vhnt, số 223
4 September 1996
Trong số này:
thư vhnt......................................................Phùng Nguyễn
T h ơ :
1 - Tiềm thức / Ðối diện mình ......................................
- Hạnh tâm khúc .................................Nguyễn Hiện Nghiệp
2 - Về nguồn ...........................................Trần Trung Ðạo
3 - Mắt lá .............................................................TTH
4 - Nén nhang ..............................................Trần Thái Vân
5 - Thơ Rod McKuen .............................Trần Thuyên chuyển ngữ
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
6 - Thi ca như một dòng sông ..........................Lương Thư Trung
7 - Góp ý bài phê bình của Trần Mạnh Hảo
về "Man Nương" của Phạm Thị Hoài ................Nguyễn Vy-Khanh
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
8 - Hồi ký từ một vùng biển ................................Ý Liên
9 - Ngày cuối tại một thị trấn .....................Trần Hoài Thư
Bạn thân mến,
Ðược sự ủy nhiệm của chủ biên Phạm Chi Lan, xin vui mừng báo tin cùng các bạn là Tuyển Tập Văn Học Nghệ Thuật Liên Mạng số đầu tiên đã hoàn thành và đang trên đường đến tay các bạn đọc đã đặt mua. Xin được nhắc lại Tuyển tập là một tập hợp của các bài viết chọn lọc của 200 số đầu tiên của vhnt. Tuyển tập phong phú này dày 352 trang, gồm nhiều tiết mục quen thuộc của vhnt như truyện ngắn, thơ, biên khảo/diễn đàn văn học, sáng tác, dịch thuật ngoại ngữ, phỏng vấn, và một vài nét về những người đóng góp. Tuyển Tập VHNT Liên Mạng đánh dấu sự trưởng thành của tờ báo yêu quí của chúng ta, và là một nỗ lực đáng ghi nhận của nhóm chủ trương và thân hữu.
Theo Phạm Chi Lan, tuyển tập là "một món quà văn chương gởi đến bạn đọc từ một thế giới khác lạ. Những sáng tác trong tuyển tập biểu lộ một cách nhìn nghiêm chỉnh từ một mảng văn học lẻ loi trên siêu không gian thông tin" gởi đến độc giả trong và ngoài cyberspace. Tôi muốn nói thêm rằng sự xuất hiện của tuyển tập là một phủ nhận của điều mà thế hệ "người lớn" Hải Ngoại vẫn hằng quan ngại: sự thờ ơ của giới trẻ Hải Ngoại đối với nền văn hóa và tình tự dân tộc của đất Mẹ Việt Nam.
vhnt mong được sự ủng hộ của các bạn. Trong những ngày sắp tới, bạn Trần Thái Vân sẽ tiếp tục nhận "order" từ các bạn. Ngoài ra, các bạn có thể tìm thấy thể lệ đặt mua tuyển tập trong gia trang của vhnt <http://saomaịorg/~vhnt/>. Sự cổ động của các bạn chắc chắn sẽ đưa tuyển tập này đến nhiều giới độc giả hãy còn xa lạ với không gian điện tử.
Chúc các bạn một ngày vuị
Thân ái,
Phùng Nguyễn
(viết thay PCL một kỳ)
tiềm thức
bàn tay lịch sử hôn mê
vuốt ve tiềm thức tôi về tiền căn
ngôn từ.
định mệnh.
gối chăn.
ngục sâu tĩnh mạch?
vầng trăng thiên đường?
mai tâm (hôn em), tê dại phố phường
xoáy cơn địa chấn, vạch đường căn nguyên
sặc cười, con thú hồn nhiên
nghĩa trang nguồn cội tịch biên, rất... người...
đối diện mình
rồi như con ốc mượn hồn
người thay áo mới mà bôn ba đời
ta theo người nhập cuộc chơi
cũng đeo mặt nạ, đãi bôi tiếng lời
trên môi gian dối nụ cười
trong lòng gươm dáo, sặc mùi điêu ngoa
một hôm người đối diện ta
bỏ đi mặt nạ, vẫn là ta thôi
hạnh tâm khúc
trăm năm hóa kiếp một giờ,
vầng trăng ta rung bên bờ nguyệt giai.
này nhân gian, sẽ thoát hài.
chân trần. đi. hát vang bài hạnh tâm.
bước ta tìm chốn thục lâm,
đào sâu mộ huyệt, ta nằm tắm sương.
và trong một giấc huỳnh lương,
thấy đời là cuộc hí trường, can qua
Nguyễn Hiện Nghiệp
Về Nguồn
viết tặng Trại Về Nguồn 96.
Có những người không trở lại sáng nay
Dăm chiếc lá như vàng hơn hôm trước
Những bàn tay bắt nhịp cầu mơ ước
Bầu trời xanh một chốc bỗng xanh thêm
Các em về, những kẻ lạ người quen
Như con nước tìm về nguồn xa thẳm
Từ Raleigh, Atlanta, Virginia, Texas...
Những giọt máu hồng chung mạch máu Thăng Long
Anh hiểu ra rồi, dù xiềng xích cùm gông
Không ai che được ánh mặt trời trong mắt
Trong đêm tối của hận thù ngăn cách
Một niềm tin vẫn sống giữa niềm đau
Em nghĩ gì khi nắm lấy tay nhau
Hỡi đứa em trai nói tiếng Việt Nam không dấu
Em đừng ngại rằng anh không hiểu thấu
Phù Ðổng ngày xưa cũng chỉ nói như em
Em ước mơ gì khi lửa trại bùng lên
Hỡi cô gái đỏ hồng đôi má thắm
Em đừng ngại, khi đưa tay nhau nắm
Bốn nghìn năm lịch sử mỉm cười theo
Mai mốt dòng đời ghềnh thác cheo leo
Mang hy vọng, con tàu em rẻ sóng
Hãy nhớ đến nhau trên quê người mưa nắng
Ngọn lửa Về Nguồn còn sáng mãi trong tim.
Trần Trung Ðạo
trên chuyến bay trở lại Boston 9/1/96
Mắt Lá
Lá đổ
Thu vàng
Ðôi mắt lá
chia ly
Cứ gọi tên người trong lớp lá
Chỉ có mùa thu chết lịm
tiếng trả lời...
Ví xác chẳng mang hồn nên lá chết
Ðể trăm ngàn mắt lá nhìn nhau
Không âu yếm nên lời đi chẳng nói
Chỉ tự lòng câm lặng
hiểu mình thôi...
Ví chẳng được trả lời câu gọi
Nên mắt tròn đau đáu dỏi thời gian
Chút tình khi lẻ bạn
chút buồn vương sợi tơ
Trong lá đổ
Thu vàng...
1991
TTH
Nén Nhang
Con đốt cho thầy một nén nhang
Ðầu hè trời nắng đã ươm vàng
Chiều nay nhớ tiếng ca dao cũ
Mây về, bóng ngả, nóng như rang
Từ độ chiến chinh thầy xa quê
Bôn ba chiến trận vẫn vui, hề
Bỏ cả quê hương thầy di tản
Lạc ngựa, xuôi dòng nước tào khê
Vào nam thầy nhớ lắm quê nhà
Gốc khế thương người bạn phương xa
Cành đào nhớ bóng hồng nhan cũ
Nhìn sông mơ một cánh buồm qua
Rồi thầy thăm quê cuối một ngày
Lệ chảy lưng tròng nhỏ xuống tay
Cố hương tàn mạt nhìn chẳng nhận
Lão đại khứ hồi tóc hóa mây
Ðất bắc thầy thương, hết còn mơ
Tuổi thơ cố quận đã xa mờ
Hạc vàng thầy cỡi từ năm nọ
Thành cha con chợt hiểu cố sơ
Như thầy con cũng phải đi xa
Biển dâu không muốn cũng nhận là
Gốc khế con thương thời gian cũ
Trông hồ nhớ nước chạnh thương gia
Thầy đừng trách con chuyện công danh
Ðời con thất bát chẳng sao thành
Nay chỉ còn thơ, danh chẳng đặng
Chiều ngẩng nhìn trời nước mắt xanh...
trần thái vân
thơ Rod McKuen
How tall we are.
