước.
Ernest Hemingway sinh năm 1899 tại Oak Park, Illinois. Trong thế chiến thứ nhất, ông lái xe cứu thương và bị thương khi ở mặt trận Ý. Sau chiến tranh, bất mãn với đời sống ở Mỹ, ông sang Paris làm ký giả cho tờ Toronto Star. Ông sống phần lớn ở Âu châu và Cuba. Các tác phẩm nổi tiếng của ông là The Sun Also Rises (1926), A Farewell to Arms (1929), The Old Man and the Sea (1952). Ông nhận giải Nobel về Văn chương năm 1954, và mất năm 1961 vì một viên đạn tự bắn vào mình.
A Very Short Story (Một Câu Chuyện Rất Ngắn) trích trong tuyển tập nhiều tác giả Sud\den Fiction, do Robert Shapard và James Thomas tuyển chọn; Peregrine Smith Books, Salt Lake City, xuất bản năm 1986.
Một Câu Chuyện Rất Ngắn
Một buổi tối nóng bức ở Padua, họ khiêng anh lên mái nhà để anh có thể nhìn khắp phía trên thị trấn. Trên bầu trời có những con én. Một lát sau trời tối và đèn phòng không rọi lên. Những người khác đi xuống và mang các chai rượu theo. Anh và Luz có thể nghe tiếng họ từ ban công bên dưới. Luz ngồi trên giường. Nàng tươi mát trong buổi tối nóng bức.
Luz ở lại ca đêm trong ba tháng. Họ mừng rỡ bằng lòng. Khi họ mổ anh, nàng sửa soạn cho anh trước khi lên giường mổ; và họ nói đùa về bạn bè và ống thụt. Anh rán tự chủ khi bị chụp thuốc mê để khỏi nói nhảm. Sau khi anh đi nạng, anh thường lấy nhiệt độ để Luz khỏi phải thức dậy. Chỉ có vài bệnh nhân, và họ đều biết chuyện đó. Tất cả họ đều thích Luz. Khi anh đi bộ về dọc theo những dãy hành lang, anh nghĩ đến Luz nằm trên giường anh.
Trước khi anh trở lại mặt trận, họ đi đến Duomo cầu nguyện. Trời mờ tối và yên tĩnh, và nhiều người khác cũng đang cầu nguyện. Họ muốn làm đám cưới, nhưng không đủ thì giờ để công bố hôn nhân ở nhà thờ, và cả hai không ai có giấy khai sinh. Họ cảm thấy như thể đã cưới nhau, nhưng họ muốn mọi người biết chuyện, và làm như thế họ sẽ không mất nhau.
Luz viết cho anh rất nhiều thư nhưng anh không bao giờ nhận được cho đến khi ngừng bắn. Một bó mười lăm cái đến mặt trận, và anh sắp xếp theo thứ tự ngày tháng rồi đọc hết một mạch. Tất cả đều viết về bệnh viện, và nàng yêu anh biết bao nhiêu, và không có anh khó xoay xở làm sao, và những đêm nhớ anh khủng khiếp dường nào.
Sau khi đình chiến họ đồng ý rằng anh sẽ về quê hương tìm việc làm để họ có thể cưới nhau. Luz sẽ chưa về đến khi anh tìm được một việc tốt và có thể đến Nữu Ước gặp nàng. Họ hiểu ngầm rằng anh sẽ không uống rượu, và anh không muốn gặp bạn bè anh hay bất cứ ai ở Mỹ. Chỉ tìm việc làm và sẽ cưới nhau. Trên chuyến xe lửa từ Padua tới Milan, họ cãi nhau về việc nàng không muốn về quê hương ngay. Ðến khi phải tạm biêt, ở trạm Milan, họ hôn nhau chia tay, nhưng vẫn chưa xong việc cãi nhau. Anh cảm thấy khó chịu về việc chia tay nhau như thế.
Anh về Mỹ trên một chuyến tầu từ Genoa. Luz trở lại Pordenone để mở bệnh viện. Ở đó cô đơn và mưa dầm, và có một tiểu đoàn Ý đóng trong thị trấn. Sống trong thị trấn mưa dầm và bùn lầy vào mùa đông, viên thiếu tá của tiểu đoàn làm tình với Luz, và trước đó nàng chưa bao giờ biết người Ý, và cuối cùng viết về Mỹ rằng chuyện của họ chỉ là chuyện tình trẻ con. Nàng xin lỗi, và nàng biết anh có thể sẽ không thể hiểu, nhưng có thể một ngày nào đó tha thứ cho nàng, và biết ơn nàng, và nàng dự tính, hoàn toàn ngoài dự tính, sẽ làm đám cưới vào mùa xuân. Nàng vẫn yêu anh như xưa, nhưng bây giờ nàng ý thức được rằng đó chỉ là tình yêu trẻ con. Nàng hy vọng anh sẽ có một sự nghiệp lớn và hoàn toàn tin tưởng nơi anh. Nàng biết như thế là hay nhất.
