vhnt, số 247
18 November 1996
Trong số này:
thư vhnt ..........................................................Nguyện Ý
thư tín ................................................................vhnt
T h ơ :
1 - Dạo khúc 14 ........................................Nguyễn Quang Tấn
2 - Cảm đề cho một lần ra đi .......................Trần Thái Vân
3 - Ngọn nắng ............................................Trần Hoài Thư
4 - Buồn viễn khách ..............................................Y Khanh
5 - Niềm mơ đã mất .......................................Hữu Nguyên
6 - Buổi sáng, mở khung cửa ........................................M.T.
7 - Ðêm lội đèo Hải Vân .......................................ian bui
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
8 - thảo luận nhóm Ô-Thước:
"Một vài suy nghĩ về 'chàng và nàng' trong văn chương
Việt Nam" của Nguyễn Xuân Hoàng (phần 2/2) ...............o-thuoc
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
9 - Một buổi sáng thứ bảy (tản văn) ..............Lương Thư Trung
10- Lầu Hạc Vàng ................................................Lê Ðạt
- Tôi thấy trên mỗi chiếc lá thu một bài thơ.
Một người bạn thi sĩ bảo với tôi như thế. Một người bạn thi sĩ khác lại nói với tôi:
- Tôi thấy cả mùa thu là một bài thơ.
Mùa thu rực rỡ lá vàng. Bay trong gió.
Tình yêu.
Thân phận.
Tiếc nuối.
Ðắm say.
Ðau thương.
Hạnh phúc.
Cũng bay trong gió. Trong những cánh lá vàng.
Rụng xuống.
Rợp cả một vùng trời.
Rợp cả một đời người.
Chiều nay.
Gom những chiếc lá rụng rơi trên dòng tim cuồng lưu đó.
Gom hết. Nhặt hết. Vun lại.
Thành núi cao. Thành vực thẳm.
Chiều nay.
Ðốt lá trên sân. Khói lam bay cao. Tan vào hơi thu trở
lạnh.
Khói làm mắt cay.
Nhưng lửa làm tim ấm.
Tôi ấm với khói cay mắt mình.
Mùa thu đã về.
Quanh đây.
Trong tôi.
Mùa thu. Là tôi.
Bạn có biết.
Nguyện Ý
(Cho từng chiếc lá vàng. Mãi mãi. Trong tôi.)
** Lưu ý: Chat-room #VHNT ở saigonlinẹcom đã giải tán, sẽ không có những buổi họp mặt thường xuyên vào mỗi tối thứ sáu như thường lệ, thành thật cáo lỗi.
- độc giả vhnt: gửi lời xin lỗi đến độc giả lúc gần đây vhnt không ra đều đặn. Vì người phụ trách là tôi bận chút việc riêng, nên đã không đúng hẹn như định kỳ, mong bạn đọc hiểu và thông cảm. Xin cứ tiếp tục gửi bài hoặc góp ý cho vhnt như thường lệ. Nếu có sự gián đoạn trong một vài ngày, xin bạn đọc hiểu vì nhóm chủ trương bận, hoặc vì lý do kỹ thuật. Cám ơn bạn đọc rất nhiều.
- các bạn trong nhóm Ô-Thước và thân hữu: Cám ơn một lần họp mặt vui vẻ và thân tình vừa qua ở Houston. Cám ơn anh chị Nguyên và Thúy đã đứng ra tổ chức lo liệu chu đáo cho mọi người trong 2 ngày cuối tuần. Mong thân tình sẽ còn ở lại trong lòng chúng ta lâu hơn 2 ngày ngắn ngủi nhưng ý nghĩa này. Rất thân.
- anh Lê Tất Luyện và chị Thụy Khuê: Ðã nhận được thư góp ý của anh Luyện và tập "Cấu Trúc Thơ" của chị Thụy Khuê gửi tặng. Cám ơn anh chị rất nhiều về sự quan tâm và thương mến anh chị dành cho vhnt. Sẽ có thư riêng cho anh chị sau nhé, vì lúc này Lan chưa hẳn được bình yên. Quí mến.
- anh Trần Trung Ðạo: Ðã nhận được 2 tập thơ "Ðổi cả thiên thu tiếng mẹ cười" và "Thao thức" anh gửi tặng. Hai tập thơ đều hay, trình bày trang nhã, những bài thơ nhiều tình cảm gợi nhiều cảm xúc. Cám ơn anh đã chia sẻ những sáng tác của anh, rất trân quí thân tình anh gửi cho vhnt.
- anh Trần Hoài Thư: Cám ơn anh gửi tặng tập truyện "Ra Biển Gọi Thầm". Ðã nghe về THT đã lâu, nay mới có dịp được đọc những sáng tác của anh trải dài từ trước 75 cho đến sau này, thật là quí. Cám ơn anh đã cộng tác với vhnt và nhóm O-Thuoc với thân tình. Sẽ email riêng cho anh khi yên tịnh hơn. Thân quí.
- anh Lương Thư Trung: Ðã nhận được thư tay anh gửi chia sẻ tâm tình, và money order đặt thêm 5 tuyển tập VHNT. Cám ơn anh lòng quí mến anh dành cho nhóm. Sẽ có thư tay riêng cho anh, rất tiếc anh không có email để liên lạc với anh dễ dàng nhanh chóng hơn. Thân mến.
- bác Hoàng Hạc Võ Tòng Chinh, chủ nhiệm báo "Ðây Ngọc Lân" ở New Orleans, Louisiana: Ngạc nhiên và cảm động nhận được bức thư khá dài bác gửi qua tay chị T., cám ơn bác nhiều lắm về nhận xét và thông cảm, khích lệ bác dành cho tuyển tập VHNT riêng và cho nhóm trẻ sáng tác trên internet chung. Cháu cũng không hình dung ra bác của 21 năm về trước ở FWB, Florida, lúc mới xuất trại dù cháu nhỏ tuổi hơn bác, thì làm sao bác hình dung ra PCL bé xíu của năm ấy được :-) Cháu sẽ đáp lễ thư bác sau khi ổn định tinh thần nhé. Thân mến.
PCL/vhnt
Dạo Khúc 14
gửi ông Nô
Người già nua nhất trong thành phố
có hôm thành đứa trẻ thơ
nỗi cô đơn thành đàn cừu nhỏ
nào ngờ
Lùa cô đơn xuống thung lũng mộng
dắt đàn cừu lên ngọn đồi mơ
Người già nua hát bài ca ngắn
Yêu em...
tình ấy dại khờ
Nguyễn Quang Tấn
CẢM ÐỀ CHO MỘT LẦN RA ÐI
* tặng dtnt & dtnn
Như thế tám năm em làm chim rời tổ
Ðọc thơ em hoa chợt nở trên môi
Tôi bâng khuâng thương nhớ chuyện xa xôi
Con đường đất, mái trường xưa một thuở
Lũ chúng mình làm chim lạc đàn bỡ ngỡ
Bải bắc bỏ rồi thương nhớ một trời nam
Soải cánh bay trong vạn dặm xa xăm
Không quỹ đạo nên quay đầu nhìn mãi
Ðọc thơ em tôi nghe thời gian trở lại
Hoài bảo vàng, thơ ấu tím xa xôi
Như hoa lục bình cứ mãi mãi trôi
Hoài bảo lớn trở thành hoài niệm nhỏ
Mà thôi em, chúng mình chẳng có gì gian khổ
Vẫn an bình trong ân sủng mênh mông
Hãy hát đi em cho ngày đượm màu hồng
Xin tặng em những chân tình tuyệt đẹp nhất
trần thái vân
Ngọn Nắng
Khi một người bỏ đi thật xa
Sợi tóc vương nỗi buồn cay đắng
Tôi nhớ em nhìn theo ngọn nắng
Mùa thu về vàng cả đồi phong
Em đi về, vạt áo nhớ nhung
Tôi ngơ ngẫn tìm hoài ngọn nắng
Khi một người bỏ đi thật xa
Tôi thằng bé xách lồng ủ rũ
Con sáo xưa, bỏ lồng xanh đỏ
Sáo bay rồi, trời đất mênh mông
Lòng tôi đây, lụt lội mạn nguồn
Giữa đất khách, thuyền đâu cặp bến
Thôi đành giữ trong lồng, kỷ niệm
một nhành bông nguyệt quế, đã khô
Trần Hoài Thư
Buồn Viễn Khách
(Niệm khúc Thuyền nhân)
Ðêm sâu hun hút
Tựa những bóng ma
Mang buồn ký ức
Thổi đầy hồn ta
Biển dâng thịnh nộ
Sóng quất hằn da
Củi mục năm ngón
Thảng thốt rời xa
Vài tên du viễn
Trăm kẻ cô miên
Rêu phong cách biệt
Ðá hờn thiên niên
Người xưa vạn lý
Còn khóc kinh cầu ?
Sầu tỏa mưa ngâu
Rối nhầu đôi mắt
Hôm qua hoa nắng
Miệng điểm môi cười
Hôm nay trống vắng
Ðời trôi về đâu ??
Tay ôm kỷ niệm
Chân đẫm thời gian
Hồn mãi lang thang
Ðêm dài bất tận...
ykhanh
Niềm mơ đã mất
Có lúc hai ta cùng ước mong
Một gian nhà nhỏ ở bên đồng
Mưa chiều ướt lạnh giàn hoa mướp
Bếp lửa, nồi khoai đủ ấm lòng.
Dù chỉ là niềm mơ nhỏ thôi
Mà nghe rộn rã nhịp tim vui
Mắt xa vời vợi, rồi em hát
Ðời có gì hơn một giọng cười.
Dù chỉ là niềm mơ ước nhỏ
Mà như đáy nước bóng trăng rơi
Như mây trắng nổi trên đầu núi
Tay ngắn làm sao với tới nơi.
Ðành chỉ là điều mơ ước hão
Như hoa nắng nở giữa lưng trời
Nâng niu, ôm ấp tình pha mộng
Một thoáng qua nhanh, đã mất rồi.