We've learned so much.
Everything, it seems
But how to stay in touch.
Ðã lớn khôn ta.
Trường đời học hỏi.
Tất cả, trừ ra
Giữ vòng tay nối.
April 5
Life goes slow without love.
It moves along unhurried.
The sun rises.
The sun goes down.
There are those who pass by
changing the time-cycle
if you are willing to wait.
I am always shy
with these journeymen at first
and by the time I get to know them
they've gone away.
5, tháng 4
Cuộc sống chậm trôi tình yêu khuất mặt.
Di chuyển thong dong.
Mọc.
Lặn.
Mặt trời.
Sẽ có kẻ ngang qua đời những lúc
thay đổi tuần tự thời giờ
nếu đợi chờ ta.
Rụt rè đầu tiên
với những du khách linh hồn
và đến khi tri ngộ
người đã là quá kh
April 12
We come into the world alone.
We go away the same.
Wére meant to spend the interlude between in closeness.
Or so we tell ourselves.
But it's a long way from the morning to the evening.
12, tháng 4
Ta đơn độc chào đời.
Ta lìa đời cũng thế.
Phải sống kiếp gần nhau trong khoảng giữa tử sinh.
Ta tự dặn lòng.
Nhưng dài lắm con đường bình minh đi vào bóng tối.
May 25
There are some forest that I haven't known.
Some tree trunks Íve never wrapped my legs around and climbed.
A million branches I might have slid down had I had the time.
Still
some leaves tremble in the wood and caught my ear.
Some twigs beneath the hooves of dear snapped and signaled 'spring',
waking me from endless winter thoughts.
25, tháng 5
Có những khu rừng tôi chưa biết đến.
Có những thân cây chưa vòng chân leo.
Có triệu cành đời không rảnh rỗi tuột trèo.
Tuy nhiên
có những xạc xào lá run rẫy gió và tôi nghe.
Có những cành khô gãy dưới chân nai và báo hiệu 'mùa xuân',
đánh thức tôi từ những băng ý mùa đông bất tuyệt.
June 30
There is no wrong side
or right side.
No mystery in not being loved,
only in not loving.
I learned these truth myself
to tell them to you now,
as you go sailing through the sun
on your way toward life.
30, tháng 6
Không có bên sai
hay là bên phải.
Bí ẩn không là không kẻ yêu ta,
mà chỉ là ta không biết yêu người.
Chân lý này đời cho ta tự học
để hôm nay nói lại cùng em,
em hãy mang theo cánh buồm căn gió
xuôi biển đời rực ánh dương quang.
October 3
If you had listened hard enough
you might have learned
what I meant to say.
'Nothing'
3, tháng 10
Nếu em chịu khó lắng nghe
có thể em sẽ hiểu
ý nghĩa điều ta nói.
'Không gì cả'
Trần Thuyên chuyển ngữ
Thi Ca Như Một Dòng Sông
Mãi hoài trong dòng đời, tôi cứ nghĩ rằng thi ca như một dòng sông - Một dòng sông mang trong dòng chảy của mình tất cả những ngọt ngào, dịu êm, đằm thắm tưới ướt những ruộng lúa, những rẫy nương, làng mạc, vườn tược, cây cối... Cùng với sự sống của vạn vật. Dù đôi lúc dòng sông cũng bi-phẩn, giận hờn, cuồng-nộ... nhưng tự trong cội nguồn, dòng sông là cõi thường hằng, vĩnh cữu, hạnh-phúc, ngọt-ngào. Và mỗi thi sĩ là một nhánh sông, một con rạch, một khúc sông, một bến nước, một dòng nước từ khắp mọi nơi, mọi miền góp lại, tụ hội về một nơi chốn như muôn trùng, bất tận là đại dương, là cuộc đời, là thi ca. Và thi ca thì nuôi dưỡng, tô bồi, vun bón, làm mới, làm đẹp những tâm hồn, những con người, những mảnh đời... Vì thế sứ mệnh của thi ca trong lãnh vực tâm linh của con người là một sứ mệnh trọng đại, cần thiết, là một nhu cầu sinh tử, không thể thiếu vắng được. Bởi thi ca rất cận kề với con người, vì con người, phục vụ đời sống tâm linh con người, nên thi ca vốn dĩ là những gì đơn giản, bình dị, dễ hiểu. Nhìn vào dòng sông thi ca trải dài biết bao đời, biết bao thế hệ, biết bao kiếp người những lời thơ nhẹ nhàng, êm dịu, dễ hiểu, đơn giản, bình dị là những lời thơ bất tử, vĩnh-hằng dù thế-nhân có lặn ngụp qua biết bao lần dâu biển. Một vài trong muôn ngàn những câu thơ trong dòng văn- học Việt-Nam rất giản dị, không cầu kỳ vẫn mãi mãi sống với cuộc đời, sống với con người. Bởi vì rằng những dòng thơ giản dị, êm đềm đó hoà nhập vào những gì sâu thẳm nhất, của con người như dòng sông thắm ướt vào từng nếp đất, từng chùm rể, từng mạch nguồn của sự sống, của vũ trụ... Ðó là những lời thơ vàng ngọc của cụ Nguyễn-Du qua Truyện Kiều, của cụ Nguyễn-Khuyến qua những bài Thu Vịnh, Thu Ðiếu, Thu ẩm, của Bà huyện Thanh Quan qua bài Thăng Long Thành Hoài Cổ, Qua đèo ngang, v.v... Làm sao ta có thể khai tử được bài thơ Màu Tím Hoa Sim của Hữu Loan, Ðôi mắt người Sơn Tây, Tây Tiến của Quang Dũng,Hai sắc Hoa Tigôn của T.T.K.H, Áo lụa Hà Ðông của Nguyên Sa, Ta đợi em từ ba mươi năm, .Say của Vũ Hoàng Chương v.v... và còn vô vàn những bài thơ bất tử như vậy.