Viên thiếu tá không cưới nàng vào mùa xuân, hay bất cứ khi nào. Luz không bao giờ nhận được hồi âm cho bức thư gửi đi Chicago. Một thời gian ngắn sau đó, anh lây bịnh lậu từ một cô bán hàng ở cửa hiệu quần áo khi đi trong tắc xi qua công viên Lincoln.
Ernest Hemmingway
Y Cựu chuyển ngữ
Phượng Uyển ở Sài Gòn
Ðầu năm 1980, được ra khỏi trại cải tạo, tôi rời Việt Nam đi Pháp. Thời gian tạm trú tại Paris tôi nghèo tả tơị Phải sống chung với nhiều anh em trong một căn phòng nhỏ. Những đêm mùa đông, không tiền đi chơi ở ngoài, bạn bè mua rượu tụ đến uống. Trong cuộc rượu, anh em thường nhắc lại những hoài niệm ở Sài Gòn, chuyện quân ngũ, chuyện tình. Khi nói chuyện tình, đề tài thường là những cuộc tình với những cô nữ sinh ở Gia Long, Trưng Vương, hay với các cô sinh viên ở các đại học. Họ nhắc lại các hoa khôi ở hai trường trung học nữ có tiếng ở Sài Gòn. Khi có người nhắc lại các cô Hằng, Hoa, Uyển, Lan... Một người bạn bất chợt hỏi tôi có biết Uyển không. "Uyển nàỏ", tôi hỏi. "Thì Phượng Uyển ở Trưng Vương chớ Uyển nào." Người bạn trả lời. Tôi gật đầu ừ, ừ, nói là biết. Nhưng trong bụng, tôi gằn giọng hừ lên một tiếng! Có biết Phượng Uyển không, tôi tự hỏi để rồi thấy hình ảnh một người con gái rất quen thuộc. Phượng Uyển ở Trưng Vương là một cuộc tình mà tôi đã quên. Còn chăng chỉ là những dư hương, như một bài nhạc mà mình chỉ nhớ giọng chứ không còn nhớ tên. Lúc đó, cuộc sống ở Pháp rất chật vật, tôi không còn thì giờ để nghĩ đến những mối tình cũ, tôi chỉ cố gắng tạo dựng một gia đình mình đang có với vợ, con. Nói như vậy không có nghĩa là tôi hoàn toàn quên hẳn mối tình của tôi với Phượng Uyển trong thời loạn. Một thời mà người ta yêu nhau vì sợ không còn dịp để yêu, và cố quên nhau vì sợ mình sẽ mất tình yêụ Tôi xin giải thích điều đó.
Tôi quen Uyển vào năm cuối ở đại học Quân-y. Nàng đang học đệ Nhất ở Trưng Vương. Lúc mới quen, tôi cố gắng không yêu Uyển như một tình yêu, nhưng sau cùng tôi bị say bởi men tình. Nhưng ai không yêu được, nếu giai nhân là một quốc sắc.
Hàng năm, trường Trưng Vương tổ chức lễ kỷ niệm Hai Bà Trưng, và có mời rất nhiều người đến dự. Sinh viên, học sinh, quân, quan, và nhiều chàng độc thân khác coi đó như là một hội hoạ. Những thanh niên ưu tú nhất của đất nước đến đó để tìm những trang quốc sắc thiên hương. Buổi diễn hành tưởng niệm cuộc khởi nghĩa của hai Bà Trưng chống lại giặc Tàu của Tô Ðịnh cũng được tổ chức vào ngày đó. Những người con gái đẹp nhất Trưng Vương được đóng vai hai Bà Trưng, cỡi voi uy nghi lắm. Tôi cùng nhiều người bạn rủ nhau đến đó chơi. Ðến đó để làm giặc với các cô nữ sinh thì đúng hơn. Tôi đứng nhìn những mỹ nhân đang đứng trên hành lan lầu xem lễ... và khi đó, Phượng Uyển xuất hiện như một rực rỡ. Nàng là một trong những á hậu của Trưng Vương. Khi thấy Uyển rồi, hãy bỏ đi cái chuyện anh chàng Romeo đứng nhìn Juliette đứng trên cửa sổ, rồi ước mình được thành đôi găng tay của Juliette để được chạm vào đôi má của nàng. Không, lúc đó, tôi muốn trở thành cái yếm của người con gái để được ôm vào thân xác của Uyển. Một thân xác huyền hoặc, mơ hồ, liêu trai. Rồi, dùng dằng nửa ở nửa về, khách đã xuống ngựa, tới nơi tự tình. Tôi thiếu điều muốn xô những tên bạn khác, khi những tên này thấy được người đẹp, để được tới nói chuyện với người đẹp.