Hữu Nguyên
BUỔI SÁNG, MỞ KHUNG CỬA
Nặng trĩu
Vói tay mở đôi cửa sổ
Ngoài hiên nắng vàng tẻ nhạt???
Chiếc hài cô Tấm ở đâu rồi?
Ðã rớt lại trong đêm pha lê rực rỡ
Thẫn thờ
Ðôi mắt nhìn xung quanh sân vắng
Tường vôi mái ngói
Rêu xanh
Xa lạ và hư ảo
Lá lác đác những chiếc rụng cuối mùa
Nó loáng thoáng
Cố điểm một ánh thu còn sót lại giữa mênh mông
Chậm chạp
Thở vào một chút hơi ban mai
Thu lặng lẽ đi qua.
Và đông gõ cửa nhẹ nhàng
Rồi ư hử??? Ðông đã đến?
Hạnh phúc vừa mới bên tầm tay thôi
Nhạt nhoà chi vội
Và làm chi lạnh lẽo mau bước tới ?
Có gì trong ta
Bàng hoàng và đau xót
Có gì trong ta
Nhoi nhói và mãi mãi không thể quên
Quả thị màu xanh
Trở vàng rồi héo
Hoàng tử xa rồi
Công chúa cũng phai theo
Tuổi thơ trở về dĩ vãng
Tình mơ lãng đãng cuối trời
Hỏi thầm thì trên môi mắt:
Sáng nay còn mở cửa sổ làm chi ....
11/13/96
M.T.
Đêm Lội Đèo Hải Vân
Dốc tuột đường trơn, đá cheo leo
Bờ đêm, mây kịt khói như keo
Quét cột đèn pha đo bóng tối
Vờn cua tay áo lách hiểm nghèo
Máy rú từng cơn, xe ì ạch
Luồn lưng hơi lạnh gió rên theo
Thắng cảnh chi mô sao chẳng thấy
Mà như thiên hạ mãi leo đeo ...
11'96
ianb
Thảo luận của nhóm Ô Thước (o-thuoc@saomai.org)
Một vài suy nghĩ về "Một vài suy nghĩ về 'chàng và nàng' trong văn chương Việt Nam" của Nguyễn Xuân Hoàng
Phùng Nguyễn soạn
oOo
Phần I và hết
13:36:27 GMT - Thứ Ba 29.10. 1996
Chinh Ðinh - Virginia, USA
Tuổi của nàng tôi nhớ chỉ mười ba...
Buổi chiều tan sở. Giam mình giữa dòng xe cộ ở những đường dài freeway, tôi chợt nhớ đến câu chuyện bàn luận buổi sáng. Câu chuyện về "chàng và nàng". Nhớ đến câu chuyện rất thú vị đó và tôi cười một mình.
Buổi chiều sương khói . "Hoàng hôn bàng hoàng màu khói nhạt..." :) Nhìn những cao ốc xa xăm sau sương mù, tôi không dưng nhớ một cuộc tình xưa, và "chuyến đi xa không hẹn ước" ("ăn cắp" chữ của Thanh Tâm Tuyền cả !!!:). Rồi khuôn mặt của... nàng hiện ra trước mắt tôi. Dòng xe vẫn mịt mù chuyển bánh từng bước chậm. Tôi không biết, giờ này, ở thành phố, nàng đang làm gị có "rời thư viện đi rong chơi ..." không? :) Nàng bây giờ đã bao nhiêu tuổi? Tôi không biết rõ. "Tuổi của nàng tôi nhớ chỉ mười ba ...". Ông Nguyên Sa sao mà "ác ôn" vậy không biết. Mười ba tuổi mà đã gọi là nàng. Nhưng không gọi là nàng thì biết gọi "nàng" là gì nhỉ ? Tôi chịu câu thơ đó lắm . Vì nàng cũng vậy . Tôi cũng nhớ rằng: nàng chỉ mới mười... ba! Tôi không thể gọi nàng là "cô ấy", nghe xa lạ lắm. Lại càng không muốn gọi là "cô ta".
Nàng chỉ mới mười ba mà! Nàng cũng không còn là... "em tôi" nữa. Nàng là nàng. Mỗi khi tôi nhớ lại, "Nàng" chắc chắn có cái vị trí riêng biệt trong trí nhớ tôi. Nàng không xa cũng không gần. Nàng "của tôi" cũng giống như Thanh Tâm Tuyền đã nói: "Em rực rỡ, em xấu xí, em viễn vông, em gần gũi, em đầy trong anh, em ở xa tuốt luốt." Nàng đôi khi gần gũi, nàng đôi khi ở xa tuốt luốt. Nên nàng mãi là nàng. Nếu tôi viết một truyện ngắn về "nàng", tôi cũng chỉ biết gọi "nàng" là "nàng." Hay, phải kêu tên nàng ra cho người ta biết mà thôi. Ðại khái như : "Mai Mai xa Mai như hoa Mai về tình thơ hôm nay" (lại thơ của ông TTT).
"Nàng" có một vị trí riêng biệt trong trí nhớ tôi. "Nàng" cũng là cách gọi riêng biệt, một vị trí riêng biệt trong văn chương chữ nghĩa. Nhiều lúc, "Nàng" không thể thay thế bởi "cô ta", "cô ấy", "bà ta", "ả", v.v... được . "Nàng" và "Chàng" nghe rất... "tiểu tư sản." "Nàng" và "Chàng" nghe cũng thơ mộng hơn nhiều với những danh từ ngôi thứ ba khác. Nếu không dùng tên của "nàng" và "chàng", thiết nghĩ ta phải "phát minh" ra một từ nào đó cho phù hợp. NXH vẫn chưa nghĩ ra là phải dùng từ gì để thay thế cho họ.
Như đã nói, "nàng" không quá xa lạ, cũng không quá gần gũi. Nàng chỉ khoảng mười ba... (hay ba mươi cũng được, nhưng nhất quyết không thể là ... sáu mươi !!!). Thấy chưa, "nàng" cũng gợi hình lắm chứ!!! "Chàng" cũng vậy. Nghe rất ... phiêu bồng ("phiêu bồng" là gì thì phải đi hỏi ông Bùi Giáng). Tại sao phải là "anh ta", "anh ấy", "ông" này ... "ông" nồ "Chàng" nghe không hay sao? "Chàng" có làm ta tưởng tượng ra một ... "chàng nghệ sĩ" không? " Chàng" phải "lãng mạn" lắm, ít nhất cái cách gọi "chàng" nghe rất lãng mạn. (lãng mạn cỡ chú Ðạt của Chu Tử vậy :).
Khi ông Du Tử Lê viết về một người nhạc sĩ :
"Tiếng hát chàng nắng gió trên cao.
Tiếng hát chàng mưa tan dưới thấp.
Tiếng hát chàng, cách gì cũng chính là dương bản của kỷ niệm , âm vọng của tương lai."
thì ... chữ "chàng" dùng ở đây, để nói về một tiếng hát, không phải là hợp lắm sao? "Chàng" có vẻ vừa nghệ sĩ vừa rất... lãng tử!!! Nếu thay "chàng" bằng "anh ta", "ông ta", v.v... nghe gì được? " Tiếng hát... anh nắng gió trên cao?" "Tiếng hát ông nắng gió trên cao??? " "Chàng" và "Nàng," vì vậy, chắc chắn cũng có một vị trí riêng trong cách dùng ngôi thứ ba. Phải tùy theo trường hợp mà dùng. Chắc chắn ở một hoàn cảnh nào đó, trong một câu văn nào đó, "Chàng" và "Nàng" sẽ được dùng rất hợp tình hợp lý. Và đầy "gợi hình" nữa.
Một ví dụ khác: "Chàng" của Trần thị Ngh. :
"...Tôi đã nghĩ thầm chàng thật thi sĩ, chàng vẫn có cách nói chuyện ví von rất duyên dáng và khả năng liên tưởng của chàng thật bén nhạy bất ng Chàng thuộc nhiều thơ tiền chiến, biết nhiều về điạ lý nước nhà cũng như nguồn gốc các di tích lịch s Chàng thực tế trong công việc, nhạy cảm trước mọi hoàn cảnh và mơ mộng trong tình yêu. Ðó là một người đàn ông có tâm hồn và biết liều lĩnh, biết ngoại tình. Sau đó, như cao hứng bởi cảnh trí thanh bình và tươi mát trước mắt, chàng luôn miệng ngâm thơ... (Nhà Có Cửa Khóa Trái, Trần Thị Ngh.).
Tôi nghĩ nếu phải thay "chàng" bởi "anh" hay bất cứ một đại từ nào khác, đoạn văn sẽ "phá" mất cái hình ảnh của người đàn ông mà Trần Thị Ngh. đã tả ...
Có phải vì "Chàng" và "Nàng" nghe hơi có vẻ "tiểu tư sản", mà "văn chương miền Bắc sau 54 phải khai tử cả "chàng" và "nàng" chăng? Cái khác biệt giữa văn chương miền bắc sau 54 và văn chương miền Nam là cái ranh giới giữa "thơ mộng" và "hiện thực". Văn chương có nhiều thể loại. Nếu bắt văn chương phải phản ánh "đời sống", chúng ta đã có loại "văn chương hiện thực phê phán xã hội". Chúng ta đã có Ngô Tất Tố, Nam Cao, Thế Giang, v.v. Nhưng văn chương đâu nhất thiết phải nói ra cái tận cùng xấu xa của xã hội, hay vẽ nên một bức tranh buồn bã của đời sống. Tôi không phủ nhận văn chương loại này, của Nam Cao ngày xưa hay Thế Giang bây gi Tôi chỉ nghĩ rằng, ngoài cái chức năng "gắn liền với hiện thực", văn chương cũng có thêm cái chức năng "thơ mộng hoá " cuộc sống, hay "thơ mộng hoá" tất cả những điều bình thường khác trên đời . Tại sao phải khai tử "chàng" và "nàng". "Chàng" và "nàng" chết đi rồi biết gọi chàng nghệ sĩ "lãng tử" là gì bây giờ?