Những vần thơ quá cầu kỳ, triết-lý cao-siêu, mới mẻ theo một kiểu cách lập-dị sẽ làm cho người đọc cảm thấy xa lạ với thi sĩ - như người từ hành tinh xa xăm nào vừa đến cõi người này. Thơ ca và thi nhân sẽ trở thành người khách lạ hoắc. Người đọc không dám mời vào nhà dù thi nhân cố nài ép, van lơn, bởi lẽ rất đơn giản là cả chủ và khách đều xa lạ trong ngôn-ngữ làm sao mà cảm thông, chia xẻ được trong cõi thơ. Thi sĩ làm thơ trước hết là làm cho mình. Sau đó mới mang những vần thơ đi vào cuộc đời và dĩ nhiên cũng muốn những thông điệp của mình ở lại với cuộc đời. Ðôi khi, người làm thơ không cần độc giả có thích hay không thích những bài thơ của mình - như dòng sông cứ chảy không cần phải chảy thế này, thế khác, chảy về đâu. Nhưng dù sao, con sông chảy qua những cánh đồng, những làng mạc, những vườn tược, những nương rẫy... vẫn êm ả hơn, thú vị hơn khi phải vượt qua thác, qua ghềnh, qua những tảng đá ngầm, những cọc cắm chắn dòng sông. Thi ca cũng vậy, được người đời nghêu-ngao ngâm vịnh, nhắc nhở, chia xẻ, cảm thông khắc ghi trong tâm trong trí, người thi sĩ còn hạnh phúc nào bằng. Tôi có bộc bạch một đôi điều về sự chìm đắm tâm hồn của người đọc vào những vần thơ hay mà trong bài viết " Cảm Nhận Thi Ca" trên VHNT anh Trần Hoài Thư có nhắc tới như một khích lệ, một cảm thông, một chia xẻ của anh cùng độc giả và ngược lại về thi ca. Nhân dịp này, là một người đọc với con tim dạt dào, bình thản, luôn nghĩ cuộc đời như luống mạ, mảnh vườn gắn bó với một kiếp người đã hơn một lần thấy cái cần yếu của một dòng sông khi cánh đồng lúa khô cằn, bởi vì tôi là một nông dân. Và nông dân như tôi cũng chỉ là một con người. Mà con người thì không ai là không có một lần cảm nhận thi ca bằng con tim rung cảm của mình. Xin được cảm ơn thi nhân, cảm ơn những chắc chiu, những cõi lòng mà thinhân đã trải rộng trong dòng thơ, trong dòng đời làm cho cuộc đời của thế-nhân thêm thi-vị như những phù sa màu mỡ, ngọt lịm trong dòng sông làm tươi mát cánh đồng lúa đang rì rào trước gió, làm cho những vườn cây quằn trái chín ngọt ngào, làm cho những con người sống ở dọc bờ sông, bên dòng nước đang có được một phần đời hạnh phúc, êm đềm...
Lương Thư Trung
Boston 17.08.96
Góp ý bài phê bình của Trần Mạnh Hảo về "Man Nương" của Phạm Thị Hoài
Phần I
Chào đàn quạ,
Vắng 1 ngày, không ngờ cuộc thảo luận về TMH & PTH đến hồi hấp dẫn. Nhiều quạ đã góp hết ý, VK này xin có vài ý nghĩ như sau:
Như Xuân Sách đã làm thơ vẽ "chân dung" TMH, từ khi TMH trở thành chức sắc Hội Nhà Văn, TMH đã nhiều lần trở mặt lại với Ðổi Mới và LY THÂN của chính ông tạ Tôi vẫn coi LY THÂN như một phản kháng đã được... cho phép - như Nguyễn Hộ gần đây. Các nhà văn VN sống dưới chế độ hiện nay nếu có nổi loạn có ngườì vì lý tưởng hoặc thật tình như Nguyễn Huy Thiệp, Nguyên Ngọc, Bảo Ninh (!), nhưng cũng có người nổi loạn có LÝ DỌ TMH thuộc vào hàng ngũ này.
1. Văn chương tự nó có sứ mạng. Chuyện đó thấy rõ từ thời Khổng Tử và dù ở Ðông hay Tây phương. Thiêng liêng hay không là tùy con người làm việc đó hoặc xử dụng nó. Cứ rêu rao văn chương là thiêng liêng, nhiều khi lại biến nó thành phương tiện cho những cái không thiêng liêng chút nào. Dù sao đi nữa, văn chương có tác dụng lớn của nó. Mao Trạch Ðông từ 1942 đã đề cao sứ mạng thiêng liêng của văn chương: phục vụ chủ nghĩa CS; các nhà văn từ đó ở các nước CS được chiếu cố, được huấn luyện và được trả lương. Do đó khi thấy nhà văn nào trật đường rầy, chức sắc TMH phải lên tiếng, đâu có gì lạ ! (hình như PTH du học ở (Ðông) Ðức về Văn Khố và chưa theo học trường viết văn nào cả). Tóm, cho tôi nghi ngờ cái sứ mạng "thế giới tốt đẹp hơn, nhân ái vàbao dung hơn" mà TMH đưa ra dù tôi đồng ý với cái sứ mạng đó.
2. Phê phán tác giả dựa vào tác phẩm là đương nhiên, nhưng phải dựa vào toàn bộ tác phẩm. Nhà thơ Ðông Hồ vào cuối đời làm thơ rất... dở, nhưng ông vẫn là thi hào của Văn học VN.
3. Theo tôi, PTH đâu có mạ lỵ người VN nói chung. Bà chỉ mạ lỵ 1 loại người VN, ở 1 thời điểm nào đô PTH có quyền mạ lỵ loại người đó vì tôi nghĩ rất nhiều khác cũng nghĩ như vậy. Vả lại đây chỉ là 1 cách nóị Tôi còn nhớ khi rời VN 4-75, tôi nghe và thấy có ngươì mạ lỵ Phật và Chúa vì đã để mất miền Nam VN. - vì họ đọc kinh niệm Phật cả đời, có người mạ lỵ cả... tổ tiên không biết có ăn ở ác không mà nay con cháu phải... thế này!
4. Ðối với PTH, phân tâm học, tình dục có lẽ đã là khám phá hay cú shock rất mạnh, do đó đã ảnh hưởng "văn phong" của bà. Tôi cũng đồng ý với anh Sung, PTH làm dáng, nhưng tôi nghĩ bà làm dáng và ra vẻ mới là với nền văn học "minh họa" thôi, chứ còn thì bà đi theo đường Duy Lam, Chu Tử, Thế Uyên, vv đã vạch. Khuynh hướng tình dục của PTH do uẩn ức, may mà bà có thể phơi bày lên văn chương. Theo tôi đây cũng là 1 lối phản kháng chống tập thể đạo đức giả và là 1 tranh đấu cho ... nữ quyền : có ai thấy phụ nữ VN ngâm nga hay phân tích thơ của Hồ Xuân Hương??
Tóm lại, tôi không... bênh PTH. Phải công bằng nhìn nhận PTH đã đem cái mới, cái... thiếu cho văn chương ở quê nhà - bà cũng gây hứng thú cho 1 số người đọc ở ngoài nước. Về TMH, dù tôi đồng ý với anh Sung cho TMH phê bình nghiêm túc, nhưng tôi nghĩ TMH rất phiến diện vì ông có hậu ý không hẳn 100% là văn chương. Ý kiến nhà văn Minh Quân mà TMH nêu ra theo tôi rất tương đối và hơi yếu vì Minh Quân dù có truyện Ðất & Người do Lá Bối xuất bản, vẫn được coi là nhà văn giáo dục, và hình như bà đã... ngưng viết từ lâu rồi!
Phần II.
Tổng chào,
Cuộc thảo luận càng lúc càng gây cấn làm nỗi bật một điểm đáng quý là dù có nhiều quan điểm bổ túc và có khi đối chọi nhau vẫn trong tinh thần đối thoại.
Khác Sung, tôi vẫn không chịu được thái độ và mục đích phê bình của TMH qua bài "Văn chương hay là 1 cách ứng xử văn hóa" này. Xin hiểu là tôi đã đọc bài này như 1 độc giả trung bình không thiên kiến không phe phái biên giới chính trị gì cả. Nhưng khi đọc xong, tôi mới chợt nhớ tôi những gì tôi đã biết trước đây về TMH.
