vhnt, số 250
27 November 1996
Trong số này:
thư vhnt.................................................................PCL
T h ơ :
1 - Hà Nội - Phố ................................................Phan Vũ
2 - 100 chữ cho xanh ............................Nguyễn Phước Tường
3 - a-bê-cê ... khoanh ........................................An Phú Vang
4 - Mùa đông ........................................................Chinh
5 - Em tôi ......................................Trương Nguyễn Thi Thanh
6 - Trăng tàn ..................................................Thụy Phong
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
7 - Một buổi sáng thứ bảy .........................Lương Thư Trung
8 - Về giữa Thăng Long ...............................Phạm Thế Ðịnh
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
9 - Xóm Slum ...............................................Trần Hoài Thư
Một đêm không ngủ.
Ðêm xoa dịu tinh thần. Thời gian qua đi, ngọt ngào lặng im. Ðêm như chia sẻ và đêm như bộc bạch. Và bỗng thấy lòng lâng lâng. Như đang dâng cao. Như đang rơi xuống.
Sáng nay lại bỏ việc sở ở nhà - một ngày cho tâm hồn yên tịnh.
Buổi trưa, lái xe ra một công viên vắng vẻ, có rất nhiều lá vàng và cành khô trơ trụi. Công viên này đã rất lâu không ghé, hôm nay chợt nhớ tới nó, nhớ tới không khí u tịnh và cái hoang vắng của nó vào mùa thu, hệt như lòng mình bây giờ. Ngồi một mình ở góc vườn nghe tiếng gió và tiếng lá khô xào xạc dưới chân, cảm thấy thời gian ra đi và trở về cùng lúc.
Gửi bạn số VHNT mới nhất với tất cả tâm hồn và tình thương. Mong nó là chất keo, là sự chia sẻ, là nhịp cầu thông cảm giữa chúng ta trong thế giới chừng-như-hữu-hình-chừng-như vô-hình này.
Mong bạn có một mùa lễ Tạ Ơn hạnh phúc...
thân ái,
PCL/vhnt
HÀ NỘI - PHỐ
Gửi những người Hà Nội đi xa ...
Chương một
1.
Em ơi! Hà Nội - phố!
Ta còn em mùi hoàng lan
Còn em hoa sữa.
Tiếng giày gọi đường khuya
Thang gác cọt kẹt thời gian
Thân gỗ...
Ta còn em màu xanh thật đêm
Ngôi sao lẻ
Xào xạc chùm cây gió
Chiếc lá lạc vào căn xép nhỏ
Lá thư quên địa chỉ.
Quay về ...
2.
Ta còn em một gốc cây
Một cột đèn
Ai đó chờ ai?
Tóc cắt ngang
Xõa xõa bờ vai...
Ta còn em ngã ba nào?
Chiếc khăn quàng tím đỏ,
Khuôn mặt chưa quen
Bỗng xôn xao nỗi khổ!
Góc phố ấy mở đầu
Trang tình sử!...
3.
Ta còn em con đường vắng
Rì rào cơn lốc nhỏ
Gót chân ai qua mùa lá đổ?
Nhà thờ Cửa Bắc,
Chiều tan lễ,
Chuông nguyện còn mãi ngân nga...
Chương hai
6.
Ta còn em khúc tự tình ca
Ðôi chim khuyên gọi nhau
Trong bụi cỏ
Ðôi guốc bỏ quên bên ghế đá,
Tiếng ve ra rả mùa hè...
Còn em đường cũ Cổ Ngư
La đà,
Cành phượng vĩ.
Hoàng hôn xa đến tự bao giờ,
Nắng chiều phai trên sóng Tây Hồ.
Những bước chân tìm nhau
Rất vội,
Tiếng thì thầm sớm hôm buổi tối,
Cuộc tình hờ
Bỗng chốc
Nghiêm trang...
Chương ba
9.