Văn chương miền Nam đã cho ta rất nhiều văn sĩ , thi sĩ của "chủ nghĩa... thơ mộng". Cùng với Mai Thảo, Nguyễn Ðình Toàn, v.v, Nguyễn Xuân Hoàng cũng đã đến với tôi qua lối viết văn lãng mạn, đầy chất thơ của ông. Hãy đọc thử một đoạn văn tiêu biểu của NXH:
"Mưa gõ đi từ góc ngã tư đường Harbor-Westminster là những mũi kim soi đằm trí nh Ôi mưa Cali! Hãy xối xuống nữa đi những giọt nước dĩ vãng. Hãy trải xuống nữa đi những tấm thảm Ba Tư của ký ức! Hãy dầm dùm nữa đi trong ngăn kéo trí nhớ mỏi mòn tôi những kỷ niệm tưởng đã uá vàng!" (Mưa Cali nhớ Phạm Ngũ Lão, tr. 82).
Tôi yêu những câu văn như thế này lắm. Tuy nó không có vẻ như những câu văn thường dùng ngoài đời (ngoài đời, ai mà nói: "giọt nước dĩ vãng", ai mà nói "tấm thảm Ba Tư của ký ức"?) Nhưng đoạn văn trên không "hiện thực" mà... hay. Vì nó thơ mộng. Vì nó rất... phiêu bồng.
Theo tôi, bài viết về "Chàng và nàng" của NXH có lẽ không phải để nêu ra một ý khác cao, rộng hơn như anh Ðông A nói ("Ngôn ngữ trong văn chương có cần phải là ngôn ngữ trong đời sống ?"). Nếu loại bỏ "chàng" và "nàng" để cho văn chương phải có cái ngôn ngữ của đời sống thì NXH chắc phải khai tử thêm vài trăm danh từ, động từ, tính từ khác trong văn chương mà it' được dùng trong đời sống ... Ví dụ như "giọt nước dĩ vãng" của NXH dùng vậy !!!. Những từ "sa mù", "ngăn kéo ký ức", "phiêu bồng"...có bao giờ được dùng trong cuộc sống đâu?
Tôi vẫn nghĩ, NXH không có ý "bắt văn chương phải giống hiện thực". Chỉ là, NXH thấy hơi ngượng khi phải viết hai chữ "Chàng" và "Nàng" trong sáng tác của ông thôi. Có lẽ vì ông thấy hai chữ này "quê" quá, xưa quá, không avant-garde tí nào ... Ðó là quyền của NXH, là style riêng của ông. Quan trọng là người sáng tác phải điều khiển được chữ mình dùng. Tôi nhớ, Hoàng Ngọc Tuấn và Du Tử Lê là hai tay chuyên trị "chàng" và "nàng". Sáng tác của họ chưa bao giờ bị quần chúng loại bỏ cả (mà còn ngược lại nữa, rất "popular").
Bài đã dài và lan man quá rồi. Thật ra, tôi viết bài này không phải để phê phán bài của NXH gì cả. Chỉ là một ít liên tưởng khi thấy ông nói về "Chàng" và "Nàng" thôi. Biết đâu, có một lúc nào đó "Chàng" và "Nàng" sẽ không bao giờ xuất hiện nữa trong văn chương Việt Nam. Lúc đó chắc chắn sẽ có nhiều độc giả của Nguyễn Xuân Hoàng buồn lắm... Buồn như câu thơ của Nhã Ca:
"Nàng đã đứng dậy
nàng đã đi
Ði dần về cái chết"
oOo
13:44:01 GMT - Thứ Ba 29.10. 1996
Nguyễn Phước Nguyên - Texas, USA
Nói về Chàng và Nàng
1. Vì đâu mà Nguyễn Xuân Hoàng có những lấn cấn nửa vời như thế.
2. Vấn đề dùng hai từ "chàng" hay "nàng", hay bất cứ một từ nào khác, lỗi thời hay không, trong cuộc sống hay trong thơ văn, đều nằm trong vấn đề trình độ kỹ thuật của tác giả. Khi cầm bút lên tác giả có quyền chọn lựa điều mình muốn nói, cách mình muốn nói và nhân vật mình dùng để diễn đạt điều đó. Hơn nữa, tác giả phải biết rõ đối tượng độc giả của mình là ai. Chắc chắn khi Pablo Picasso vẽ tranh cubism, ông ta không nhắm vào tất cả MỌI NGƯỜI thích tranh. Ông biết tranh của ông chỉ "đạt" đối với một số người nào đó trong giới thưởng ngoạn. Những bức poster bán chạy nhất của ông vẫn là bản sao của những bức tranh dễ hiểu. Tuy nhiên, tài năng của ông không ai phủ nhận. Nếu theo dõi tiến trình sáng tạo của ông từ thời Blue Period, tài năng của ông càng hiện rõ hơn trong những bức tranh cubism.
3. Khi đọc xong một áng văn hay một bài thơ, người đọc có cho riêng mình một kết luận - về tác giả, và tác phẩm. Nếu là tác phẩm hay, không phải tại vì tác giả không dùng "chàng" và "nàng" mà nó trở nên hay. Nếu là tác phẩm dở, lý do chính tại sao nó dở chắc không phải là vì tác giả dùng "chàng" và "nàng".
4. Sáng tạo đòi hỏi ở tác giả một sự khai phá trong tự tin. Khai phá không đồng nghĩa với đạp đổ TẤT CẢ. Ðôi khi, khai phá là đi ngược với những gì mà số đông công nhận, đi ngược với với thị hiếu, với giới tiêu thụ. Hạnh phúc của người sáng tạo, ngay trong lúc mình sáng tạo, là một thứ hạnh phúc cô đơn. Tuyệt đối. Bởi nó tuyệt đối trong tác giả, với tác giả, và từ tác giả.
5. Việc khai tử một ngôn từ trong kỹ thuật sáng tác đâu quan trọng bằng việc tác giả có can đảm khai tử chính tác phẩm mình (hoặc khai tử ngòi bút mình) khi nó không còn là mình nữa. Nhất là khi "nhân gian", khi "dư luận", khi "quần chúng" cứ khư khư mặc áo gấm cho những tác phẩm không-là-mình đó.
6. Cũng thế, càng về sau này, không thấy trong thơ văn câu "Anh yêu em" hay "Em yêu anh". Câu này trong đời sống chẳng rõ có còn được những tình nhân nói cho nhau nghe không nữa? Nhất là bên này, người ta (những người nói và hiểu tiếng Việt) nói "I love you" hay "Je t'aime" thấy ít ngượng hơn là "Anh yêu em" hay "Em yêu anh". Vậy mà trong thơ-văn-nhạc hai cụm từ này vẫn sống phây phây.
Trong nhạc Trịnh Công Sơn:
Tôi đã yêu em trong mùa gió,
Khi lá cây khô bay đầy ngõ,
Yêu em không cần vội vằ.
Ngược lại, trong nhạc Từ Công Phụng, hiếm thấy câu "anh yêu em". Nhưng đâu có nghĩa là bài nhạc không man mác:
Hãy ôm trọn, ôm trọn tuổi xuân
Có một lần vui thôi em,
Ðừng cho chết hương tình ngọt ngào
Ðỉnh bình yên, trên cao,
Xin em giữ kín cho lâu dài
Một mùa xuân đã khép trong tôi...
Mỗi người một lối nói. Dùng hay không dùng "chàng và nàng". Dùng hay không dùng "tôi yêu em".
8. Thực chất của một tác phẩm không chỉ nằm trong kỹ thuật hay tâm linh. Mà cả hai. Có nghĩa là tác giả có đủ thao thức trong tâm linh để "nuôi" những gì mình muốn nói chưa? Khi thao thức đã chín mùi, tác giả có đủ kỹ thuật để nói cho nát ý những niềm thao thức đõ Và tự tin của ngòi bút trong khi sáng tạo là tác giả phó thác hướng đi của tác phẩm mình vào lôi cuốn của tâm linh. Và dùng kỹ thuật để phô bày màu sắc của cuộc hành trình đó theo ý mình.
Vấn đề còn lại là khi tác phẩm ra đời, có như ý mình hay không? Hay như ý người? Và điều này có cần thiết cho mình, và con tim mình, hay không?
oOo
14:32:29 GMT - Thứ Ba 29.10. 1996
Phùng Nguyễn - California, USA
Trước hết tôi nghĩ Ðông A có lý khi bảo "chàng & nàng" đến với văn chương từ dân gian, mặc dù tôi không chắc lắm. Ðiều trở ngại cho việc khảo cứu có lẽ là vì chúng ta chỉ có thể tìm thấy dấu vết của hai đại từ này trong văn học, kể cả văn học dân gian. Với cái trí nhớ kém cỏi của mình, tôi cũng có thể nghĩ ra ngay...
chàng từ đi vào nơi gió cát
đêm trăng này nghỉ mát phương nao?
(Chinh Phụ Ngâm)
hoặc
... chàng đi cho thiếp theo cùng
đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam (ca dao)
Cũng có thể vì "chàng nàng" đã xuất hiện đã lâu trong văn chương nên Tản Ðà chê Khái Hưng... quê. Nhưng tôi lấy làm lạ là sau đó, trong những tác phẩm của Mai Thảo và rất nhiều người khác, "chàng nàng" lại trở nên vô cùng thời thượng trong một giai đoạn phát triển phong phú của văn học miền Nam. Ý kiến của Tuyết Phương, "ta với mình tuy một mà hai" và bài viết lãng mạn, "tiểu tư sản" của Chinh có lẽ đã nói nhiều hơn cả những điều tôi muốn bày giải.