Lần đầu tiên đi chơi, Uyển cố gắng giữ một thái độ của kẻ bàng quan về vấn đề tình cảm. Hai tháng sau, liên hệ của tôi và Uyển trở thành một tình yêu tha thiết. Chiến tranh có một không khí mầu mỡ nào đó làm tình yêu rất dễ chớm nở. Nó nói những ý nghĩa như giã từ và chia lìạ Chờ đợi và hội ngộ. Những hoàn cảnh rất kiếm hiệp tàu để những đôi tình nhân thử lòng nhau. Ðể yêu nhau. Chiến tranh là một thời để yêu.
Ðó là đầu muà hè 1967. Thủy Quân Lục Chiến có thêm một vài tiểu đoàn tân lập. Cuộc chiến trở nên tàn bạo hơn. Những cuộc hành quân lớn đánh vào chiến khu C, khu Tam Giác Sắt ở vùng III, trận Kinh Ô Môn ở Vị Thanh, vùng IV, và nhất là trận Dakto ở vùng IỊ Xác chết chở từ mặt trận về nhiều, và nghiã trang quân đội được nới rộng ra, những điạ danh lạ hoắc bắt đầu xuất hiện trên báo... Suốt muà hè năm đó, Tôi và Uyển đã hẹn hò với nhau nhiều lần. Thường đi dọc theo con đường Cuờng Ðể và một nửa con đường Nguyễn Bỉnh Khiêm (vì Uyển nói phía kia của đường Nguyễn Bỉnh Khiêm chẳng có gì thơ mộng cả) để nhìn những tàn cây xanh, cảm ơn những bóng mát đã che chở một cuộc tình của tôi và nàng. Ít ra là trong một giai đoạn nóng bỏng của đất nước vào lúc đô "Mình sẽ còn yêu nhau vào những mùa hoa năm sau không anh ?" Uyển hỏi, linh tính một điều bất thường. Tôi không trả lời, chỉ yên lặng đi bên Uyển. Tôi sợ phải đem cho Uyển nhiều vương vấn: Tôi sắp ra trường, và phải chọn binh chủng. Phải rời Sài Gòn, phải đi một nơi nào đó thật xa, và có thể chết như những người bạn, những sĩ quan y sĩ đàn anh đã chết. Sẽ giã từ Phượng Uyển và Sài Gòn, giã từ những buổi chiều bình yên như những hơi thở nhẹ của Uyển. Một hơi thở có thể làm cho những chiếc lá vô tri rung lên vì xúc cảm. Và thử tưởng tượng, qua hơi thở đó nàng đã nhiều lần hôn tôi.
Tôi chọn đi Thủy Quân Lục Chiến vì tôi có nhiều bạn ở Y-khoa đi các đơn vị chủ lực. Như Châu đi nhảy dù, Vinh đi biệt kích, Chuyên đi cấp cứu ở những cái "C", là những căn cứ Lực Lượng Ðặc Biệt ở những tiền đồn biên giớị Còn những người bạn không phải là bác sĩ, ra từ các trường Võ Bị thì cũng tình nguyện đi những binh chủng chủ lực như trên. Phúc, Phán, Tống, Khôi họ đều đi Dù hoặc TQLC. Năm trước, 1966, một người bạn khóa đàn anh, Châu ở tiểu đoàn 6 Dù có về trường chơi, đeo bằng Dù và lon Trung Úy coi oai phong, hào hùng lắm. Những Y Sĩ tiền tuyến cũng chết như những lính đánh trận khác. Năm 65 có sáu sĩ quan Y Sĩ chết, năm 66, chín người, năm 67 chỉ mới có tháng bảy mà đã có năm người rồi. Tôi chọn binh chủng TQLC và không cho Uyển biết, không muốn gieo vào trái tim dễ vỡ của nàng một kinh hoàng nào của cuộc chiến. Tôi nghĩ tình yêu trong những ngày chiến loạn là một tình yêu không có tương laị Không bao giờ hứa hẹn được một điều gì.