Ta còn em đường lượn mái cong
Ngôi chùa cũ,
Tháng năm buồn lệch xô ngói âm dương
Ai đó ngồi bên gốc đại,
Chợt quên ai kia
Ðứng đợi bên đường.
Chương bốn
10.
Em ơi! Hà Nội - phố!
Ta còn em đám mây in bóng rồng bay
Cổng đền Quan Thánh
Cờ đuôi nheo ngũ sắc
Còn em dãy bia đá
Nhân hình hội tụ
Rêu phong gìn giữ nét tài hoa...
Ta còn em tiếng trống tan trường
Áo thanh thiên điệp màu liễu rủ.
Ðôi guốc cao mài mòn đại lộ,
Một ngả nào lưu dấu gót tài hoạ
Còn em mãi mãi dáng kiêu sa
Lặng lẽ theo em về phố...
11.
Ta còn em những ánh sao sa,
Tia hồi quang
Chớp chớp trên đường
Toa xe điện cuối ngày,
Áo bành tô cũ nát...
Lanh canh! Lanh canh!
Tiếng hàng ngày hay hồi âm
Thuở chiềng khua?...
Ta còn em ngọn đèn khuya
Vùng sáng nhỏ
Bà quán mải mê câu chuyện
Nàng Kiều
Rượu làng Vân lung linh men ngọt
Mắt cô nàng lúng liếng, đong đưa
Những chàng trai say suốt mùa...
Chương năm
13.
Ta còn em cánh cửa sắt
Lâu ngày không mở
Nhà ai?
Qua đó.
Bâng khuâng nhớ tuổi học trò
Còn em giàn thiên lý chết khô,
Cỏ mọc hoang trong vườn nắng,
Còn em tiếng ghi-ta
Bập bùng
Tự sự
Châm lửa điếu thuốc cuối cùng
Xập xòa
Kỷ niệm.
Ðêm Kinh Kỳ thuở ấy,
Xanh lơ ...
17.
Ta còn em chiếc lá bàng đầu tiên
Nhuộm đỏ
Cô gái gặp nắng hanh.
Chợt hồng đôi má
Cơn mưa nào đi nhanh qua phố
Một chút xanh hơn
Trời Hà nội hôm qua...
Ta còn em cô hàng hoa
Gánh mùa thu
Qua cổng chợ
Những chùm hoa tím
Ngát
Mùa thu ...
Chương sáu
18.
Em ơi! Hà Nội - phố!
Ta còn em một màu xanh thời gian
Chợt nhòe,
Chợt hiện
Chợt lung linh ngọn nến,
Chợt mong manh
Một dáng
Một hình
20.
Ta còn em một phút mê cuồng
Người nghệ sĩ lang thang hè phố
Bơ vơ
Không nhớ nổi con đường.
Ngay trước cổng nhà mẹ cha
Còn em một bóng chiều sa
Những câu thơ, những bức tranh
Ðời đời
Lỡ dở...
Chương bảy
21.
Em ơi! Hà Nội - phố!
Ta còn em những giọt sương
Nhòa nhòa bóng điện
Mặt nước Hồ Gươm
Một đêm trở lạnh.
Cánh nhạn chao nghiêng
Chiều cuối,
Giã từ.
23.
Em ơi! Hà Nội - phố!
Ta còn em cánh tay trần
Mở cửa
Mùa Xuân trong khung:
Giò phong lan
Ðiệp vàng rực rỡ
Từng cây khô óng ả sợi tơ hồng
Ðường phố dài
Chi chít chồi sinh
Màu ước vọng in hình
Xanh nõn lá...
Ta còn em,
Hà Nội - phố, em ơi!
Ta còn em,
Em ơi! Hà Nội, phố...