"Phàm là" người có lòng với chữ nghĩa, có lẽ không thể nào tránh khỏi những điều "bất ưng" khi bắt gặp những cụm từ nằm không đúng chỗ, như "chàng" và "nàng" trong tác phẩm "Chị Út Tịch" chẳng hạn! "Song le," nếu vì dị ứng với một vài từ vì bất cứ lý do nào đó mà "bèn" vội vàng vứt sách đi thì chẳng khác nào câu ca dao Ví dầu tình "bậu" muốn thôi, "bậu" gieo tiếng dữ cho rồi "bậu" ra ... :))
oOo
16:32:29 GMT - Thứ Ba 29.10. 1996
Nguyễn Vy-Khanh - Quebec, Canada
Ðồng ý là CHÀNG & NÀNG cũng như bao từ khác thay đổi theo con người và tiến hoá của cuộc sống, nhưng tôi nghĩ ngày nào còn con người, ngày nào đàn ông đàn bà còn có thể có những liên hệ, tình cảm, ngày đó sẽ còn CHÀNG & NÀNG. Chỉ là hai đại từ thôi nhưng CHÀNG & NÀNG chứa đựng cả bao nhiêu là tình tự, giao cảm, liên hệ! Cuộc sống lại có ảnh hưởng qua lại với văn chương dù là bác học hay bình dân. Chính văn chương, từ Trọng Thủy Mị Châu, Trương Chi Mị Nương, cô gặt lúa anh cuốc đất đến Romeo & Juliet, Dũng & Loan trong Ðoạn Tuyệt, Lan & Ðiệp trong Tắt Lửa Lòng, người con gái áo vàng & Nguyên Sa, Ngọ & Phạm Thiên Thư, v.v... đã đem lại và nuôi dưỡng cái ý niệm C & N, đã làm cho cuộc sống bớt nhàm chán nhưng có khi lại làm phức tạp cuộc đời. Ngày nào C&N trong văn chương còn làm rung động người, ngày đó C&N vẫn là thành tố của cuộc đời.
Tuy nhiên văn chương cũng như ngoài đời, C&N phải được sử dụng đúng chỗ và hợp nhân vật. Tưởng tượng nếu Nam Cao để cho Chí Phèo và Thị Nở cứ "chàng" & "nàng" nhặng cả lên, thì còn gì là tuyệt tác như ta biết ngày nay, hay Ðiệp & Lan cứ gọi nhau "tao mày", thì cần gì phải Tắt Lửa Lòng! C&N có thể được sử dụng uyển chuyển tùy câu chuyện, hoàn cảnh và nhân vật. Ðâu phải hể nhân vật nam là Chàng thì người Nữ phải là Nàng, mà có thể là cô ta, ẻn, ả, mụ, v.v... Chàng có thể là Hắn, Y, ỷ, Ảnh, nó, thằng ấy, v.v... Ðó là đại từ ngôi thứ 3, ngôi hai (người đối thoại) có thể là Em, Anh, Tau, Mi (Tau Mi của người Huế nhẹ và có khi ngây ngô hơn Tao mày nói chung), v.v... C&N có khi còn được dùng để châm biếm, hài hước. Tất cả nằm trong văn phong của tác giầ Chính sự uyển chuyển làm phong phú cho văn học. Theo tôi gốc gác của C & N có đã lâu lắm. Trong Chinh Phụ Ngâm đã có dùng. Nhưng sự sử dụng phổ thông là nhờ văn học lãng mạn miền Bắc 1932-45 và cải lương trong Nam.
Mở ngoặc : thời phôi thai của văn học chữ quốc ngữ trong Nam các tác giả thời ấy dùng "bạn" để nói về người yêu và cả vợ. Hồ Biểu Chánh thì đầy "Tau mày" nhưng lúc đó Tau Mày nó nhẹ nhàng và tình tứ hơn hôm nay.
Trở lại với NXH, ông đưa ra nhận xét bỏ vì thấy C&N đã trở thành sáo ngữ, Tình yêu lạm phát, chữ nghĩa lạm phát. Tôi nghĩ NXH muốn cảnh giác giới làm văn chương về nạn lạm phát này. Nhận xét của NXH đúng nhưng giải pháp thì không rõ. NXH lại nhắc đến Vương Trí Nhàn và Khái Hưng, có 2 điều không chỉnh: 1, ông Vương Trí Nhàn sống khá lâu trong một nền văn học chỉ có liên hệ "đồng chí" và "anh-tôi", thành ra khi đưa Khái Hưng ra, VTN hơi... ngụy luận! C&N không còn trong đời sống tự nhiên ở VN và trong văn học chỉ vì từ lâu bị cấm đoán (C&N là vết tích của tiểu tư sản, kẻ thù của chế độ). Không dùng thì mất theo luật của thời gian. Nay Nam Bắc thống nhất, ảnh hưởng Nam chưa đủ mạnh để có thể popularize và một cách chính thức, do đó C&N vẫn sống sót trong văn thơ và ngoài đời dùkhông mạnh. Khái Hưng là nhà văn lãng mạn, ông cổ võ dùng C&N là tự nhiên. C&N đã đi vào đời sống và văn chương, đâu cần gì phải đi tìm, nếu có thể để con người sống tự nhiên, không nghị định, chính sách! Theo tôi cái đi tìm là tạo ra cái mới cho đời mới, thực tế mới!
oOo
16:39:23 GMT - Thứ Ba 29.10. 1996
Nguyễn Kỳ Phong - Washington DC, USA
"Chàng" và "Nàng" vẫn được văn thi sĩ miền Bắc sử dụng cho đến thời kỳ kháng chiến. Ðọc Tô Hoài, Khái Hưng, Nguyễn Thị Vinh, Nguyễn Bính, Huy Thông, Bích Khê... vẫn thấy họ sử dụng. Như là đại danh từ ngôi thứ ba, chúng ta dùng chữ đó cho đỡ chán (monotonous).
Theo VN Tự Ðiển (1935) "Nàng" là tiếng chỉ các cô gái con quan trên Miền Thượng Du. Trong thời chiến tranh, tiếng nàng và chàng quá âu yếm, quá tình cảm theo kiểu tư sản... và bị các tay cộng sản như Lê Ðức Thọ, Tố Hữu, Trần Quốc Hoàn cấm dùng. Trong thời gian gần đây, hình như Phạm Thị Hoài có dùng vài lần, và một số văn sĩ trẻ miền Bắc bắt đầu xài lại. Người viết (NKP) dùng lẫn lộn những chữ như "người con gái," "cô ta," "X.," "nàng," "em" "cô ả" tùy theo đoạn văn.
oOo
17:15:28 GMT - Thứ Ba 29.10. 1996
Phạm Chi Lan - Texas, USA
Bài viết của Nguyễn Xuân Hoàng về đề nghị loại bỏ 2 từ "chàng" và "nàng" trong văn chương với những luận điểm anh đưa ra không dựa trên một cơ sở vững vàng nào cả. NXH bảo 2 từ này lỗi thời, và không còn hợp cho văn học hiện đại vì nhàm và cũ. Theo nhận xét cá nhân, ngày nay, người ta đang có xu hướng đi tìm những cái mới lạ trong những ngành về nghệ thuật. Ai cũng loay hoay muốn khai phá một điều gì mới vượt ra khỏi cái nhàm chán của đời sống trong họ, quanh họ... những điều mà tự họ không còn cảm thấy hứng thú hay tạo cảm xúc giống như trước nữa (giống như cái passion của tình yêu lúc đầu đã nguội lạnh). Có lẽ đó là sự bế tắc cảm nhận và bế tắc sáng tác của cá nhân người viết và người đọc thì đúng hơn.
Nhiều nhà thơ sau một thời gian làm thơ kiểu cổ điển, có vần có điệu, thấy sáo và rập khuôn nhiều người, nên quay sang làm thơ tự do, làm thơ kiểu mới, làm thơ kiểu siêu hiện đại để những người đọc thơ không còn có thể hiểu hay "cảm" được thơ nữa. Họ gọi đó là một điều mới lạ mới khám phá... (tạp chí Thơ đang làm một sự cố gắng về thơ mới lạ). Người viết văn cũng vậy, viết mãi về những đề tài cũ với văn phong cũ thấy chán nên muốn tự tìm cho mình một cách bộc lộ mới mẻ hơn... Thật ra, cũ mới đều do lòng người, có nhiều điều tưởng đã cũ, nhưng nay đọc lại chợt thấy mới mẻ như một khám phá mới. Nhà thơ Wislawa Szymborska trong bài trả lời phỏng vấn cũng có cảm nghĩ tương tự, những điều bà nghĩ quen thuộc và tầm thường, đơn điệu, bỗng một lúc nào đó chợt trở thành mới lạ, những vật nhỏ nhặt như một chiếc lá hay một nụ hoa cũng làm bà sửng sốt vì nó... mới lạ và khác thường quá! Những sự việc hay cảnh vật không lạ, chỉ có cảm xúc của người mới lạ về những cái cũ kỹ mà thôi. Cái mới không ở cấu trúc hình thức hay bề nổi, cái mới là sự cảm nhận mới đến từ nội dung, đến từ trong lòng.
Theo thiển nghĩ, tất cả những nỗ lực làm mới đều đáng được khuyến khích và chú ý tới, nhưng cái mới không hẳn ở hình thức, cái mới không phải chỉ là những thay đổi đột ngột khác cũ, làm cho không giống ai, mà cái mới phải nghĩ như là một phương tiện mới để chuyên chở cảm nghĩ cũ, một cách bộc lộ khác lạ về những điều xưa cũ, tìm cảm nghiệm ở một góc độ khác, một tầm nhìn khác, một gợi hình và khơi động cảm nhận của người đọc về những đề tài nhiều người nói tới rồi. Người đọc cảm được cái điều cũ nhưng với một quan niệm khác, khai mở một quan niệm cũ với cái nhìn mới và vẫn tạo được sự cảm thông giữa người viết và người đọc, đó là sự thành công của công cuộc làm mới.
Vài suy nghĩ khi đọc bài của NXH và đóng góp ý kiến của các quạ:
1. Tại sao lại loại bỏ những từ ngữ trong văn chương? Nếu không khai phá, tìm thêm những từ ngữ mới cho thêm giầu kho ngôn ngữ, thêm phong phú tiếng Việt, thì không nên loại bỏ hay thay thế một từ nào mà khi con người trao đổi với nhau còn có thể dùng nó để hiểu nhau. Văn hóa là bồi đắp và làm giầu thêm, văn hóa không nên tiêu diệt làm chết đi những điều đã có ý nghĩa.