Khi nghe tôi đã tình nguyện đi TQLC, Uyển cắn môi để khỏi khóc. Nhưng rồi nàng cũng khóc. Lần hẹn hò đó tôi biết được thêm một vài chuyện nữa về gia đình của Uyển: Nàng sợ khi thấy tôi đi tác chiến vì một ông anh bà con của nàng, cũng là một bác sĩ quân y của TQLC, Hân, một người đàn anh học trên tôi ba lớp, đã chết ở trận Bình Giả vào cuối năm 1964. Vài tháng sau đó Vinh, học trước hai năm, ở Nhảy Dù, cũng chết. "Nhỡ anh chết rồi thì làm sao mình còn yêu nhau được nữa," Uyển nói. Rất đúng Uyển ẫ Yêu nhau phải có hai xác thân để ôm nhau mà yêụ Yêu nhau không chỉ là mộng tưởng trong đầu.
Một buổi trưa tan học, tôi giã từ Uyển. Và Sài Gòn.
Tôi được "rửa tội" tại chiến trường để trở thành một quân nhân tác chiến thực thụ bằng đạn, bom, máu và cái chết, vào mồng hai tết Mậu Thân ở khu vực chùa Ấn Quang, Chợ Lớn. Tiểu đoàn 38 BDQ gặp nhiều trở ngại khi thanh toán mục tiêu, họ lui ra để cho chúng tôi vào dứt điểm. Chết, chết, và chỉ có chết. Ở đâu cũng thấy cái chết. Của bạn và quân thù. Hơn một tuần sau, khi mặt trận Ðô Thành tạm yên, tôi theo tiểu đoàn 1 của Thắng và tiểu đoàn 5 của Nhã bay ra Phú Bài, từ đó đáp trực thăng vào thành nội Huế để giải toả thành phố này. Hơn mười ngày đánh nhau ở thành nội Huế, đổi hơn một ngàn xác địch, TQLC có 110 tử thương, và khoảng 400 bị thương. Tôi ói lên ói xuống vì mùi hôi của tử thi. Cho đến tháng sáu năm 1968 tôi mới gởi Uyển lá thư đầu tiên viết từ Bồng Sơn. Tháng mười, tôi được về phép và gặp nàng. Gặp Uyển, người tôi mềm như sợi bún. Một năm rồi tôi mới hít được hơi thở này. Câu ca "càng đi xa anh càng nhớ em" rất đúng. Chỉ có điều "đi xa" ở đây có một nghĩa nguy hiểm hơn nhiều. Khi cái chết gần kề, người đầu tiên mình nghĩ đến là người mình yêu. Tôi nói cho Uyển nghe tôi đã nhớ Uyển như thế nào. Lần đó nàng cho không tôi hối tiếc.
Cuối năm 1969, đang đóng ở Mai Lộc, bên trái là núi Bà Hổ, Khe Gió, bên phải là Cam Lộ, và vĩ tuyến 17 chỉ cách đó một tầm súng cốị Tôi viết cho Uyển một lá thư với nhiều hứa hẹn. Tôi nói với nàng là tôi đã thấy sợ: những lần hành quân lội rừng bảy mươi ngày, những đêm ngồi chờ vuốt mắt bạn bè vì mình không cứu sống được... Và những lá thư nàng gởi tôi đã làm tôi rất xao xuyến, khi tôi bắt đầu nghĩ về cái chết, và liên tưởng đến Uyển. Tôi nói cho nàng biết là vòng tay mỹ nữ của nàng đã làm tôi hèn ra, đã làm tôi sợ chết. Tôi hứa khi được ba năm công vụ tôi sẽ xin di chuyển về phục vụ ở một bệnh viện quân đội tại một thành phố nào đó rồi hai đứa sẽ tính chuyện lấy nhau. Trong dữ quang của một buổi chiều ở Mai Lộc, tôi viết cho nàng, "Mình sẽ lấy nhau đầu năm 1971. Nhưng hứa với anh điều này: nếu anh có rủi ro chết trận, em phải quên anh và đi lấy chồng ngay. Em phải hứa như vậy thì anh mới an lòng."