Thú thật tôi không biết TMH là đảng viên và tôi cũng không tìm biết chuyện đó. Tôi chỉ thấy TMH có một "conflict of interest " nào đó khi ông là một nhà văn mà lại đi phê bình một nhà văn đồng thời khác và hơn nữa, TMH nhắm tác giả hơn là "một" tác phẩm vừa được xuất bản (1995). Dĩ nhiên tất cả mọi nhà văn có quyền làm công việc phê bình thật - tức không chỉ thù tạc khen nhau; nhưng thái độ và mục đích phê bình của ông cho thấy ông muốn đứng cao hơn và đồng thời làm công việc của một công an văn hóa - điều này có thể là TMH tự phong. Ðó là lý do tôi dùng chữ "chức sắc" khi góp ý. Tôi thấy đây không phải là lần đầu, dù tôi không có cơ may được đọc sách báo bên nhà thường xuyên. Trong bài tổng kết "1994 - Văn học gối vụ" (Tác phẩm chọn lọc, 6-1995), Văn Chính có nói đến TMH "chê tập thơ Sự Mất Ngủ của Lửa (Nguyễn Quang Thiều) là Tây, hay khóc và nói đến vú bà goá hơi nhiều". Sau đó, vẫn theo lời Văn Chính, TMH bị phãn đối, thế là "ông Hảỗ. hạ thấp thơ hiện đại bằng những lời đanh thép hơi thừa".
Ngoài ra, tôi đã được đọc đâu đó (có thể tôi lầm) rằng TMH đã có những chỉ trích tiêu cực đối với các nhà văn vẫn được coi là "Ðổi Mới" tức sau 1987.
Sau khi được góp ý của Sung trong đó hỏi tôi đôi điều, vì vui và muốn hiểu rõ vấn đề hơn, tôi đã xem lại cuốn TỪ MAN NƯƠNG ÐẾN AK VÀ NHỮNG TIỂU LUẬN của PTH do Hợp Lưu in năm 1993 và 1 vài báo cũ còn giữ được. Sau đây là vài điểm xin đưa ra trong khuôn khổ cuộc thảo luận của OT :
- Quả thật, PTH muốn làm mới văn học và phản kháng thứ "văn học chính thức, công cụ". Trong bài VIẾT NHƯ MỘT PHÉP ỨNG XỬ (4-1989)(1), PTH đã viết "Còn đối với tôi, viết quả như một phép ứng xử toàn diện, trước hết là với bản thân mình, sau là ứng xử với môi trường, và môi trường ở đây là toàn bộ những gì mà tự nhiên và con người đã tạo ra, kể cả di sản của quá khứ và những tín hiệu dù còn mơ hồ về tương lai" (tr. 176). Sau đó PTH khẳng định "Ðối với tôi... vấn đề không còn là viết về cái gì, mà là viết như thế nào" (tr 176). PTH kết luận tin "người cầm bút trẻ sẽ càng ngày càng tốn ít năng lượng hơn vào việc thích nghi với thời đại của mình, hay đơn giản chỉ để sinh tồn trong khoảnh khắc, màcó thể dùng năng lượng ấy vào việc vượt qua chính cái thời của mình và kéo dài cuộc đối thoại với những thế hệ tương lai" (tr. 177).
Trong bài "MỘT TRÒ CHƠI VÔ TĂM TÍCH" tiếp theo, PTH có mấy câu... ngon lành "Trò chơi vô tăm tích của văn chương trở thành một trò phù thủy hù dọạ Có những nhà văn phù thủy đã sống suốt một đời no nê xôi thịt chỉ nhờ những bóng ma thiên tài. Và tâm lý sợ ma của người đời cũng lại là thâm căn cố đế" (tr 178).
Trong cuốn MẶT THẬT, Bùi Tín đã lập lại 1 câu nói của PTH nhà văn ông thán phục : "Truyền thống lớn nhất của văn học VN là truyền thống bị công cụ hóa, tới mức nó không thể hình dung nổi một chức năng nào khác ngoài chức năng công cụ, và tinh thần thẩm mỹ thống trị nó... không phải (là) tinh thần dẫn đường, ý thức sáng tạo phiêu lưu, là sự trịnh trọng cứng đơ chứ không phải tiếng cười".
Với những trích dẫn trên, tôi muốn khẳng định rằng PTH làm văn chương với mục đích hướng thượng. PTH trên cơ sở thuần túy văn học muốn làm mới, còn về nội dung của văn học, PTH phản kháng chống những quyền lực nhân danh văn chương để cưỡng bách văn chương. Nếu đó không là Ðảng, Hội, văn chương "minh họa" thì là những tâm trí (Mentality / mind) "bảo thủ", đạo đức giầ TMH thuộc vào nhóm người này, ông đã, nói như Phùng, nhân danh một cái THIỆN / MỸ nào đó để cưỡng bách những người khác theo. Tôi dùng chữ "đạo đức giả" để chỉ những bậc lãnh đạo văn nghệ khi hội nghị, nghị quyết thìrất Ðẹp = Tốt (theo chủ trương của họ) nhưng trong cuộc đời họ bất thường, ngược đời; và đằng sau hậu trường hội nghị, cũng những người đó đâm thọc, giành giật thiếu... văn hóa và cả giết hại nhau.
PTH lại là nhà văn nữ, do đó cái phản kháng của cô (bà thì đúng hơn) mang tính cách tranh đấu cho nữ quyền: viết như đàn ông, kể cả tình dục, ta đây, ồn ào, tàn nhẫn như... đàn ông, v.v...
Nhưng phải nhìn nhận đôi khi PTH dùng sai phương tiện. PTH làm dáng trí thức... hơi nhiều. Và tôi đồng ý với Sung, PTH trắng trợn, mất... văn chương. Văn chương của bà chịu nhiều ảnh hương Tây phương (phân tâm, tình dục) và theo tôi bà chịu nhiều ảnh hưởng của những nhà văn Nhật - có tác giả tả tình dục rất... sống (độc giả con nhà gia giáo sẽ vừa nổi da gà vừa nổi gai). Nhưng tôi nghĩ những đoạn văn hay truyện đó chỉ là giai đoạn, "văn phong" của PTH có bị tí tìvết nhưng không vì đó mà hết giá trị của nô Cũng như Trần Vũ, anh có những... thái quá và chi tiết sai lầm, nhưng văn chương anh vẫn đẹp!
Nguyễn Vy Khanh
Chú:
(1) Như vậy ta hiểu hơn tại sao TMH lấy tựa là " V CHƯƠNG HAY LÀ 1 CÁCH ỨNG XỬ VĂN HÓA".
Hồi Ký Từ Một Vùng Biển
cho các bè bạn V, L. và Th.
Tháng tám, ngày 18
Hungtington Beach trời về khuya càng lạnh, tôi bước mỏi mệt theo chân mấy người bạn tíu tít ở phiá trước. Cả bọn sau bữa ăn tối họp mặt kéo nhau đi dạo biển để cho Vĩnh, người về từ Âu châu được ngửi mùi biển nồng nàn của California, để nhớ lại những lần phơi nắng ở Vũng Tàu hay vùng biển cát trắng Nha Trang. Tôi không hăng hái nhưng vẫn đi vì tính tôi vẫn vậy thích chiều bạn bè trong những thú vui dễ thương và cũng vì ngày mai tôi cũng rời xa California để về một vùng chỉ có những mặt hồ yên lặng và một nhánh sông Misouri lặng lẽ chảy ngang qua dọc theo con lộ từ phi trường vào thành phố mà tôi đã trông thấy trong chuyến đi vừa rồi.