2. "Chàng" và "nàng" luôn luôn được hiểu như những nhân vật trong văn chương, thi phú ... như những hero/heroin, không là nhân vật chính thì cũng là nhân vật quan trọng trong truyện. Ðiều anh NXH gợi ý ở đây, theo tôi hiểu, có thể là tính cách chủ quan và gợi cảm tình của độc giả khi người viết khi dùng những từ "chàng" và "nàng" cho nhân vật chính truyện của mình. Từ "chàng" và "nàng" ở đây tuy được dùng như ngôi thứ ba, nhưng thật ra lại được cảm nhận như ngôi thứ nhất (tức người viết), như một lối xưng "tôi" ngầm với người đọc, như những cảm nghĩ mang tính cách... tâm sự nỉ non, không trung dung và khách quan như một bài viết với nhân vật chính bị gọi là "hắn", "nó", "gã", "y", "thị", "con mẻ", "thằng chả"... Theo truyền thống và cảm nhận của người đọc tiếng Việt, từ "chàng" và "nàng" phải là những con người có chút phẩm chất tốt, là... chính phái chứ không thể là gian tà, nên khi người viết dùng những từ này, vô hình chung đã tạo cho người đọc một sự cảm thông với suy nghĩ và hành động của nhân vật. Lúc trước, khi học một lớp văn chương hiện đại, bà thầy cho một đề tài để học trò viết, bà bảo nên dùng "third person" thay vì dùng "first person" với chủ từ "I" (tôi), và những sự việc của câu chuyện, nên dùng những ý tưởng, hình ảnh gợi ý để người đọc tự tìm ra ý nghĩa thay vì tác giả nói rõ và sát ý qua lời tâm sự của nhân vật. Show, but don't tell!
3. Trong đời sống nặng nề, phải có những mơ ước tinh thần và sự khao khát điều thơ mộng lãng mạn để làm thăng hoa đời sống. Ðó là một phần ý nghĩa của văn chương. Có thể có người có ít hoặc nhiều nhu cầu khao khát và sự khoả lấp tâm hồn này, nhưng ai cũng có chất lãng mạn trong người, sự thơ mộng lãng mạn chỉ hợp và đúng cương vị chức năng của nó trong thơ văn, sách vở, là những điều được trân quí và có chỗ đứng riêng rẽ trong văn hóa; trong đời sống, dùng "chàng" và "nàng" không hợp, và tội nghiệp cho những từ này khi được dùng không đúng lúc, đúng chỗ! Miền Bắc không nên khai tử những tính chất thơ mộng lãng mạn trong văn chương, đó là một sự áp đặt tinh thần không cho phép con người tự do tìm một chút nhẹ nhàng và rung cảm thật sự của tình cảm, của trái tim. Ngày nay, sau một thời gian dài bị cấm đoán thưởng thức nhạc tình lãng mạn (nhạc vàng, nhạc 75), giới trẻ miền Bắc đâm ra vô cùng say mê và thích thú ngạc nhiên với loại nhạc của miền Nam trước 75 mà lúc trước vẫn bị xem là văn hoá nhảm nhí, đồi trụy, tiểu tư sản, không thực tế (nhạc Trịnh Công Sơn chẳng hạn, TCS là thần tượng của giới trẻ, từ Bắc vào Nam. Hiện tượng TCS đã nói rõ sự thiếu vắng tính chất thơ mộng cần thiết ở đời sống).
oOo
18:25:58 GMT - Thứ Ba 29.10. 1996
Tuyết Phương - California, USA
Thật ra tôi không biết viết gì hơn nữa, vì những gì tôi nghĩ đến quanh "chàng" "nàng" và bài viết của NXH, các quạ khác đã viết rõ, viết hay hơn rồi. Anh P muốn tôi giải nghĩa thêm câu tôi viết rằng văn chương và đời sống vốn dĩ "tuy hai mà một, tuy một mà hai". Giải nghĩa sao bây giờ, chỉ dài dòng văn tự vô ích. Ai cũng biết rằng văn chương bắt buộc phải dựa vào đời sống, từ câu chuyện thần thoại hoang tưởng Hy Lạp đến chủ nghĩa tả chân rồi lại đến chuyện hoang tưởng mới của Nam Mỹ (mà chắc hẳn Marquez là người khởi đầu). Nói bắt buộc vì trí tưởng tượng của nhà văn có thể bay ra ngoài vũ trụ nhưng vẫn phải cắm sào trên mặt đất, vì rằng nhà văn và tác phẩm của họ là sản phẩm của kinh nghiệm cuộc sống và môi trường chung quanh hỗ Thêm bắt buộc là vì người đọc cần và muốn thấy tác phẩm chiêm nghiệm và phản chiếu cuộc sống nói chung và chính họ nói riêng. Văn chương là sự chấp nhận rằng con người rất chung và rất riêng, và một tình huống xảy ra cho mười người sẽ có mười phản ứng khác nhau. Văn chương là môi trường qua đó cuộc sống chiêm nghiệm chính mình và thông hiểu chính mình. Như thế, không cần phải có điều lệ hay chủ nghĩa nào, văn chương đã có cái "câu thúc" riêng của nó.
Xoay qua hướng nhìn khác, văn chương không thể là âm bản của cuộc sống. Như PCL nhắc đến, một trong những lý do là con người đôi khi cần thoát ra cuộc sống tẻ nhạt đều đặn hàng ngày, muốn thăng hoa (theo lời PCL) hay vẽ vời (theo ý tôi) cho cuộc sống, một lối trị bệnh tâm lý kiểu "cứ cười đi bạn sẽ thấy vui". Một lý do nữa, theo tôi, là con người, chính là cuộc sống, cần giải thích chính mình theo cảm nhận và diễn tả của chính mình. Cảm nhận trong cuộc sống không nhất thiết phải nói bằng lời, hoặc không cần thiết nói tất cả bằng lời. Văn chương thiệt thòi hơn cuộc sống, vì không có mắt miệng tay chân. Văn chương, như một môi trường trao đổi truyền thông, không có cách nào lựa chọn hơn là phải đem những cảm xúc tinh tế nhất khép vào ngôn ng Ðó chính là trò chơi chữ nghĩa, là nỗ lực không ngừng của cuộc sống tự diễn tả mình trong ngôn ngữ mà thường khi hữu hạn trong khi tâm linh là vô hạn. Trò chơi khúc mắc nhất là chỗ làm sao dùng tín hiệu ngôn ngữ để diễn đúng tín hiệu tình cảm. Thường thường văn chương hay bị hiểu lầm lắm (có nghĩa ý tác giả và sự diễn dịch của người đọc không đồng nhất), cho dù hiểu sai để mà yêu. Cuộc sống, ít ra, có nhiều cơ hội hiểu nhau hơn.
Tổng kết:
- Nên tội nghiệp cho văn chương vì văn chương cần có thưởng thức.
- Người "mần" văn chương không nên có thái độ ngạo mạn (đòi bỏ cái này thêm cái kia) vì lẽ đơn giản họ không có quyền quyết định. Có muốn đổi mới tân trang nên nhỏ nhẹ đưa ý kiến hay từ từ quẹo cua (thử mang vào/loại bỏ trong tác phẩm của mình coi thiên hạ cộ. chịu nổi hay không). Cuộc sống sẽ cuốn phăng đi như giòng lũ, gạn lọc trả về phù sa. Thời gian sẽ là cuộc thử thách tối hậu.
MỘT BUỔI SÁNG THỨ BẢY
Trời bên ngoài còn tờ m Chuông điện thoại reo. Tôi nhìn đồng hồ. Mới sáu giờ rưỡi sáng. Một anh bạn trẻ rủ tôi lại nhà anh Năm uống cà phê. Không hẹn trước, nhưng không có gì trở ngại. Nói là bạn trẻ, nhưng thật ra anh chỉ trẻ so với tôi và anh Năm, vì anh, năm nay cũng đã trên bốn mươi tuổi rồi. Anh là bạn học của thi sĩ Nguyễn-Tất-Nhiên từ hồi còn là học sinh của trường Ngô-Quyền, Biên hòa.
Ðược rủ đi uống cà phê sáng sớm làm tôi nhớ những ngày về quê làm ruộng. Chuông chùa vừa mới công phu hiệp nhứt. Gà trên cây xoài, cây mận còn đang gáy vang. Mấy người bạn nông dân mến tấm lòng của vợ chồng tôi, nên không ngại kêu cửa nấu nước pha trà, cà phê. Vì xa chợ quận, nhà tôi thường mua sẵn trà, cà phê để sáng sớm uống chút trà nóng rồi ra đồng thăm lúa còn lã ngọn vì những giọt sương đêm đọng lại. Bên tách trà nóng, các bạn nông dân kể cho nhau nghe đủ thứ chuyện. Từ chuyện mùa màng cho đến chuyện bắt cá, bắt lươn. Nghe mà thích thú vô cùng. Có thể nói, tôi đã học được những kinh nghiệm đồng ruộng nhờ những người bạn nông dân chơn chất nàỵ
Anh bạn trẻ, dù thua thiệt nhiều trong cuộc sống đời thường, nhưng anh không trách móc cuộc đời. Anh rất vui tính, và thông tường mọi việc. Nhất là về kiến thức tổng quát trên các lãnh vực văn chương, học thuật phương Ðông.
Anh Năm thì tuổi cũng ngoài sáu mươi. Nhưng tâm hồn rất trẻ, yêu đời, yêu cuộc sống. Kiến thức lại uyên thâm. Nhưng điểm đặc biệt mà tôi muốn nói ở đây là anh Năm tâm rất hiền, cương trực. Anh có phương pháp đọc sách báo rất đặc biệt và có những nhận xét rất xác đáng, trung thực.