Phan Vũ
Tháng Chạp, 1972
100 Chữ cho Xanh
Dưới chân rừng nghẽn nắng
Mưa đem lệ về đời
Lá xanh xanh giữa hạ
Cỏ xanh xanh lưng đồi
Cỏ xanh xanh nấm mộ
Tiếng khóc xanh vành nôi
Tuổi xanh xanh hờn tủi
Khói xanh nám chân trời
Rêu xanh xanh kỷ niệm
Thương nhớ xanh chia phôi
Ðất vàng xanh xương máu
Lau xanh xanh nương khoai
Cỏ xanh xanh đồng lúa
Sóng xanh xanh trùng khơi
Thiên khung xanh xanh biếc
Lệ xanh xanh mắt ai
Ðá xanh mòn nguyên kỷ
Tình xanh đọng hồn tôi
Hư vô xanh cực lý
Cô liêu lệch môi cười
Nguyễn Phước Tường
a-bê-cê... khoanh
Những câu hỏi có nhiều lựa chọn
a, bê, cê, dê, e
Trong bài thi cuộc đời
Người soạn lười biếng
Vài thế kỷ, vài chục năm
Gần hơn, đời cha đến đời con
Cũng câu hỏi tương tự
Nhàm chán
Lãng đãng mây trời thơ không là a: đúng, bê: sai
Anh nhìn tóc em sợi dài sợi ngắn
Gom buộc đuôi gà bên chiều hiên nắng
Ðưa chân phiêu bồng hôm qua ngày mai
Những câu hỏi đời ai
Như câu phỏng vấn
Cụt
Phụt
Nghèo nàn
Ðôi khi tàm tạm
Những câu hỏi có nhiều lựa chọn
Khung vẽ của một bài trần thuyết
Lớp tám
Sáng mai vào sở anh ngồi với mùa sang
Ðọc một bài viết
a, bê, cê, dê, e
Câu hỏi rất quen
Tên người lạ
Tôi quẹt vào năm chỗ trong câu trả lời
Bài thi tú tài thập niên bảy mươi
Ðứng ngoài cuộc chơi!
An Phú Vang
4 tháng 10, 96
Mùa Ðông
Tôi co ro
đứng một mình
Mùa đông rét lạnh
rùng mình
cùng tôi
Thở ra
mấy nhịp
bồi hồi
Uống sâu tiếng gió
Thèm môi
hồng đào
Mặt trời mọc
ở phố nào
Tôi khô thốc
Tôi lao đao
Một ngày
Châm điếu thuốc
cho khói cay
Khi tôi khóc
có ai hay
mà buồn.
Chinh
23/11/96
Em Tôi
hạt tuyết đầu mùa
em tôi đứng đợi
người sắp về chưa?
tình yêu tù tội
tuyết phơi đầy ngõ
em khóc sang mùa
tình chưa dám ngỏ
chạnh lòng mây, mưa
mùa đông vây kín
ấp áo che lòng
em còn câm nín
dõi mòn mắt trông
rồi cây đơm lá
rừng rộn tiếng chim
vẫn còn nguyên quá
của những ngoan, hiền
nhưng không còn nữa
mầm sống ngây ngô
chồi xuân trước cửa
mà hồn héo khô
em đi hái lá
về ướp cho mình
có hai con quạ
ghé vào trước hiên
em tôi nằm đó
tình đã mang theo
đôi con quạ nhỏ
buồn cất tiếng kêu ...
Trương-Nguyễn Thi Thanh
Trăng Tàn
Ðẹp ở nơi đâu hỡi chị Hằng
Ðêm này vàng võ bóng tiêu sơ
Xác xơ hương sắc trên ngọn trúc
Lệ rũ đôi dòng ủ sương sa
Sương nhỏ hồ thu khan tiếng lạc
Sóng bằng nhăn nhúm gợn hình ma
Thanh tao bao nét chừ đã khép
U uẩn tàn hoa một kiếp phù
Chạnh lòng tự cổ, thi nhân gẫm
Mấy thuở yêu trăng lúc xế chiều?
Trầm kha bao giấc thiên thai ấy
Ai đoái trăng già giữa cơn say?
Lưu lạc đường xa giữa đêm nay
Trăng tàn soi bóng cũng lạnh thay
Xót xa nghe đã tê vai mỏi
Nửa giấc mộng đời cũng buồn lây.