Chúng tôi bỏ lại bên kia đường những dòng xe chen chúc, những lề đường bắt đầu đông người đi dạo về đêm để bước lên chiếc cầu dẫn ra biển. Một vài cặp đi dạo, tay trong tay, lơ đãng và nhàn hạ, thỉnh thoảng liếc nhìn chúng tôi kín đáọ Một cái dáng ngồi kiên nhẫn bên thành cầu với sợi dây dài đầy vẻ bí mật dưới mặt nước đen thẩm, ông ta đang chờ một chú cá lạc loài và hấp tấp nào đô Cái dáng im lặng xa lạ mà quen thuộc tôi đã bắt gặp nhiều lần trên những vùng biển Ventura, Redondo Beach, Santa Monica... những mùa hạ cũ tuyệt vời, những hạnh phúc khi còn được làm cô học trò, với cặp sách cầm tay, ngượng ngùng tìm chỗ ngồi ở góc lớp mỗi lần đi trễ. Những buổi chiều trên cầu lồng lộng gío, tôi cuống quít lo giữ mái tóc rối tung, trong khi Hiểu Ðông tinh nghịch đùa giỡn với những con hải âu hiền lành lẻ loi đi lại trên cầu. Hiểu Ðông còn thích đứng lại trò chuyện với người câu cá mà Hiểu Ðông thường gọi đùa là "ngồi chờ thời" để sau đó bỏ đi, lần nào Hiểu Ðông cũng cương quyết bảo tôi: "Hiểu Ðông sẽ sắm một cần câu như ông ấy, Hoài Thương chịu khó xách giỏ mồi ". Tôi thường phì cười với cái giấc mơ ngộ nghĩnh không bao giờ thành sự thật ấy vì sau đó chúng tôi mỗi đứa mỗi nơi với công việc mới, nói chuyện trên điện thoại hầu như là một sự hiếm hoi.
Cả bọn dừng lại giữa cầu. Phương, người bạn trai tôi quen trong mùa giáng sinh năm rồi bây giờ có vẻ tương đắc với Thảo, bạn tôi, và Lan cô em họ của Thảọ Họ tranh nhau chỗ đứng ở một góc cầu và bắt đầu chụp hình. Vĩnh, bạn nối khố của Phương, và cũng là người bạn trai mà đám con gái chúng tôi vừa mới gặp, người khách của California, vừa làm phó nhòm vừa pha trố Tôi vô tình đứng sang một bên thành cầu vừa chăm chú vừa lơ đãng nhìn đám bạn di động vui vẻ trong ánh sáng yếu ớt của ngọn đèn từ trên cao hắt xuống. Tiếng cười họ vọng lại vô tư dòn dã, Phương khi thì đổi phiên làm đạo diễn , khi thì tươi cười đứng giữa hai cô gái. Cái răng khểnh của anh chàng được dịp khoe ra nhiều lần trên vẻ mặt trầm lặng kín đáo đến độ làm tôi phải e dè. Tôi bất giác vịn vai cầu nhìn xuống mặt nước tối đen lóng lánh những mảnh trăng vỡ vụn, cố quên đi con gió lạnh từ phía đầu cầu thổi vào. Chiếc áo khoác jean mỏng cộc tay không đủ làm ấm đôi cánh tay đang bắt đầu nổi gai ốc. Bất giác tôi vòng tay ôm lấy mình, co ro, nhìn ra ngoaì khơi. Trăng giữa mùa thu thật sáng. Ngắm trăng, lâu qúa rồi dường như tôi quên mất cái thú thưởng ngoạn đơn sơ mà đã trở thành xa xỉ trong cuộc sống chạy đua với cây kim đồng hồ ở đất nước này. Nhìn mặt biển mênh mông tôi chợt nhớ lá thư của đứa em trai thơ dại mười lăm năm về trước kể về chuyến đi bất đắc dĩ mà ba mẹ tôi gạt nuớc mắt để em ra đi: "tàu ở giữa biển, sóng lớn, nước tràn vào, mọi người đều say sóng, con đói bụng, ướt và lạnh, mặc dù có cái áo mưa mẹ đưa cho con. Mấy đứa nhỏ khác có ba mẹ đi cùng, tại sao con không có, con nhớ ba mẹ, và con khóc". Tôi bất chợt thở dài, mười lăm nam qua rồi, tuổi thơ em tôi như những tuổi thơ khác có nhiều mất mát. Ðứa em trai bây giờ đã là một cậu thanh niên cao lớn vạm vỡ nhưng không bao giờ còn dịp gặp lại ba tôi sau cái đêm chia tay người ngồi ở ghế xếp, cúi đầu cầu nguyện, nhưng không dám tiễn chân thằng con trai út lên tàu vì tin rằng đưa tiễn sẽ làm chuyến đi xa trở thành một biệt ly thật sự. Hơn thế nữa, ba tôi còn sợ người sẽ mềm lòng và đổi ý mà giữ đứa em trai tôi lại chăng. Dù không đưa tiễn, chỉ trong vòng nửa năm sau, bệnh tật cùng nhớ thương đã không cho ba tôi còn dịp nhìn lại những đứa con trai bên kia nửa vòng trái đất. Bao giờ cũng vậy, khi cuốn phim dĩ vãng quay trở lại đúng giờ phút xót xa ấy, tôi lại kịp lắc đầu xua đuổi cái kỷ niệm cứ hằn mãi trong lòng tôi như một vết chém độc ác không bao giờ lành hẳn.
Vĩnh đến bên tôi tự lúc nào, tiếng anh loãng trong gió lạnh "Sao Hoài Thương không chụp hình". Tôi quay lại nhìn Vĩnh, cái mục đích đi chơi tối hôm nay, cười thân thiện. Vĩnh nhìn chiếc áo mùa hè cộc tay của tôi áy náy :"Lạnh lắm không?". Tôi chợt rùng mình vì cơn gío chợt ập đến nhưng vẫn trả lời với một chút khách sáo "chút xíu thôi anh ạ" . Thảo chạy lại nhanh nhẩu như mọi lần "mặc đỡ áo khoát của Thảo đi". Tôi cầm lấy chiếc áo quên cả e lệ mặc vào, mặc dù mặc áo của người khác trước khi ngắm bóng mình trước gương là điều tối kỵ với tôi . Phương trở lại với nụ cười răng khểnh, với Lan, Thảo và chiếc máy ảnh hỏi sao tôi không chụp hình. Tôi cố gắng không nhìn Phương để dấu một cái nhìn trách móc khi Phương bảo tôi " Hoài Thương lúc nào cũng giữ một khỏang cách ". Phương có lẽ lúc nào cũng muốn nhìn thấy tôi đùa giỡn như một cô gái vô tư lần đầu tiên gặp nhau trong mùa đông năm ngoái, trong khi lòng tôi cứ đầy ắp những âu lo về chuyến đi ngày mai, công việc sắp nhận ở một vùng mới lạ, bệnh tình trầm trọng của mẹ tôi và những thay đổi không ngừng của đời sống. Tôi trầm mình trong suy nghĩ của mình, Vĩnh tiếp tục chuyện trò với tôi về đời sống ở nước Mỹ, những ký ức về Việt Nam, về những nơi anh đã từng đi quà. Tôi chỉ mang máng nghe anh nhắc đến Switzeland, Paris, Italian, hay hỏi tôi về một bản nhạc mà tôi ưa thích. Vĩnh có lối nói chuyện nồng ấm và thân thiện khác hẳn với nét nhìn đạo mạo lúc đầụ Tôi cũng nói chuyện nhiều với anh nhưng không nhớ điều mình đã nói, hình như về những bài nhạc đã từng làm tôi say mê, nắn nót chép tay trong một cuốn tập, về việc làm của anh và tôi trên hai phương trời khác biệt. Chúng tôi vẫn còn là đôi bạn mới quen chưa có kỷ niệm gì để nhắc nhở, thôi thì nói chuyện mưa chyện nắng, chuyện California, chuyện thế giớị Biển về đêm càng lúc càng lạnh, cuối cùng tôi đề nghị cả bọn ra về vì ngày mai phải lên đường sớm. Cả bọn lại nấn ná, dằng co . Phương như say mê đùa giỡn với Thảo và Lan làm như không biết chuyến bay của tôi vào ngày maị Vĩa hè với những chiếc ban'h ngọt và ly cà phê nóng lại giữ chân chúng tôi thêm một lần nữa. Tôi và Vĩnh lại có thêm thì giờ để chuyện kháo còn Phương đối với tôi thêm lạ lùng và xa lạ hơn mọi bận nhưng tôi mỏi mệt đến độ không còn muốn chú ý. Cuối cùng rồi chiếc xe của Vĩnh lần lượt trả các cô bạn về nhà. Phương ngồi mệt mỏi ở tay lái nhìn Vĩnh ân cần chờ các cô vào hẳn bên trong cánh cửa khép kín. Còn lại ba đứa chúng tôi trên đường về, im lặng , thỏai mái tôi ngả người đàng ghế sau khép mắt, chúng tôi bỏ lại thành phố West Covina nửa đêm về sáng với mùi hương hoa lài thoang thoảng, những tàng cây lá ngủ yên trong ánh đèn vàng. Cái lạnh của biển và maù trăng bao la vẫn còn vây lây tối trong lòng xe chật hẹp.