Mặc dù lớn tuổi nhất, nhưng trong cung cách, lúc nào anh Năm cũng để tay lên trái tim như thủ lễ, khiêm cung khi nói chuyện. Thuở thiếu thời, anh Năm là đứa trẻ nhà quê nghèo đi cắm câu, bắt cua, băt ốc, bắt chuột. Bản chất đồng ruộng đó càng làm anh Năm vốn hiền càng hiền hơn. Riêng chị và các cháu còn kẹt quê nhà, nên anh Năm chỉ sống một mình, đơn độc.
Còn tôi, tuổi đời cũng ngoài năm mươi. Cuộc đời tôi chẳng có gì phải dong dài. Tôi đã có dịp minh định vị trí của mình rồi. Mãi hoài là một người nông dân tay lắm, chân bùn, khét sình, khét nắng. Tôi vui với cuộc đời nhà quê đô Tôi hạnh phúc với cái khét nắng, khét bùn đô Tôi sung sướng với sự an định đó của cuộc đời.
Anh Năm tiếp hai chúng tôi từ ngoài cổng. Căn phòng khách của anh năm vừa, gọn, trang nhã với một vài bức tranh quê trên vách. Một chậu hoa lài. Một chậu dạ lý hương. Hai chậu tắc đang có trái bằng ngón tay cái. Một hàng dài khoảng mười chiếc keo bằng thủy tinh, loại keo làm dưa kiệu, với nước trong leo lẻọ Mỗi chiếc keo, anh Năm mua cá thia thia ở phố Tàu về nuôi trong ấy. Con nào cũng đen mun, nhỡn nhơ bơi lội với những vi kỳ lã lướt như những cánh diều nghiêng nghiêng uốn mình theo giô
Ngồi nhìn những con cá thia thia vô tư lự, tôi miên man nghĩ ngợi một điều gì mông lung. Mỗi con cá thia thia trong mỗi chiếc keo như mỗi con người với mỗi mảnh đời, mỗi hoàn cảnh khác nhau. Nhưng cùng chung sự tù túng trong từng chiếc keo nhỏ, bị cô lập, không làm sao vượt thoát ra được cái cõi không gian bé nhỏ, với một dung tích nước trong leo lẻo, hạn hẹp này. Tôi liên tưởng tới ba anh em, ở ba thế hệ, ba mảnh đời, ba hoàn cảnh khác nhau nhưng có cùng một nỗi lòng xa cố hương như những con cá thia thia xa rừng tràm, xa đồng cỏ rong rêu, xa con nước đục, nước bùn. Nhiều lúc, chúng tôi cũng không vượt thoát được chính nỗi cô đơn, dằn vật trong lòng về một nỗi nhớ mông lung, hiu hắt về một phương trời nào xa xăm lắm ở cố hương, ngay vào giờ này, tại nơi đây, trong căn phòng bé nhỏ ở một nơi chốn lạ cảnh, lạ quê này.
Những con cá thia thia dù vô tư lự, nhưng nhiều lúc còn biết đau cho thân phận của mình. Cá trở mình, vảy cá màu sọc dưa, sình bụng, ê răng, không chịu ăn. Huống hồ gì con người, mỗi lần chợtnghĩ về thân phận lưu lạc của đời mình, làm sao mà không cảm thấy xót xa, ngậm ngùi...
Trước ba ly cà phê còn nóng mà anh năm vừa pha xong, ba ổ bánh mì anh bạn trẻ mang lại, cùng một bình trà nóng ướp hoa lài. Chúng tôi nói chuyện với nhau nhiều về những vấn đề gần gủi và xa vờị Về thế hệ trẻ chủ trương tạp chí Văn Học Nghệ Thuật trên Internet. Về những tâm tình "Nói với tuổi hai mươi"của Nhất-Hạnh. Về những vần thơ của nhà văn Trần-Hoài-Thư, mà mỗi chúng tôi, ai cũng rung cảm với bàn chân người con gái bỏ guốc len lén bước nhẹ trên giòng sông trăng, để rồi dấu chân trần bất động im lìm, phủ lấp ánh trăng:
Xa thì xa. Người cũng thật xa
Chị có về bàn chân bỏ guốc
Dòng sông đêm trăng. Thở dài não nuột
Dấu chân rồi cũng xóa. Nằm im. "
(Khi chị về)
Hoặc hình ảnh người thiếu nữ tắm trăng với chiếc gáo dừa của miền quê thơ mộng, trong lành biết dường nào:
Mười sáu trăng tròn hồn chị bâng khuâng
Ðêm ra tắm ngoài bến sông im vắng
Chiếc gáo dừa. Múc trăng. Trăng động.
Dòng suối trăng lai láng cả bình nguyên."
(Khi chị về)
Chúng tôi cũng nói với nhau về một chút đạo làm người,về "kiến quần long vô thủ". Và nói nhiều về những miền quê, về ruộng đồng,về cua, về ốc, về cá, về cách chất chà băt chuột. Về những cái chung cũng như những nét đặc thù của mỗi loại mùa màng mà chúng tôi đã sống, đã trực tiếp trồng trọt, đã đi qua sau mấy mươi năm trong cuộc sống phiêu bồng, lang bạt giờ còn xót lại... trong những con người ốm yếu, gìa nua, chậm chạp, mệt mỏi nhưng có những con tim không rời xa quê hương.
Ba thế hệ, ba mảnh đời, ba hoàn cảnh nhưng cùng một tấm lòng yêu mến cái cội nguồn nhà quê, nhà nghèo của mình. Yêu mến cái tiếng Việt đến độ không rời xa được. Yêu mến những con cá ở quê nhà vào mùa nước lụt tháng bảy, tháng tám. Yêu mến những con chuột đồng mập béo, bụng trắng phau vào mùa mưa tháng tư. Yêu mến tiêng dế mun, dế lửa réo gọi mùa hế Yêu mến tiếng ếch, tiếng nhái, tiếng ểnh ương vào những ngày mưa dầm ngập hang, ngập cồ Yêu mến những chùm hoa cau, hoa bưởi, hoa lài vào những ngày tháng năm. Yêu mến mùi thơm ngào ngạt của giàn dạ lý hương, bên cạnh vườn trầu vàng, vào mỗi chiều trước khi đêm xuống. Yêu mến những cánh hoa mai vàng rực đất trời vào những ngày cuối tháng chạp, tháng giêng cùng với cái không khí Tết Nguyên Ðán với bao điều hy vọng , chúc lành. Văng vẳng trên đọt tre, ngọn gáo, ngọn bần, tiếng chim cu gù, tiếng chim cu gáy. Yêu mến cái hạnh phúc của đôi chim, của tạo vật để mơ ước có được cái hạnh phúc đơn giản, bình dị của kiếp người. Yêu mến những cánh dơi chập choạng đáp lên những trái vú sữa, những trái xoài chín cây đầy mật ngọt khi đêm chìm lấp. Yêu mến những bông lúa chín vàng trĩu hạt, quằn bông với hương lúa mới thơm thơm nhè nhẹ vào những vụ mùa đông xuân khô ráo hay hè thu mưa dập, mưa dồn.
Chúng tôi đã già, đã vất vả nhiêu khê biết bao độ đi và về, biết bao lần vinh và nhục, biết bao bận đói và no, biết bao phen khổ đau và buồn nản.
May mắn hôm nay, chúng tôi còn có với nhau những gặp gỡ để chia xẻ, để cảm thông, để còn nói được với nhau những niềm vui, những hạnh phúc về một thế hệ trẻ rời quê hương tròm trèm trên dưới hai mươi năm vẫn còn nhớ lại, nghĩ về một nơi chốn thân yêu mà đã có không biết bao người vì mạch sống mới dồn dập đã vô tình quên đi.
Bên ngoài, một vài ngọn gió cuối thu mang cái lạnh như trời đất sắp chuyển sang mùa. Rừng cây xa lạ trên ngọn đồi Ashmont đã trụi lá, trơ cành như thách thức với một mùa đông khắc nghiệt sắp về với vùng Ðông Bắc Mỹ này. Chúng tôi ba người bạn mới quen, ba con người lưu lạc nghe ấm lại lòng mình với không khí thân quen, chân tình. Có những niềm vui nhè nhẹ , êm êm, nhưng ở lại dài lâu trong tận cùng con tim với ba tấm lòng hiền hòa, cảm thông, chia xẻ, thương mến vào một buổi sáng thứ bảy cuối thu nơi đất khách này...
Lương Thư Trung
Boston, Cuối Thu 1996
Lầu Hạc Vàng
Không tận xanh thơ thở trắng trời
Nắng xiên khoai mặt người cố tình đánh chìm đời mình trong sóng rượu... làm Thôi Hiệu bừng tỉnh.
Cơn buổi xế chiều thật não ruột. Chưa bao giờ Thôi Hiệu cảm thấy chiến bại như lúc nàỵ Cuộc đời như con thuyền rời bến Dương Châu hoa khôi hoà khói bỏ rơi kẻ nhỡ đò trên đất lạ.
Văn hay chữ tốt mà làm gì...
Cái bằng tiến sĩ chỉ đem lại cho Thôi Hiệu một chức quan nhỏ với bao nhiêu hệ lụy.
Tài hoa làm gì... Nếu tài hoa chỉ để làm những câu thơ đẹp đủ quyến rũ đám nữ nhân chuộng hư danh hay đám nhà thơ dễ tính. Nói chi so sánh với Lý Bạch, Ðỗ Phủ, với Lưu Trường Khanh, Vương Xương Linh, Thôi Hiệu cũng còn xa mới với tới.
Thôi vẫn nhớ đêm cầm ca mùa trăng ấy, đệ nhất giai nhân Tây Hồ chỉ hát toàn thơ Vương Chí Hoán. Danh sĩ đất Biện Châu bỗng có cái xót xa của một trượng phu thấy người yêu ngoại tình ngay trước mắt mình và chén bồ đào mỹ tửu đêm ấy đột nhiên đắng ngắt như có ai vô tình bỏ vào đó một trái bồ hòn. Người ta đã quên Thôi ngay lúc sinh thời.