Một tháng năm, 1970, tôi tham dự cuộc hành quân Toàn Thắng 43 và 44, đánh qua Miên. Về lại Sài Gòn đóng ở trại Cửu Long, Thị Nghế Trong thời gian ở hậu cứ, tôi gặp Uyển hàng ngày, và cũng đang chạy chọt để chuẩn bị về luôn ở một bịnh viện hậu c Trong khi đó Uyển đang học đại học sư phạm năm thứ ba. Gia đình nàng có vẻ túng quẩn, bố nàng cũng là một quân nhân ở sư đoàn 7, đang đóng ở miệt Hậu Giang. Nàng phải đi làm thêm để giúp mẹ và đàn em. Mẹ Uyển đang mang thai một đứa em nữa. Uyển đã thú nhận với tôi nhiều lần là mẹ nàng nói nếu nàng lấy tôi thì khổ lắm. Trong một gia đình có hai người cột trụ đều là quân nhân hết... nhỡ có chuyện gì thì làm sao sống được. Có chuyện gì đây là nếu tôi tử trận và bố nàng cũng tử trận, thì hãy tưởng tượng đâu có thảm cảnh nào tàn bạo hơn. Nàng nói nàng nghĩ rất nhiều về những gì mẹ nàng nói. Có một lần, khi hôn tiễn tôi đi, nàng nói "Em yêu anh, nhưng anh phải hiểu. Em có thể chờ hoài một người đi xa, nhưng không thể chờ một xác chết. Chết là một cái gì rất vĩnh viễn, không bao giờ trở lại." Tôi yêu nàng tha thiết vào những ngày đó. Mỗi khi đi, tôi chỉ nói với nàng là chuẩn bị chờ tôi. "Mình sẽ lấy nhau năm 71." Tôi hứa hẹn với nàng.
Tháng 12 năm 70, đang đi hành quân ở vùng II bỗng nhiên cả lữ đoàn tụ về Ðông Hà, Quảng Trị, và Huế. Tháng hai, tin chánh thức cho biết vùng I sẽ đánh qua Hạ Lào. Sư đoàn dù, Sư đoàn 1, Liên đoàn 1 BDQ và Lữ Ðoàn 1 Kỵ Binh Thiết Kỵ sẽ là lực lượng chánh đánh vào Tchepone. TQLC chỉ đứng ở bên nầy biên giới bảo vệ các căn cứ tiếp vận ở Khe Sanh, Lao Bảo, Lang Vei mà thôi. Tôi thở phào nhẹ nhõm. Nhưng TQLC chỉ mừng được có một tháng. Cuối tháng hai tình hình quân sự của cuộc hành quân Hạ Lào hoàn toàn thay đổị Hai cao điểm của BDQ ở hướng cực bắc đường số 9 bị thất thủ. Biệt Ðộng Quân rút về hai đồi 30 và 31 của tiểu đoàn 2 và 3 Dù. Khuya đêm 24, tháng hai, 1971, đồi 30 mất. Sáu ngày sau đồi 31 của tiểu đoàn 2 Dù cũng phải di tản vì không chịu nổi áp lực. A-lê-hấp, "thẩy tụi TQLC vàọ Vẽ lại chiến thuật hành quân. Dù rút ra, nhường cho Sư Ðoàn 1 đánh vào Tchepone, TQLC nhảy vào thế cho sư đoàn 1 ở những căn cứ hoả lực." Bộ tư lệnh tiền phương quyết định như vậỵ Ban đầu chỉ cần một lữ đoàn TQLC thôi, vài ngày sau, bộ tư lệnh quân đoàn 1 quyết định đánh cho cạn láng luôn, thảy vào 2 lữ đoàn còn lại. TQLC đóng quân ở các căn cứ Lang Vei, Ðôn, Xanh, Hotel và Alpha. Xa hơn nữa, những toán Viễn Thám của TQLC thì đóng kèm với sư đoàn 1 ở căn cứ Lolo, Hy Vọng, Sophia. Tchepone chỉ cách Sophia chỉ có một tầm súng. Tôi đóng ở Ðôn, Ngôn đóng ở Hotel, Phúc đóng ở Delta, các tên bạn khác đóng ở các căn cứ hoả lực khác. Buổi chiều trước khi nhảy vào căn cứ hoả lực, mặt tên nào trông cũng thê lương. Ngôn đuà với tôi là muà hè năm này sẽ có một bầy con gái đi lấy chồng. Tôi không hiểu nó nói gì. "Thì chuyến này nguyên "băng" tụi mình "vãnh" hết, mấy em ở nhà phải đi lấy chồng chứ đâu làm đám cưới với cái xác của mầy được !" Nghe nó nói ghê quá. Chiều đó tôi có đưa cho một người hạ sĩ quan trợ y thân tính một chiếc hộp nhỏ, có đựng một con búp bê mặc áo TQLC, tất