Tháng tám, ngày 19
Buổi trưa lại đến, California vẫn còn ấm nắng, mùa thu vừa mới bắt đầu. Thảo, Vĩnh và Phương đúng hẹn đến để đưa tôi lên phi trường. Tôi mất cả buổi sáng để chuẩn bị mà mẹ tôi vẫn cứ đi ra đi vào nhắc nhở tôi mang theo cái cái nọ làm như tôi sắp di sang một nước khác không bằng. Tôi từ giã mẹ tôi, rồi im lặng khép cánh cửa trước khi người kịp vụng về quay vào để che những giọt nước mắt lo âụ Trên bàn, mấy nụ hồng bất ngờ Hiểu Ðông mang đến từ chiều hôm qua đã gục đầu tội nghiệp trong chiếc lọ thuỷ tinh. Hôm qua vì vội vàng gặp mặt đám bạn, tôi đã không đủ kiên nhẫn chờ đợi khi Hiểu Ðông cứ luẩn quẩn bên tôi như muốn nói điều gì. Là người chót cùng lên máy bay tôi thầm mong bắt gặp cái dáng cao gầy vội vàng của Hiểu Dông đến tiễn chân, nhưng Hiểu Ðông như những ngày hạ ngắn ngủi đã qua đi không trở lại cùng tôi giữa mùa thu hoe nắng. Có phải những bận rộn của đời sống đã chia cách chúng tôị Tôi chợt tủi thân, để che dấu hai khoé mắt bắt đầu ươn ướt, tôi vòng tay ôm cô bạn Thảo nhỏ nhắn để từ gỉa, bắt tay với Phương nói vài câu từ biệt, và cuối cùng cái siết tay nồng ấm vững vàng của Vĩnh theo tôi suốt chuyến bay dài.
Tháng mười , ngày...
Ngày tháng trôi lênh đênh, nỗi hăng hái hôm nào lúc mới đến vùng đất mới này bây giờ còn lại sự mỏi mệt với thời tiết và với giấc ngủ không trọn vẹn. Thư của Vĩnh từ Thụy Sĩ đến như một tia nắng ấm mà tôi đã bỏ quên ở California. Anh nhắc đến những luyến tiếc khi rời California đông đúc để trở về đồi thông quanh năm xanh mướt nơi anh Anh cũng không quên chữ "courage" trong tấm thiệp mà anh đã tặng cho tôi trên đường đến phi trường. Tôi bỗng dưng tự trách mình yếu đuối , đúng ra tôi mới là người khuyến khích Vĩnh vì anh một mình đơn độc nơi Thụy sĩ , và lẻ loi khi đến viếng thăm nước Mỹ. Tôi lại ân hận đã từ chối lời mời đi thăm Hungtington Library ở California vừa qua cùng Phương và Vĩnh. Sự e ngại chỉ manh nha khi tôi cảm thấy một khỏang cách nào đó giữa Phương và tôi, khỏang cách ấy ngày càng lớn một cách khó hiểu. Những liên lạc thưa dần, vài lần nói chuyện với Phương qua điện thoại trở nên ngắn ngủi và kiểu cách. Vĩnh thỉnh thoảng với vài tờ thư ngắn ngủi thăm hỏi và nhắc nhở về Phương, về tình cảm mơ hồ nào đó mà Phương dành cho tôi. Với Vĩnh hình như có một quan hệ đặc biệt giữa Phương và tôi và anh có bổn phận phải gìn gi Vĩnh hay chăm sóc và Phương thì ngược lại, thích được chăm sóc nên hai người thân nhau cũng chẳng lạ Tôi bỗng thấy thân thiện hơn với Vĩnh và những chiều cuối tuần bắt đầu có một nỗi chờ đợi thầm lén một tiếng chuông điện thoại reo vang.
Tháng giêng, ngày ....
Mùa đông chiều chúa nhật, mùa đông xám, lạnh đến mỏi mệt và nhức nhốị Vùng hồ xanh trước mắt từ dạo tôi mới đến đã trở thành một màu trắng mênh mông của băng tuyết, những ngọn cỏ đã héo vàng ngủ yên đâu đó dưới lớp tuyết dày cả mấy tuần qua càng thêm cái lạnh lẻo của mùa đông. Cuộn mình hoài trong chăn rồi tôi cũng phải ngồi dậy, lo cho cái xe của mình đang lúc lọ lem vì tuyết pha bùn đất của vùng Midwest nàỵ Tôi lười biếng hong từng lọn tóc ướt sũng sau cả giờ ngâm mình trong dòng nước ấm áp để chuẩn bị đi ra ngoài một ch'ut thì điện thoại vang lên hối hả, thúc giục. Bình thường thì tôi để cho cái máy trả lời của tôi làm công việc của người thư ký: nhận điện thoại, trả lời, và ghi lại lời nhắn nhủ mặc dù mấy lúc sau này có nhiều lời than phiền. Mẹ tôi lần đầu tiên gọi cho tôi, đã bảo: "con để message cái giọng của ông nào nghe mà... ghê quá, mẹ cứ tưởng gọi lộn số.". Mấy đứa bạn thì cằn nhằn : "Bạn trai của bồ đó hả, nghe giọng mà phát khớp". Có người muốn liên lạc với tôi về công việc thì bảo "tôi thật không muốn nói chuyện với cái giọng robot dó". Nhớ lại, tôi phì cười và thuận tay bắt điện thoạị Giọng nói bên kia vang lên ấm áp và ngần ngại:
"A lô, xin cho nói chuyện với Hoài Thương".
Tôi cũng lịch sự đáp lại, mặc dù có chút mơ hồ thắc mắc, ai đấy nhỉ, ai mà gọi tên cúng cơm của tôi giữa cái vùng khỉ ho cò gáy này:
"Hoài thương đây ạ, xin cho biết ai ở đầu dây".
Tiếng cười nhỏ nhẹ, và giọng nói có vẻ quen thuộc hơn:
"Vĩnh đây, bộ chưa nhận ra ạ".
Tôi cố nén nỗi vui của mình để khỏi hét lên trong máy vì thảng thốt và cảm động:
" Ô... Vĩnh. Vậy mà cứ tưởng là ai. Anh gọi từ Thụy sĩ đấy hở?".
Vĩnh vẫn từ tốn:
"Ỡ, không, từ Trim Bach".