Cái giống nhà thơ kể cũng lạ nếu không nói là hâm, chập mạch. Bao nhiêu đền đài, miếu mạo, lăng tẩm đồ sộ đã bị thời gian xóa sạch, thế mà bọn ngông cuồng không ngoằng vô dụng dám đánh một canh bạc lớn với thời gian, ôm cuồng vọng cầm giữ bất tử trong một kỳ trận chữ.
Và cũng thật trớ trêu, hình như không ít những giai nhân, những vương triều hùng mạnh, những chiến tích hiển hách thời xưa sở dĩ lưu lại hậu thế cũng là nhờ mấy con chữ gió thổi bay của đám cuồng sĩ kia. Hay kiếp trước Thôi đã làm gì thất đức.
Mà nào ai có hiểu được nỗi lòng của Thôi. Một người bạn thân đã chỉ vào mặt nhà thơ quát lên khi rượu đã vơi trong bình:
"Mày là thằng không biết điều... Cả vùng Giang Nam này bao nhiêu người chỉ thèm được một bài thơ như của mày cũng đã cho là tuyệt vời hạnh phúc!".
Biết nói thế nào với bạn bây giờ.
Kể nhiều lúc ngồi múa bút giữa bầy cung văn một chữ thè lưỡi khen hay , hai chừ xuýt xoa khen tuyệt cũng khoái... để lúc tỉnh đồng lại càng dằn vặt, càng xót xa với câu hỏi tàn nhẫn:
"Trong hàng trăm bài thơ này liệu có câu nào còn lại?"
Ôi, trong cuộc chạy đua với thời gian không gì nản hơn sự cầm bằng tất cả những câu thơ của mình sẽ lần lượt bỏ cuộc.
Thôi nhìn mấy chữ đại tự Hoàng Hạc Lâu nét bút gân guốc mà bay múa tựa nét bút Vương Hi Chi . Ánh nắng chiếu vào nền thiếp vàng khiến những chữ lung linh như khởi động. Thôi Hiệu chua chát: một trăm năm sau công trình tuyệt tác này chỉ còn là gò đống và cỏ lác... Có lẽ cả tên Lầu Hạc Vàng cũng chẳng còn ai nhắc nhở tới nữa.
Cảnh đẹp như thoát tục. mây trắng bay cả vào chung rượu. Xa kia là đất Hán Dương, những hàng cây đứng thẳng tắp như đạo quân vào lúc Hàn Tín điểm binh... và bãi Anh Vũ cỏ xanh mơn mởn lông tơ má thì con gái.
Chẳng lẽ tất cả rồi sẽ bị thời gian tàn phá hết? Biết đâu tất cả sẽ còn sống mãi nhờ mấy dòng chữ của Thôi. Nhà thơ đứng tuổi bỗng thấy lòng bồn chồn khó tầ Thành công, chí ít cũng được hưởng cái say của một giấc mộng lớn... Như người xưa, chắp hai cánh vào tay bay lên giữa man mác rời rộng... Và chết cùng mây trắng...
Thôi bỗng mỉm cười nữa hài hước nữa ngậm ngùi: "Có khi làm xong bài thơ này mình sẽ từ trên lầu Hạc Vàng nhảy xuống... lấy cái chết thế mạng cho những con chữ bất đắc".
Và Thôi cầm bút. Viết gì bây giờ? Những chữ đầu lòng mới khó làm sao! Tay ông rùng rùng. Mồ hôi và rượu vã ướt đầm. Thôi cảm thấy người bừng bừng như say rượu. Có lẽ còn say hơn rượu. Ông không nhìn thấy ngọn lầu, không nhìn thấy dòng sông, không nhìn thấy cảnh vật chung quanh... Ông cố trấn tĩnh nhưng không trấn tĩnh được. Hình như có một ai đó nói trong đầu ông. Tiếng quen lắm... Nó nói gì vậy? À, nó đọc thơ. Ông có cảm giác một diễn viên quên lớp nghe tiếng người nhắc vở trong cánh gà. Tay ông cũng tuân theo mệnh lệnh của kẻ khác. Và nó lượn nó múa nó viết gì thế kia, dưới thôi thúc một mãnh lực kỳ bí không cưỡng lại được.
Bài thơ xong lúc nào Thôi cũng không hay. Khi đọc lại ông bỗng bàng hoàng. Bài thơ tuyệt vời này có thật của chính ông hay của ai? Làm sao ông có thể viết nổi những câu thơ trác tuyệt đến thế! Chúng có thể sánh những câu thơ đẹp nhất từ ngàn xưa không chút xấu hổ. Ai đã gà cho ông? Hay những chữ bỗng biến hóa, tung hoành, tự tin ở thân phận bất tử của chúng đã nhập vào bất cần ông. Nhà thơ đã tạo ra chúng hay chúng đã tạo ra nhà thơ? Lòng tràn ngập một niềm hân hoan và tri ân vô hạn. Thôi Hiệu qùy xuống kính cẩn chắp tay lạy những con chữ đang lấp lánh trên tường. Chữ đã dẫn ông ông gặp bất tử trong khoản khắc kỳ ngộ.
oOo
Thời đó chưa có hệ thống phát hành sách cũng như các hệ thống thông tin đại chúng hiện đại như bây giờ nhưng bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu đã nhanh chóng truyền đi khắp lục địa Trung Hoạ Những ăng-ten cực nhạy là tai của giới yêu thơ đã bắt ngay được tần số của nó và người ta lập tức phát miệng phủ sóng toàn quốc... mở đầu cho cơn dịch Hoàng Hạc Lâu.
Tên tuổi Thôi Hiệu bỗng sáng chói như một thiên thạch bay trên nền trời, tưởng chừng át cả Lý, Ðỗ.
Ở đâu cũng thấy nói đến "Hạc Vàng đi mất từ xưa. Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay". Vô phúc cho kẻ nào không thuộc lòng bài này. Anh ta lập tức bị xem khinh mười lăm phút và có thể vĩnh viễn bị khai trừ khỏi hàng ngũ tao nhân mặc khách.
Một hôm Thôi Hiệu đi thăm một người bạn tại một địa phương nọ. Gió mùa thu bay lá cuốn theo ngọ tửu kỳ xào xạc của một quán rượu khiến nhà thơ không đành lòng bước qua. Ôi những lá cờ rượu, nó mới đình đám mời đón làm sao! Hình như chỉ có ở Trung Hoa người ta mới treo cờ trước các cửa hàng rượu ngày nọ sang ngày kia như vậy. Lá cờ lúc nào cũng bay... cũng say. Có phải câu "nam vô tửu như kỳ vô phong" là xuất xứ từ những lá cờ tưng bừng như cờ lễ hội này?
Rượu ngon, cá nướng lại tuyệt. Thôi Hiệu mềm môi đánh chén mãi, cho đến lúc tửu nhị đến tính tiền, cho tay vào túi mới biết nó đã rỗng. Mặc dù nhà thơ hết lời nói khó và cam đoan rằng khi gặp người bạn là Vương tri phủ nhậm chức tại đây sẽ cho người đến thanh toán gấp đôi, ông cũng không lay chuyển được lập trường sắt đá của tên hầu bàn. Cũng chẳng nên trách nó. Ðời thiếu gì kẻ ăn quịt mặt mũi còn phương phi, ăn vận còn bảnh bao hơn Thôi Hiệu.
Lý luận của nó rất đơn giản. "Ngài đã ăn thì phải trả tiền, không có tiền thì gửi khăn áo lại". Và nói đi đôi với làm, nó xấn tới lột khăn áo nhà thơ.
Thấy ồn ào, chủ quán chạy tới. Khi nghe khách nói là bạn Vương tri phủ và nhất là tự xưng danh Thôi Hiệu, chủ quán mừng líu cả lưỡi:
- Ngài có phải là Thôi Hiệu... ấy không?
Và khi biết khách là Thôi chính hiệu, chủ quán bèn quát tiểu nhị bày thêm rượu và món nhậu thượng hạng ăn mừng thời cơ ngàn năm có một hạnh ngộ đệ nhất sĩ.
Thôi Hiệu đành nể tình một suất tiệc đúp... và viết tặng chủ quán một bài Hoàng Hạc Lâụ Chủ quán xuýt xoa mãi như được một đặc ân, tất nhiên không dám tính tiền mà còn biếu nhà thơ lớn khoảng bạc vụn làm lộ phí.
Bài thơ Hoàng Hạc Lâu gần như trở thành một tấm các-tín-dụng với tài khoản vô hạn cho phép Thôi chu du qua hầu hết các ca lâu tửu quán loại năm sao khắp miền tổ quốc. Và trung tâm nào không có bài thơ Hoàng Hạc Lâu do chính tay Thôi đề tặng trên vách sau những ngày hành lạc thoải mái và cả khoảng phong bì hậu hĩnh đương nhiên là bị hạ cấp xuống mấy sao.
Thôi Hiệu đắt hàng quá nên lập tức nảy sinh ra nạn Thôi Hiệu dỏm không sao dập tắt được . Bắt chước nét chữ Thôi Hiệu nào có khó khăn gì! Sử chép thời đó nguyên vùng Giang Nam đã có ngót ngét một vạn Thôi vừa chính vừa giả hiệu.
Không chỉ có giới chủ khách sạn và cao lâu mê Thôi Hiệu như một phương tiện quảng cáoo đặc hiệu, giới trí giả cũng hâm mộ ông không kém. Thôi Hiệu đã trở thành một hiện tượng.