Thụy Phong
(11/1996)
MỘT BUỔI SÁNG THỨ BẢY
Trời bên ngoài còn tờ m Chuông điện thoại reo. Tôi nhìn đồng hồ. Mới sáu giờ rưỡi sáng. Một anh bạn trẻ rủ tôi lại nhà anh Năm uống cà phê. Không hẹn trước, nhưng không có gì trở ngại. Nói là bạn trẻ, nhưng thật ra anh chỉ trẻ so với tôi và anh Năm, vì anh, năm nay cũng đã trên bốn mươi tuổi rồi. Anh là bạn học của thi sĩ Nguyễn-Tất-Nhiên từ hồi còn là học sinh của trường Ngô-Quyền, Biên hòa.
Ðược rủ đi uống cà phê sáng sớm làm tôi nhớ những ngày về quê làm ruộng. Chuông chùa vừa mới công phu hiệp nhứt. Gà trên cây xoài, cây mận còn đang gáy vang. Mấy người bạn nông dân mến tấm lòng của vợ chồng tôi, nên không ngại kêu cửa nấu nước pha trà, cà phê. Vì xa chợ quận, nhà tôi thường mua sẵn trà, cà phê để sáng sớm uống chút trà nóng rồi ra đồng thăm lúa còn lã ngọn vì những giọt sương đêm đọng lại. Bên tách trà nóng, các bạn nông dân kể cho nhau nghe đủ thứ chuyện. Từ chuyện mùa màng cho đến chuyện bắt cá, bắt lươn. Nghe mà thích thú vô cùng. Có thể nói, tôi đã học được những kinh nghiệm đồng ruộng nhờ những người bạn nông dân chơn chất này.
Anh bạn trẻ, dù thua thiệt nhiều trong cuộc sống đời thường, nhưng anh không trách móc cuộc đời. Anh rất vui tính, và thông tường mọi việc. Nhất là về kiến thức tổng quát trên các lãnh vực văn chương, học thuật phương Ðông.
Anh Năm thì tuổi cũng ngoài sáu mươi. Nhưng tâm hồn rất trẻ, yêu đời, yêu cuộc sống. Kiến thức lại uyên thâm. Nhưng điểm đặc biệt mà tôi muốn nói ở đây là anh Năm tâm rất hiền, cương trực. Anh có phương pháp đọc sách báo rất đặc biệt và có những nhận xét rất xác đáng, trung thực.
Mặc dù lớn tuổi nhất, nhưng trong cung cách, lúc nào anh Năm cũng để tay lên trái tim như thủ lễ, khiêm cung khi nói chuyện. Thuở thiếu thời, anh Năm là đứa trẻ nhà quê nghèo đi cắm câu, bắt cua, băt ốc, bắt chuột. Bản chất đồng ruộng đó càng làm anh Năm vốn hiền càng hiền hơn. Riêng chị và các cháu còn kẹt quê nhà, nên anh Năm chỉ sống một mình, đơn độc.
Còn tôi, tuổi đời cũng ngoài năm mươi. Cuộc đời tôi chẳng có gì phải dong dài. Tôi đã có dịp minh định vị trí của mình rồi. Mãi hoài là một người nông dân tay lắm, chân bùn, khét sình, khét nắng. Tôi vui với cuộc đời nhà quê đô Tôi hạnh phúc với cái khét nắng, khét bùn đô Tôi sung sướng với sự an định đó của cuộc đời.
Anh Năm tiếp hai chúng tôi từ ngoài cổng. Căn phòng khách của anh năm vừa, gọn, trang nhã với một vài bức tranh quê trên vách. Một chậu hoa lài. Một chậu dạ lý hương. Hai chậu tắc đang có trái bằng ngón tay cái. Một hàng dài khoảng mười chiếc keo bằng thủy tinh, loại keo làm dưa kiệu, với nước trong leo lẻọ Mỗi chiếc keo, anh Năm mua cá thia thia ở phố Tàu về nuôi trong ấy. Con nào cũng đen mun, nhỡn nhơ bơi lội với những vi kỳ lã lướt như những cánh diều nghiêng nghiêng uốn mình theo gió.