cả thư tình qua lại với nhau, và một tập truyện Tàu có tựa là "Tinh Tinh, Nguyệt Lượng, Thái Dương", một cuốn tiểu thuyết rất hay về tình yêu của ba cô con gái - mà tên là tựa truyện - trong thời loạn lạc chiến tranh giữa Tàu và Nhật, với nhiều hoàn cảnh ngang trái, lâm li... mà tôi đã cắt ra từ một nguyệt san định gởi cho Uyển đọc. Tôi nói với người lính nếu tôi tử trận, anh ta phải về ngay Sài Gòn (anh ta về Sài Gòn hàng tuần để bổ thuốc cần thiết cho bệnh viện dã chiến) đưa tận tay cho Uyển. "Phải giữ cái hộp này cho kỹ, vì đây là linh hồn của taọ" Tôi nói với người hạ sĩ quan. Trăn trối xong tôi nhảy xuống đơn vị hoả lực Ðon. Hôm đó là ngày 2 tháng ba.
Tuần đó, ở Sài Gòn, gia đình của các quân nhân thuộc sư đoàn Dù ở hậu cứ đã rầm rộ biểu tình trước dinh Ðộc Lập. Lính Dù không bị thiệt hại nặng nếu tính theo tỷ lệ quân số tham dự cuộc hành quân. Gia đình của các tử sĩ biểu tình là vì đa số các quân nhân bị tử thương đều không có xác đem về. Chết mất xác là một cái chết rất thê lương so với cái chết thường - nhất là đối với các thân nhân còn ở lại.
Xuống căn cứ Ðôn tôi mới hiểu tại sao Dù chịu không nổị Việt Cộng pháo như mưa, pháo ngày pháo đêm. Ðạn ở đâu mà tụi nó có nhiều qúạ Mặc dầu B-52 trải bom từng giờ, tụi Việt Cộng vẫn tụ quân lại để công đồn và pháo. Có lẽ biết ta đang đánh vào chỗ nhược, địch lồng lộn lên, bảo vệ mật khu của họ tới cùng. Tân binh của Bắc Việt tràn qua biên giới, bổ xung thêm vào cho mặt trận. Tử thi của các cán binh bận đồ mới toanh. Tchepone nằm trong tay của quân đội Việt Nam Cộng Hoà vào ngày 7 tháng bạ Nhưng trung đoàn 2 của sư đoàn 1 bộ binh bị chết gần hết để đổi lấy cái thị trấn không to hơn hậu cứ của sư đoàn TQLC. Bây giờ TQLC chỉ cố giữ những cao điểm, chờ cho sư đoàn 1 và Dù rút về tới căn cứ Bản Ðông nằm trên đường số 9 là lui quân. Nhưng trận chiến cũng giống như một bàn cờ tướng. Khi mình bị gài quân rồi, muốn rút đi phải thí quân. Căn cứ Sophia và Hy Vọng nằm gần Tchepone vừa di tản thì Lolo bị tràn ngập ngay. Ngày 19, tháng 3 các căn cứ chung quanh Lolo như Delta 1, Chị Hằng, Mầu Nâu... quân Bắc Việt đã xuất hiện ngoài hàng rào phòng thủ. Căn cứ Alpha và Bravo của các "Thiên thần mũ đỏ" nằm trên đầu của TQLC bị pháo thê thảm. Căn cứ Don, Màu Xanh, Delta, Hotel của "các thủy thần mũ xanh" cũng bị chìm dưới biển lửa của pháo binh địch. Bộ tư lệnh TQLC đã quyết định ngay: Quân từ Don tụ về Delta, từ đó, lữ đoàn 174 phải mở đường máu đánh về hướng Ðông để bắt tay với lữ đoàn 258 ở hai căn cứ Hotel và Màu Xanh. Từ Don về Delta không hề hấn gì. Nhưng từ Delta về Hotel thì lại là một chuyện khác. Lữ đoàn 174 bị cắt ra từng mảnh nhồ Một tiểu đoàn tình nguyện ở lại tử thủ để cản đường địch, cho hai tiểu đoàn còn lại về đến Hotel. Số tôi còn khổ. Tôi đang đi theo tiểu đoàn "tình nguyện" đô Ðường từ căn cứ Delta về Hotel dài chừng bảy cây số. Vừa đánh vừa rút lui, năm ngày sau mới về được phía ngoài của Hotel. Tiểu đoàn bị thiệt hại rất nặng. Không thể lọt vô căn cứ Hotel, chúng tôi đi ngược về căn cứ Màu Xanh với hy vọng tản bằng trực thăng về Lang Vei. Nhưng chúng tôi không