Lại phá tôi, thành phố Trim Bach ở Thụy Sĩ mà lại. Tôi vui đến nỗi không biết nói gì, lại hỏi anh quanh quẩn về sức khỏe, mưa nắng trời Tây. Cú điện thoại bất ngờ làm tôi đâm vụng về hơn cái vụng về thường ngày. Vĩnh vẫn thế, khéo léo, tế nhị pha một chút khôi hài . Anh muốn biết tôi đã nhận và có thích món qùa anh đem sang từ Việt Nam không. Ôi Vĩnh, anh thật chu đáọ Làm thế nào mà tôi quên được món qùa xinh xắn ấy. Không biết nhau nhiều nhưng Vĩnh thật biết chọn qùa hợp với mắt nhìn của tôi: một tập thơ Hồ xuân Hương nhỏ xíu, một chiếc hộp đựng viết bằng đá cẩn vỏ ốc xà cữ. Tôi ước phải chi Phương cũng có những chăm sóc nhỏ nhoi như vậy thì tình bạn hai đứa chúng tôi thắm thiết biết chừng nào. Phương lúc này xa lạ hẳn, nói chuyện thì dăm BA câu khuôn vàng thước ngọc, cái mồm hay nói của tôi cảm thấy khốn khổ mỗi lần trò chuyện với nhau. Thảo vẫn liên lạc qua điện thư với tôi, cô nàng đang đau khổ vì một mối tình câm nín manh nha nào đô Thảo còn cố gắng mai mối Phương cho Lan, cô bạn gái hôm nào, khi bắt đầu nghi ngờ rằng Phương có cảm tình nghiêng hẳn về Thảo. Phương thì lắm lúc nhiệt tình, khi thì lững lờ cành rong phiêu bạt. Ôi cuộc tình tay ba, Thảo vẫn còn cái tính phiêu lưu lòng vòng như vậy. Tôi lắng nghe và không nhập cuộc.
Tôi kể cho Vĩnh nghe một chút "diễn biến" sau ngày anh trở về Thụy sĩ , mới chừng sáu tháng mà tôi có cảm giác chừng sáu năm đằng đẵng. Tôi nói với Vĩnh như nói với một người anh, tin cậy và cởi mở mặc dù Vĩnh còn nhỏ tuổi hơn cả Phương. Không gian khác biệt nên thời gian cũng không giống nhau và không cho phép chúng tôi nói nhiều. Ðã nửa đêm về sáng bên trời Tây, Vĩnh cần phải dỗ giấc ngủ cho công việc ngày mai ở bệnh viện, còn tôi phải chạy đi rửa gấp cái xe đất bùn lem luốc sau khi hứa hẹn sẽ gọi lại cho Vĩnh. Tính tôi vẫn vậy , luôn luôn làm hỏng thời khóa biểu của mình vì những niềm vui bất ng Tiệm rửa xe đã đóng cửa, trên đường về tuyết trắng vẫn còn đọng đầy trên hai vệ đường, tôi thầm nhủ: "Thôi thì ngày mai vậy". Nhưng tôi biết tôi không lo nghĩ về chiếc xe của tôi, một mối bận tâm vừa chợt đến trong tôi, lớn hơn, quan trọng hơn - một món quà nào sẽ dễ thương đối với Vĩnh như cuốn thơ nhỏ xíu mà tôi vừa nâng niu kiạ Tôi chợt cám ơn vùng biển California đã cho tôi gặp thêm người bạn mới bên cạnh một Hiểu Ðông luôn bận rộn, một Phương luôn luôn là một bí ẩn và một Thảo luôn dằn vặt bởi những mối tình không đoạn kết.
Ý Liên
Ngày Cuối Tại Một Thị Trấn
Cuối cùng chúng tôi cũng thoát được vòng vây. Hai trái bom đã đánh trúng vào mục tiêu của địch, cách sân bay khoãng chừng năm mươi thước, gần chúng tôi đến nỗi khiến thân thể chúng tôi phải bật lên khỏi giao thông hào, và sức ép của bom đã làm lồng ngực chúng tôi phải dội lại đau điếng. Lửa bốc ngọn từ những chiếc chiến xa T54. Mắt tôi có thể nhận ra những người lính Bắc quân ngã quị sau chiến xa ở đằng sau những hàng cao su. Chiến xa còn lại quay ngược đầu lui vào sau trong bìa rừng. Tiếng hét của viên đại đội trưởng: Tất cả chạy. Không ai bảo ai nhào lên giao thông hào, ào về phía bãi lửa, đạp trên những xác chết, và chạy. Có người đạp phải mìn mà chúng tôi đã gài. Tiếng nổ bừng dậy, bụi thốc mù trời, và thân người lính cũng bị bắn tung, tơi tả.
Không thể ngờ tình trạng lại thay đổi một cách thật kỳ cục. Cám ơn người phi công. Cám ơn chiếc phản lực xuất hiện trên bầu trời để tiếp trợ. Cám ơn thằng bạn tôi, thiếu úy Phương đã điều chỉnh hai trái bom cứu tử. Nhất chín nhì bù. Khi cái nỗi tuyệt vọng đã đến cái mức độ trở thành liều lỉnh, thì sá gì năm mươi thước. Chiếc phản lực từ trên cao như một chấm đen, chỉ trong một tích tắc đã lao xuống sát sân bay, chừng như chạm phải hàng rào kẻm gai, hay những hàng cây ngoài khu phi đạo, và vút cao lên, tiếng rú của máy tàu, cuộn khói trắng ngùn ngụt để lại đằng sau, như thể trút hết cơn giận dữ điên cuồng, lần cuối cùng cho một trận chiến mấy mươi năm. Cám ơn người phi công vô danh nào đó giữa một bầu trời mênh mông vô định, bỗng trở thành một vị cứu rỗi ân nhân. Thật là một cú đánh thần kỳ để chúng tôi được sống sót. Ðịch có lẽ bị kinh hoàng sợ những phi vụ khác tiếp tục nên đã rút lui, bỏ mặc chúng tôi giờ đây đang tom góp tàn binh bỏ chạy. Cứ thế, tiếp tục một cuộc hành trình khác. Không ai biết những diễn biến đang xãy ra xung quanh chúng tôi, với những tin tức đầy bi quan đen tối. Viên đại đội trưởng vẫn tiếp tục cố gắng liên lạc máy với Mặt Trời, nhưng cuối cùng cũng đành bỏ cuộc. Ngay hôm qua, máy liên lạc vẫn còn nhận được tin tức và chỉ thị của ông. Bằng mọi giá phải bảo vệ phi trường, khu trại gia binh và bản doanh trung đoàn. Giọng ông cứng rắn, như nghiến theo từng nỗi tức tối, điên cuồng. Mất phi trường có nghĩa là mất tất cả. Phi cơ sẽ không còn chổ để đáp xuống tiếp trợ. Trại gia binh sẽ phải lâm nguy. Vợ con thân nhân sẽ phải bị trả một giá rất đắt. Và sau đó thành phố sẽ phải biến thành mồ chôn tập thể. Ai cũng hiểu được điều đó. Ngày đầu tiên, chúng tôi đã nghe ông thuyết giảng về tình hình quân sự và cuối cùng là những lời tâm huyết làm thốn cả tâm can chúng tôi. Khi ông nói, mắt ông đỏ ngầu, nhìn chúng tôi như van lơn, khẩn cầu. Chúng tôi hiểu là chúng tôi đang tham dự vào một ván bài lịch sử, hay nói một cách tự kiêu hơn, chúng tôi là những kẻ đang làm nên lịch sử. "Cả Sài gòn, cả miền Nam đang chờ đợi chúng ta. Không sớm thì muộn, cấp trên sẽ tăng viện, và chúng ta sẽ lấy lại những phần đất mà chúng ta đã mất. Ðây là lệnh của tôi. Ai đào ngũ, bỏ chạy, sẽ bị bắn ngay