Ngồi nhìn những con cá thia thia vô tư lự, tôi miên man nghĩ ngợi một điều gì mông lung. Mỗi con cá thia thia trong mỗi chiếc keo như mỗi con người với mỗi mảnh đời, mỗi hoàn cảnh khác nhau. Nhưng cùng chung sự tù túng trong từng chiếc keo nhỏ, bị cô lập, không làm sao vượt thoát ra được cái cõi không gian bé nhỏ, với một dung tích nước trong leo lẻo, hạn hẹp này. Tôi liên tưởng tới ba anh em, ở ba thế hệ, ba mảnh đời, ba hoàn cảnh khác nhau nhưng có cùng một nỗi lòng xa cố hương như những con cá thia thia xa rừng tràm, xa đồng cỏ rong rêu, xa con nước đục, nước bùn. Nhiều lúc, chúng tôi cũng không vượt thoát được chính nỗi cô đơn, dằn vật trong lòng về một nỗi nhớ mông lung, hiu hắt về một phương trời nào xa xăm lắm ở cố hương, ngay vào giờ này, tại nơi đây, trong căn phòng bé nhỏ ở một nơi chốn lạ cảnh, lạ quê này.
Những con cá thia thia dù vô tư lự, nhưng nhiều lúc còn biết đau cho thân phận của mình. Cá trở mình, vảy cá màu sọc dưa, sình bụng, ê răng, không chịu ăn. Huống hồ gì con người, mỗi lần chợtnghĩ về thân phận lưu lạc của đời mình, làm sao mà không cảm thấy xót xa, ngậm ngùi...
Trước ba ly cà phê còn nóng mà anh năm vừa pha xong, ba ổ bánh mì anh bạn trẻ mang lại, cùng một bình trà nóng ướp hoa lài. Chúng tôi nói chuyện với nhau nhiều về những vấn đề gần gủi và xa vờị Về thế hệ trẻ chủ trương tạp chí Văn Học Nghệ Thuật trên Internet. Về những tâm tình "Nói với tuổi hai mươi"của Nhất-Hạnh. Về những vần thơ của nhà văn Trần-Hoài-Thư, mà mỗi chúng tôi, ai cũng rung cảm với bàn chân người con gái bỏ guốc len lén bước nhẹ trên giòng sông trăng, để rồi dấu chân trần bất động im lìm, phủ lấp ánh trăng:
Xa thì xa. Người cũng thật xa
Chị có về bàn chân bỏ guốc
Dòng sông đêm trăng. Thở dài não nuột
Dấu chân rồi cũng xóa. Nằm im.
(Khi chị về)
Hoặc hình ảnh người thiếu nữ tắm trăng với chiếc gáo dừa của miền quê thơ mộng, trong lành biết dường nào:
Mười sáu trăng tròn hồn chị bâng khuâng
Ðêm ra tắm ngoài bến sông im vắng
Chiếc gáo dừa. Múc trăng.Trăng động.
Giòng suối trăng lai láng cả bình nguyên.
(Khi chị về)
Chúng tôi cũng nói với nhau về một chút đạo làm người,về "kiến quần long vô thủ". Và nói nhiều về những miền quê, về ruộng đồng,về cua, về ốc, về cá, về cách chất chà băt chuột. Về những cái chung cũng như những nét đặc thù cuả mỗi loại mùa màng mà chúng tôi đã sống, đã trực tiếp trồng trọt, đã đi qua sau mấy mươi năm trong cuộc sống phiêu bồng, lang bạt giờ còn xót lại... trong những con người ốm yếu, gìa nua, chậm chạp, mệt mỏi nhưng có những con tim không rời xa quê hương.