còn màu xanh hay màu đỏ nào nữa để hy vọng. Khi thấy hai tiểu đoàn của lữ đoàn 147 về tới Hotel rồi, bộ tư lệnh TQLC di tản căn cứ nầy vào ngày 23 tháng 3. Trên đường về họ rước luôn toán quân đang đóng ở Màu Xanh, và ra lệnh B-52 thiêu hủy Hotel và Màu Xanh để khỏi lọt vào tay địch. Ðứng nhìn căn cứ Màu Xanh bị thiêu hủy, đám tàn quân chúng tôi thấy những hy vọng sống sót cháy bốc lên như cơn lửạ Căn cứ TQLC gần nhất là Lang Vei, cách đó 25 cây số, ở bên kia biên giới Việt Nam. Chúng tôi chỉ còn cách phải tiến về hướng đó.
Thật ra chúng tôi di chuyển theo bản năng sống thì đúng hơn. Vì sau lưng chúng tôi, Bắc Quân vẫn còn bám sát theo, như những bầy kên kên đang bổ nhào xuống một con hổ bị thương. Tôi lạc trong rừng 18 ngàỵ Ngày 5 tháng 4 cuộc hành quân Lam Sơn 719 được coi là chấm dứt. Ngày 15 tháng 4 đại đội Hắc Báo của Sư Ðoàn 1 được lệnh nhảy vào Mường Nông, một địa điểm nằm trên cao nguyên Lào, cách biên giới Việt Nam 40 cây số để doạ thám tình hình ở mật khu 611. Chuyến đột nhập họ có "lụm" được một toán quân 18 ngườị Trong đó có tôị Tôi về nằm nhà thương Trung Ương Huế cùng ngàỵ Về đây tôi được biết TQLC có tất cả 3 sĩ quan y sĩ tử trận, một mất tích và giả định chết-là-tôi trong chín sĩ quan tiểu đoàn trưởng, 4 chết 5 bị thương. Nhảy dù tổn thất còn nặng hơn. Bị mất tích gần 23 ngày mà tôi vẫn còn sống. Tôi nghĩ mình còn may mắn lắm.
Người lính trợ y đến thăm, ôm tôi mừng rỡ. Anh ta nói là khi Delta bị tràn ngập, chờ đến khi cuộc hành quân chấm dứt, và khi nghe chắc từ một nhân chứng nói là tôi đã tử thương ở giữa đường từ Delta về Hotel, anh về Sài Gòn trao hộp kỷ vật cho Uyển như được dặn. "Cô ấy xỉu khi nhận được tin và đồ của bác sĩ. Em thấy đau lòng quá, vội đi ngaỵ Bác sĩ nên đánh một cái điện tín về nhà ngay cho cô ấy được bình phục lạị" Tôi gởi ngay cho Uyển một điện tín, nhưng một tuần sau thì điện tín bị trả lại vì không người nhận. Rất lo, tôi muốn về Sài Gòn ngay, nhưng mãi đến hai tuần sau tôi mới bình phục, và về được Sài Gòn.
Nhà Uyển đóng kín cửa khi tôi đến tìm nàng. Chạy đến nhà một cô bạn của Uyển để hỏi tin thì mới biết được tại sao điện tín bị trả về: Uyển không nhận được vì cả nhà đã về Cần Thơ rồị Tuần đầu tiên khi nhận được tin tôi mất tích, nàng như là mê man đi. Rồi cả nhà phải về Cần Thơ để thăm ông bố - ông ta cũng bị thương. Quân khu IV cũng đang đánh qua Miên. Cô bạn còn nói rõ, Uyển sẽ hứa hôn với một giáo sư ở đại học sư phạm Cần Thơ. Nàng sợ quá rồi. Nàng sợ phải yêu một tình yêu có thể chết bất ngờ. Tôi lưỡng lự không biết có nên về Cần Thơ tìm Uyển không. Nhưng biết nàng đâu mà tìm. Hơn nữa, tinh thần tôi đang căng thẳng vào lúc đó: Xác những người bạn còn nằm nhà quàng ở nghĩa trang quân đội, mình phải đến tiễn họ đi. Tôi đi đưa đám tang những người bạn rồi nằm lại Sài Gòn, chờ coi Uyển có trở về không. Ở Sài Gòn chờ Uyển, tôi bị ám ảnh bởi một ý nghĩ rất lạ: Có thể nào tôi sống được như một người đã chết đối với Uyển không? Có thể nào tôi sống và không bao giờ gặp lại hay biết Uyển là ai? Tôi nghĩ nhiều như vậy vì tôi biết, Uyển sẽ biết, nàng là người lỗi hẹn.