tại chỗ". Ông làm chúng tôi phấn khích. Ngay hôm ấy, chúng tôi đã dàn cả đại đội xung quanh khu vực phi trường, hối hả đào những giao thông hào, đấp lại những hầm bao cát. Mỗi người lính được phát thêm hai ống phóng hỏa tiển chống chiến xa. Kho tiếp liệu mở cửa, từng thùng lụu đạn được khiêng vào phi trường, và lương khô được phân phát tối đa. Viên đại đội trưởng cảnh cáo đám sĩ quan thuộc cấp không nên tiết lộ bất cứ một điều gì về cái tình hình bi quan đang đe dọa thành phố. Ông ta lo sợ lính sẽ bỏ ngũ. Riêng tôi thì khác. Ðây chính là lúc người lính ý thức được nhiệm vụ của hắn hơn bao giờ hết. Bởi vì đằng sau hắn là trại gia binh, là gia đình của hắn. Hắn biết nếu hắn thua, có nghĩa là vợ con của hắn cũng không thể được yên. Hắn phải bảo vệ gia đình bằng mọi giá. Vâng, tôi nghĩ đúng. Chính cái ý thức kia đã trở thành những ngọn lửa, cháy bùng dữ dội trong con tim của những đứa con của chiến trường. Ngày trước, chiến trận chỉ là những trò chơi cũng nên. Cấp trên ra lệnh. Tuân hành lệnh. Rồi phi pháo ùa chụp. Xung phong vang trời. Ðại liên, trung liên, tiểu liên nổ dòn. Lựu đạn rút chốt. Rồi dĩ nhiên sẽ có một phe thắng. Rút quân đi, cũng chẳng cần luyến tiếc. Chỉ có chăng là nhớ đến bạn bè, đồng đội. Cái đỉnh đồi vừa chết vừa bị thương đến 50 người đâu có gì đâu để mà nhớ. Chỉ là gai dại, hang đá chập chùng. Chỉ là những lối quanh co, mát lạnh dưới bóng cổ thụ. Nhưng phải đau bởi ánh mắt tuyệt vọng, bởi những lời rên rỉ, bởi bao nhiêu kỷ niệm đã chia xẻ. Nhưng bây giờ thì khác. Chúng tôi đã hiểu thế nào là ý nghĩa của việc cầm súng của mình. Chúng tôi đã biết rõ tình hình nhưng chúng tôi vẫn khinh mạn. Là lính trinh sát, và thám báo, chúng tôi hơn các đơn vị bộ binh khác là chúng tôi biết rõ hơn về địch tình, các đơn vị địch tham gia, áp lực của địch. Chúng tôi đã báo động về sự có mặt của hai sư đoàn chính qui Bắc quân là Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320 Tân lập gọi là Sư đoàn Xã hội chủ nghĩa trong rừng già cách Ban Mê Thuột chừng vài chục cây số, trước ngày thành phố này bị mất đến ba bốn tháng. Chúng tôi đã thấy quân chính qui phía bên kia di chuyển như vào chỗ không người. Quân phục của họ mới cắt chỉ đủ biết họ mới xâm nhập. Nếu cấp trên nghe lời chúng tôi thì chỉ vài phi tuần B52 thì chưa chắc mọi sự được giải quyết ổn thỏa. Phải, chúng tôi chỉ là những con tốt nhỏ, không thấm vào đâu so với những tay mặt trời, mặt trăng chỉ huy hành quân trong phòng lạnh... Họ mà nghe chúng tôi thì làm gì có cảnh chúng tôi phải được triệu hồi một cách khẩn cấp từ chiến trường rừng già về thành phố. Bây giờ mọi sự đã trể. Có nên nói điều này cho những người lính đại đội. Tôi nhìn họ đào hối hả những giao thông hào, lưng trần nhể nhại mồ hôi, hay di chuyển những thùng lựu đạn, cả những can nước. Trên gương mặt của họ, chắc tôi sẽ không bao giờ quên được, một vẽ đăm chiêu nghiêm trọng, tuy nhiên đám lính trẻ vẫn cười giỡn vui đùa. Ông trung đội phó của tôi thì hay ngồi một mình trên bờ hầm, hết uống rượu đến hút thuốc. Thằng Hường tiếp tục lấy cuốn kinh Phật lật từng trang đọc kinh. Thằng Nha cao như Mỹ đen, lấy hình thằng con trai mới sinh ra nhìn. Tháng ba, miền núi vẫn thường có những cơn mưa bất ngờ, và khi ấy, bầu trời xám xịt, đất đỏ biến thành bãi bùn nhảo nhẹt, giày bám cứng khó khăn lắm mới di chuyển. Thỉnh thoảng những chiếc C123 hay C130 hối hả bốc lên phi đạo, tiếng động cơ dội ầm ầm như phá vỡ cả một không gian chập chờn ma quỉ. Ðó là những chuyến bay đưa những thân nhân đặc biệt rời khỏi thành phố. Hình như tin mật đã được loan truyền. Và những người hối hả lên máy bay là những người có thế lực.
Chúng tôi đã cầm cự suốt ba ngày. Một bên là quân chính qui, một bên là đại đội trinh sát, kết quả chúng tôi vẫn bảo vệ phi trường. Mấy tiểu đoàn địa phương quân nghe nói đã bỏ chạy. Trung đoàn bộ binh độc nhất ở vùng này thì đụng tơi bời với quân của Nông trường 10. Liên đoàn Biệt Ðộng quân thì đang bận giải toả một quận lỵ ở ngoại ô. Ðầu tiên, địch tung một đơn vị của một Sư đoàn mới xâm nhập, không có kinh nghiệm chiến trường, để thử lửa. Nhìn đám lính thiếu kinh nghiệm chiến trường này, chúng tôi đâm thương hại. Ðầu tiên họ vừa la xung phong vừa chạy vào phòng tuyến phi trường. Hàng trăm quả lụu đạn, mìn claymore được chúng tôi gài trên bãi đất trống, phát nổ. Và thi thể họ cứ thế bị bắn lên trời, hay ngã quị trước những mũi súng của chúng tôi trong này. Sau đó, họ đổi chiến thuật. T54 tiến vào trước và línhchạy theo sau chiến xa. Có điều họ không dám tiến lên. Họ sợ. Và từng chiếc T54 bị trúng hỏa tiển phát hoả. Có chiếc bị mắc cạn giữa bãi trống. Có chiếc quay đầu tháo chạy trong ngọn lửa. Ðịch pháo dữ. Những quả đạn bủa chụp trên đầu. Tiếng đạn rít lên, cắt xoáy cả lòng không gian, kêu như muôn ngàn con ma đói gào la đòi mạng. Người chết và người bị thương chẳng còn ai bận tâm vuốt mặt hay săn sóc. Tin tức cho biết địch cũng đã xâm nhập vào thành phố, và pháo cũng đã rót đúng vào thị xã. Người dân đã bắt đầu trốn thoát khỏi thị xã. Không hiểu họ nghe tin tức ở đâu cứ chạy về hướng phi trường. Buổi trưa, tự dưng từ hướng con đường nhựa dẫn vào cổng chúng tôi nhận ra một người đàn bà dắt hai đứa con nhỏ xuất hiện. Tim tôi muốn nghẹt thở. Sự bất lực đã làm tôi ôm mặt mà khóc. Tại sao họ lại đến với chúng tôi. Một câu hỏi và một câu trả lời của lịch sử. Nhưng chao ơi, tất cả đã muộn màng. Một tràng pháo lại nổ chụp. Và bỗng chốc tôi không còn nhận ra ba mẹ con nữa.
Trần Hoài Thư
Ngày 26/8/96