Ba thế hệ, ba mảnh đời, ba hoàn cảnh nhưng cùng một tấm lòng yêu mến cái cội nguồn nhà quê, nhà nghèo của mình. Yêu mến cái tiếng Việt đến độ không rời xa được. Yêu mến những con cá ở quê nhà vào mùa nước lụt tháng bảy, tháng tám. Yêu mến những con chuột đồng mập béo, bụng trắng phau vào mùa mưa tháng tư. Yêu mến tiếng dế mun, dế lửa réo gọi mùa hế Yêu mến tiếng ếch, tiếng nhái, tiếng ểnh ương vào những ngày mưa dầm ngập hang, ngập cồ Yêu mến những chùm hoa cau, hoa bưởi, hoa lài vào những ngày tháng năm. Yêu mến mùi thơm ngào ngạt của giàn dạ lý hương, bên cạnh vườn trầu vàng, vào mỗi chiều trước khi đêm xuống. Yêu mến những cánh hoa mai vàng rực đất trời vào những ngày cuối tháng chạp, tháng giêng cùng với cái không khí Tết Nguyên Ðán với bao điều hy vọng, chúc lành. Văng vẳng trên đọt tre, ngọn gáo, ngọn bần, tiếng chim cu gù, tiếng chim cu gáy. Yêu mến cái hạnh phúc của đôi chim, của tạo vật để mơ ước có được cái hạnh phúc đơn giản, bình dị của kiếp người. Yêu mến những cánh dơi chập choạng đáp lên những trái vú sữa, những trái xoài chín cây đầy mật ngọt khi đêm chìm lấp. Yêu mến những bông lúa chín vàng trĩu hạt, quằn bông với hương lúa mới thơm thơm nhè nhẹ vào những vụ mùa đông xuân khô ráo hay hè thu mưa dập, mưa dồn.
Chúng tôi đã già, đã vất vả nhiêu khê biết bao độ đi và về, biết bao lần vinh và nhục, biết bao bận đói và no, biết bao phen khổ đau và buồn nản.
May mắn hôm nay, chúng tôi còn có với nhau những gặp gỡ để chia xẻ, để cảm thông, để còn nói được với nhau những niềm vui, những hạnh phúc về một thế hệ trẻ rời quê hương tròm trèm trên dưới hai mươi năm vẫn còn nhớ lại, nghĩ về một nơi chốn thân yêu mà đã có không biết bao người vì mạch sống mới dồn dập đã vô tình quên đi.
Bên ngoài, một vài ngọn gió cuối thu mang cái lạnh như trời đất sắp chuyển sang mùa. Rừng cây xa lạ trên ngọn đồi Ashmont đã trụi lá, trơ cành như thách thức với một mùa đông khắc nghiệt sắp về với vùng Ðông Bắc Mỹ này. Chúng tôi ba người bạn mới quen, ba con người lưu lạc nghe ấm lại lòng mình với không khí thân quen, chân tình. Có những niềm vui nhè nhẹ , êm êm, nhưng ở lại dài lâu trong tận cùng con tim với ba tấm lòng hiền hòa, cảm thông, chia xẻ, thương mến vào một buổi sáng thứ bảy cuối thu nơi đất khách này...
Lương Thư Trung
Boston, Cuối Thu 1996
Về Giữa Thăng Long
Bây giờ nghĩ lại thì thấy quả là mình bất nhẫn. Khi được ông giáo sư khoa trưởng đề nghị đi Việt Nam, trong một chương trình hợp tác giáo dục Úc-Việt; tôi đã chuẩn bị chuyến đi một cách hoàn toàn máy móc. Cái lô gích đã hoàn toàn làm chủ: Ðọc kỹ mọi tài liệu, chuẩn bị một hồ sơ làm việc, soạn va ly, loại bỏ những giấy tờ không hợp...