Buổi chiều trời mưa thật lớn. Tôi và một người bạn ngồi ở quán 007, trong khu café Nguyễn Du ở phía sau trường Võ Trường Toản và Trưng Vương. Gặp lại một vài tên bạn cùng lữ đoàn, chúng ngạc nhiên nói tưởng là tôi đã tử trận ở Hạ Lào rồị Tôi thẫn thờ một hồi lâu. Ðâu phải chỉ có một mình Uyển là nghĩ mình đã chết. Có thể nào nàng hứa hôn? Nàng có nghĩ mình chết thiệt không? Trời giông mưa thổi vào những thân cây thật hung bạo. Gió mạnh lắc rơi những chiếc lá yểu mệnh xuống đường, và cuốn những chiếc lá đi theo cơn bụi của mưa về một hướng vô tình nào đô Ðoạn trước tôi có nói về hơi thở của Uyển: "Hơi thở nhẹ của nàng có thể làm cho những chiếc lá vô tri rung lên vì xúc cảm." Chiều hôm đó, tôi tưởng tượng giông mưa là hơi thở của nàng. Chỉ có điều là khi hay tin tôi về và biết mình lỗi hẹn, trái tim của Uyển đã kêu lên những tiếng đau thương. Và từ nỗi thống khổ của lồng ngực, hơi thở của nàng đã trở thành cơn giông bão của buổi chiều hôm nay. Tôi thường an ủi những người bạn có trắc trở về tình cảm, là đôi khi những cuộc tình đổ vỡ cũng có những cái đẹp của nó. Chiều mưa đó, dù tôi có muốn thảm kịch hoá chuyện giữa tôi và Uyển để tìm ra cái đẹp của một chuyện tình lỡ, tôi không thấy được một cái đẹp nào trong cuộc tình đổ vỡ của tôị Một buổi chiều ướt nhẹp, người yêu đính hôn, tiếng khóc từ đám tang. Tôi ngồi bất động, tưởng mình như "Người Viễn Khách Thứ Mười" trong vở kịch Nghiêm Xuân Hồng. Mình chỉ về đúng hẹn cho những lo lắng, khó xử.
Một tuần trước khi hết phép, bộ tư lệnh TQLC thông cáo cần sĩ quan y sĩ cho mặt trận Cam Bốt.
Từ sau cuộc viễn chinh 1970, TQLC vẫn còn duy trì hai tiểu đoàn tác chiến đóng bảo vệ quân bạn Miên ở Neak Luong. Tôi tình nguyện đị Ðể quên. Việt Cộng đã thua ở Cam Bốt từ năm 1970, nên chúng tôi chỉ đóng quân lì một chỗ, đọc thơ tình - thơ tình cũ, hoặc tảo thanh lặt vặt trong các xóm Miên. Nhưng ở Neak Luong có cái nguy hiểm không ngờ được; ở Hạ Lào đánh nhau thê thảm mà tôi không bị gì hết, ở đây, một đêm đang ngủ, pháo địch rơi ngay vào hầm, tôi bị thương máu ra lênh láng. Tôi được di tản về Cần Thơ, rồi về Sài Gòn. Tôi nằm điều trị được một tháng thì hay tin Uyển thành hôn. Trong bệnh viện, tôi thường nằm mê gặp nhiều mộng d Tôi thấy mình tử trận nhiều lần. Có lẽ, trong vô thức, tôi muốn mình chết đi để Uyển được an tâm đi lấy chồng.
Dù tôi có làm bộ chết vì bị nghĩ là đã chết rồi, nhưng nếu bạn có hỏi tôi về một Phượng Uyển nào đó ở Sài Gòn, thì đây, đây là một hai tự tình mà tôi còn giữ lại.
Nguyễn Kỳ Phong