Ai cũng biết Ðường Tư Khổng là một vị đại quan giàu sang nhất nước, cũng là một nhà nho nghiêm cẩn đên cố chấp. Nhất cử nhất động gia pháp họ Ðường đều như diễn tả những lời dạy của cụ Khổng. Nhưng họ Ðường lại có tật yêu thơ. Ông muốn mời Thôi Hiệu đến chơi lắm. Nhưng tai tiếng của Thôi cũng đồng cân đồng lạng với danh tiếng của nhà thợ Nghiện chè, nghiện rượu, nghiện cả đàn bà. Một nhà nho chính danh như Ðường không thể tiếp Thôi Hiệu tại nhà mà không ảnh hưởng tiêu cực đến gia pháp. Họ Ðường bèn xây dựng riêng một căn hộ thoáng mát với đầy đủ tiện nghi để tiếp một mình nhà thơ bạc hạnh danh. Thôi thì hắn ta có bậy bạ gì thì bậy bạ ra đó.
Ðể đền đáp mắt xanh của chủ nhân, Thôi lại chép tặng ông... lại... một bài Hoàng Hạc Lâu.
Dịch Hoàng Hạc Lâu ảnh hưởng không tốt đến giới làm thơ trẻ... những bài Hoàng Hạc Lâu con cháu chút chít sòn sòn đua nhau ra đời. Cũng chẳng sao. Với thời gian, nhà thơ trẻ nào có chân tài sẽ tìm thấy tiếng nói lập nghiệp của mình, như những người con đến tuổi trưởng thành từ biệt bố mẹ ra ở riêng. Ðiều đáng chú ý là nó ảnh hưởng ngay đến sáng tác của Thôị Từ sau bài Hoàng Hạc Lâu, Thôi Hiệu cũng viết rất nhiều nhưng bài nào cũng bị bài Hoàng hạc Lâu làm nghẹt thở như bị bóng đè. Bản thân Thôi Hiệu bỗng run... Ra bài này liệu nó có phương hại đến mình không? Và ông lại xệ... lại viết... lại xệ.... hàng chục năm trời Thôi Hiệu vẫn chỉ chép tặng tri kỷ thập phương một bài... Hoàng Hạc Lâu.
Vả lại người ta, cũng có đòi bài khác đâu!
Không ai biết thảng thốt hoặc vào những lúc anh khuya thức giấc Thôi uất ức bài Hoàng Hạc đến mức nào. Bài thơ hình như đã chiếm đoạt cả cuộc đời làm thơ của ông. Nhưng có thật là ông uất ức nó không? Thôi Hiệu thở dài. Té ra mình đã về hưu từ buổi Lầu Hạc Vàng.
Thôi Hiệu cố vùng vẫy. Nhưng vô hiệu... Chiếc đĩa đã thành rãnh và đầu kim đành chạy theo lối cũ.
Nói thế thôi chứ Hạc Vàng vẫn còn ăn khách chán. Và Thôi Hiệu có thể sống suốt đời một cách sang trọng nhờ bài thơ. Một nhà triệu phú qúa hâm mộ còn mở một cuộc thi lớn: "Ai viết nổi một bài vịnh Lầu Hạc Vàng địch được với bài của Thôi Hiệu sẽ được tặng một nghìn cân vàng"
Hôm chung kết các tao nhân mặc khách đến đông chẳng khác gì một kỳ thi hoa hậu. Nhất là khi mọi nngười được tin cả Lý Bạch cũng tham dự.
Không ai biết lý do sâu xa gì đã dẫn Lý trích tiên tới đây. Theo giới am hiểu thì đó là vì rượu.
Triệu phú đã tinh quái đánh vào tín hiệu tửu của Lý. Nhà thơ này có thể xem khinh công danh phú qúy, thậm chí coi thường cả tính mạng nhưng ông xót từng giọt rượu quý.
Mà rượu của triệu phú thì còn trên mức qúy, gần như độc nhất vô nhị. Ðó là rượu lồ ô hảo hạn cất từ Tây Vực phải vận chuyển trong mười chiếc túi da bọc ngoài đựng nước mỗi ngày thay một lần và phải mất một trăm con tuấn mã thay nhau đi nhật dạ không nghỉ và khi đến Vũ Xương lập tức phải hạ thủy sâu dưới mười thước nước để nhiệt không làm khê rượu. Chính vì vậy mà người ta còn gọi nó là bách mã tửu. Thứ rượu này tay cao thủ nhất cũng chỉ uống năm sáu chung là say đừ, ngủ một ngày mới tỉnh.
Quả như triệu phú đã dự đoán, không ai trên tài Thôi Hiệu. Các nhà thơ đã làm đủ trò. Người thì cho đảo mây trắng trên hạc vàng, người thì thay "Hán Dương sông tranh cây bày" bằng "chiều sông sương mù mịt" và "cỏ xanh Anh Vũ" bằng "thảm cỏ héo tàn mùa thu" đủ kiểu nhưng không bài nào thoát khỏi quỹ đạo bài Hoàng Hạc Lâu. Tất cả dù đẹp đến đâu cũng phảng phất một mùi thức ăn hâm lại.
Chỉ còn Lý Bạch. Mà sao đến giờ này Lý vẫn chưa tới? Mọi người đều chờ đợi hồi hộp. Cái nhà thơ đánh vỡ chén ngọc trên trời phải đày xuống trần giới, người dám ngang nhiên giữa triều đình đưa chân sai cao lực sĩ cởi giày, bắt Dương Quý Phi mài mực...
Lý chưa tới nhưng huyền thoại về ông đã lừng lững giữa nhà như bộ phận tiền trạm hùng hậu...
Cử tọa đang ồn ào bỗng im phăng phắc. Một ông già tóc râu lông mày trắng xóa như cước khoác một chiếc áo vàng bước vào nhà. Chủ nhân thân chinh ra giếng kéo rượu lên trịnh trọng đem đến trước mặt Lý. Ông mở nút hít một hơi dài, mặt hớn hở như trẻ được mẹ cho kẹo.
Rượu thơm quá. Và ông rót uống luôn. Một chén rồi hai chén rồi ba chén... Cứ cái đà này thì có khi ông làm hết cả vò rồi lăn ra ngủ chưa biết chừng.
Thánh hiền bặt dưới cỏ xanh
Riêng phường bợm rượu nghìn năm để đời
Người đã xếp rượu trên cả tư tưởng của thánh hiền, người ấy dám làm việc ấy lắm .
Nhưng chủ nhân tinh ý đã bày giấy mực trước mặt ông. Lý cười: "Làm thơ hả?". Rồi lại uống tiếp một chén nữa. Chừng như rượu đã thấm, Lý cởi khuy áo, cầm bút lên tay, nhìn mọi người. Thôi Hiệu cảm thấy ông hơi nheo mắt nhìn mình một cách tinh nghịch nhưng không biết có đúng thế không.
Kể cũng lạ, khi Lý uống rượu thì mọi người mãi mê tham quan ông như một kỳ tích thứ tám của thế giới. Nhưng khi ông bắt đầu cầm bút, cử tọa lập tức chia làm hai phe. Phe chống Lý Bạch và phe chống Thôi Hiệu. Và người ta bỗng nhìn nhau một cách khác lạ, nếu không phải là quyết liệt . Người ta bắt đầu chuyển chỗ tập hợp lực lượng. Có người đã xắn tay áo.
- Phen này Lý tiên sinh nhất định sẽ dạy cho Thôi Hiệu một bài học cho biết thế nào là lễ độ.
- Có lẽ lần này ông Lý kềnh cũng nên...
Còn Thôi thì căng thẳng như thủ quân đội bóng bất ngờ lọt vào chung kết một giải Mondial chờ hiệu còi trọng tài mở đầu cuộc tranh hùng với một đối thủ siêu hạng .
Riêng Lý Bạch vẫn thản nhiên... ông hỏi triệu phú:
- Chủ nhân này, mấy chung thì say?
- Dạ năm chung
- À, thế thì còn hai nữa.
Ông nghiêng vò rót luôn hai chung tợp hai hớp như người khát nước và bắt đầu động bút.
Nét bút sắc như toát ra hơi thép lạnh của một thanh kiếm báu, một số người rùng mình và hơi lùi lại. Người ta chưa kịp đọc xem ông viết gì thì Lý Bạch đã quẳng bút nằm xuống sập ngủ.
Bài thơ vẻn vẹn có hai câu:
Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc
Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu
(Trước mắt có cảnh không nói được
Vì thơ Thôi Hiệu để trên đầu)
Bảo hơn bài Hoàng Hạc Lâu thì không phải. Bảo kém thì không ai dám.
Vì nó khác, hoàn toàn khác.
Hơn một chục năm nay mới có một người làm thơ Hoàng Hạc Lâu Thôi Hiệu khác lạ như vậy.
Mọi người chưng hửng vi một trận đọ tài đã kết thúc ngoài dự kiến của tất cả. Họ tiếc cho nhiệt huyết, không có đất dụng võ, cho cuộc đấu có thể muôn phần quyết liệt, gay cấn, hào hứng... hứa hẹn những cú sút tuyệt vời. Nhưng hầu như tất cả đều rưng rưng một lòng cảm phục vô hạn.
Nhún nhường mà khí phách . Dung dị mà kỳ lạ. Khiêm cung mà siêu phàm. Vẻn vẹn hai câu mà bao la bài học về thi pháp.
Thôi sững sờ... tưởng như Lý Bạch không phải nói về ai khác mà về Thôi. Chính bài Hoàng hạc Lâu đã để đè trên đầu Thôi Hiệu bao nhiêu năm như một nghiệp ách. Nhà thơ đã bị chính mình cầm tù.
Ông chợt nghĩ đến câu nói lạ tai của Ðại sư Tuệ Giác: "Hãy quẳng mình đi như một cái bị rách".
Lý Bạch nằm ngủ, mồ hôi toát cùng hơi rượu thơm lừng, hình như cả người ông là một vò rượu qúy, râu tóc phơ phất như mây trắng, chân gác lên mâm vàng đẩy những thỏi kim qúy rơi xuống đất... Thôi Hiệu lẩm bẩm:
Người xưa cưỡi hạc bay đi... Người xưa đã cưỡi hạc về nằm ngủ đây chăng ?
Ông bỗng nhắm mắt. Trong phút buông thả nhất, Thôi Hiệu vẫn chưa thoát khỏi bài Hoàng Hạc Lâu .
Lê Ðạt