Thời tiết năm nay, tuy mới đầu tháng ba mà Melbourne đã trở lạnh, cẩn thận bỏ vào thêm 2 cái áo len, "cái rét ngoài bắc ghê lắm đấy...". Tối qua, nhạc mẫu tôi vừa điện thoại để dặn dò vợ tôi về những vật dụng cần mang theo. Cụ bà thế mà náo nức hơn cả tôi, "cái rét ngoài bắc", cụ nói cứ như là gia đình còn ở trong miền nam nước Việt, chưa trôi nổi đến cái miền của loài đại thử này.
Tôi và người bạn đồng hành Úc (một người lớn tuổi, rất lão luyện trong những giao dịch quốc tế) đáp chuyến bay của hãng Cathay Pacific, sáng thứ bẩy qua Hồng Kông, ở đó một ngày, rồi đáp máy bay đi Hà Nội ngày hôm chủ nhật mồng 13 tháng ba.
Buổi tối ở Hồng Kông, sau khi đi xuống phố dạo chơi, về lại khách sạn tắm rửa, tôi vẫn thản nhiên như không, đi ngủ tỉnh bơ như trong một chuyến công vụ không lấy gì làm lý thú cho lắm. Mãi đến khoảng trưa hôm sau, ngồi bên này bờ của viện bảo tàng mỹ thuật Hồng Kông, nhìn qua bên kia bờ, cái áo choàng xám sương mù lờ lững ôm phủ những toà cao ốc, phơi những bảng hiệu quảng cáo của những công ty Nhật. Một nỗi bàng hoàng dậy lên: chỉ vài tiếng nữa thôi, tôi sẽ có mặt ở Hà Nội, một thành phố rất thân yêu, nhưng cũng rất xa lẫ Thành phố đã mang tên Thăng Long. Ðất thánh của nhiều người Việt Nam. Tôi lặng lẽ ấp ủ nỗi lòng, nhớ về một quyển sách của Albert Camus, "Kẻ xa lạ", diễn tả tâm sự của một kẻ tha hương lâu ngày, về lại tổ quốc để dự đám táng của người mẹ ru ột, anh ta chỉ tìm thấy nỗi xa lạ trên chính quê hương của mình. Tôi cảm thấy rằng mình may mắn hơn, nỗi thần giao cách cảm đã về kịp, chuẩn bị cho tôi đi về lòng đất mẹ.
Không khí Việt Nam đã được cảm thấy ngay khi chúng tôi đến đăng ký hàng hóa ở phi trường Hồng Kông. Những quầy tiếp nhộn nhịp đón khách một cách hỗn độn hơn những chỗ khác. Phần đông là giới thương mại Nhật, Trung Hoa, Mỹ. (Sau khi Mỹ bỏ lệnh cấm vận, giới tài phiệt ngoại quốc như có chỗ thoát, ào vào mảnh đất hình chữ S). Một số người Việt hồi hương đứng lớ ngớ cùng đám hành lý bề bộn. Chúng tôi gặp ngay nỗi khó khăn nơi cửa ải ngoại biên: Người tiếp viên trẻ của hãng Cathay cho chúng tôi biết là chuyến bay đã chật. Chúng tôi ngạc nhiên vì vé đã được mua từ lâu. May quá, một nhân viên cấp cao hơn đã tới ngay dàn xếp; chúng tôi "được" lên máy bay, nhưng thay vì được ở hạng nhất như vé mua, chúng tôi phải ngồi ở hạng thường.
Tôi không cảm thấy bị phiền gì cả, nhưng ông bạn Úc có vẻ buồn vì trả tiền mắc hơn mà lại phải ngồi chật chội, không làm việc trên máy bay được.
Cuối cùng rồi chúng tôi cũng vào được bụng của máy bay, chuyến này hình như là một hợp tác giữa hai hãng hàng không Việt-Hồng Kông. Máy bay chật hẹp, có lẽ mua lại từ hãng hàng không "Air France". Cảnh tượng bên trong có thể mô tả là hỗn loạn. Hành khách chen chúc nhau nhét những hành lý xách tay vào những hộc chứa, hầu như cái nào cũng đã chật ních. Thì ra, có một số người đã lạm dụng, xách đủ mọi hàng hóa cồng kềnh, như nồi cơm điện Nhật, máy hát... Hộp nào, hộp nấy to tướng. Tiếng cười nói Việt Nam vang lên như trong một cái chợ. Người ta hỏi thăm nhau về những chuyến công tác tại xứ ngoài. Người ta so sánh giá hàng mua từ Nhật Bản, Hồng Kông. Người ta ca tụng vẻ văn minh của nơi người ta vừa Một anh Việt Kiều từ Mỹ, tóc mượt láng, đang rất trí thức phụ đề vào câu chuyện của những cán bộ mới được các cơ quan gửi đi ngoại quốc. Tôi vừa đề nghị đưa chỗ để hành lý cho một anh đang cuống quít tả xông hữu đột nhét hộp, thì đã nhận ngay một tràng lắc tay quầy quậy. Biết thân, tôi ngồi im lặng. Ông bạn Úc đã im lặng từ lâu. Bên cạnh ông ta, một hành khách Nhật, tỉnh bơ với cử chỉ gần như là khinh miệt, cắm cúi chúi đầu vào một cuốn sách, chẳng thèm nói gì khi bị va chạm. Từ phía sau, tôi nghe một giọng Bắc đặc "cái thằng Tây kia mất dậy, chờ về đến Hà Nội đập nó vỡ mặt...". Tôi đâm ra hiểu sự im lặng của những người ngoại quốc, vì đã quen nơi, biết chỗ, khôn hơn tôi nhiều.
Những nhân viên chiêu đãi cố gắng làm tròn nhiệm vụ. Vẻ xinh đẹp, mảnh mai của phụ nữ Việt, theo tôi, tuyệt vời trong những bộ áo dài dân tộc. Chỉ cần một sự tổ chức chặt chẽ lên thôi, hãng hàng không Việt Nam sẽ đưa những giá trị của mình lên một vị trí cao hơn. Chuyến bay chỉ khoảng 1 tiếng mà có được một phần ăn nhễ Tuy chỉ được dọn trong một hộp nhựa đơn sơ, món beefsteak làm theo kiểu Việt Nam rất ngon.
Khi nhìn đồng hồ thấy còn khoảng 15 phút đến Hà Nội, tôi xin lỗi ông bạn đồng hành, ngồi sát vào khung cửa nhìn xuống, mong bắt được những hình ảnh đầu của quê hương. Ông bạn Úc mỉm cười thông cảm, nhưng cũng ráng nói vớt một câu: "Anh coi xem, cái cánh máy bay có còn nguyên vẹn không?".
Chẳng may cho tôi, trời đã vào tối, từ cao nhìn xuống chỉ thấy một màu đen. Ông cán bộ trẻ, ngồi hàng ghế sau, độc thoại với giọng khá to, có lẽ muốn thuyết minh cho những người bạn ngồi hàng ngoài "Ðến quê hương rồi, nhưng sao chẳng thấy gì cả, tối đen, nước mình nghèo quá không đủ đèn...". Tôi cảm thấy hơi tê tái, mặc dù đã chuẩn bị tâm hồn. Chờ thêm một ít nữa, máy bay xuống thấp hơn, từ trên cao, giờ đã thấy những nhóm đèn hiện ra. Quả có khác những quốc gia tân tiến, ở đó , nhìn từ trên máy bay, người ta thấy những thành phố như những bàn cờ điện liên tục, nhấp nháy dưới chân.
Hai hàng đèn thẳng dọc một con đường có thể thấy từ máy bay. Giọng thuyết minh độc thoại của anh kia vẫn tiếp tục giảng cho hay đó là con đường mới làm, với trợ cấp của Nhật (hay Ðài Loan?), dài 14 cây số, dẫn từ phi trường Nội Bài tới cửa Hà Nội. Nhờ vậy, mà có được nguồn sáng đô
Máy bay đáp xuống phi trường, hành khách lần lượt đi vào phòng kiểm. Tôi hít mạnh không khí, thật trong mát, không có mùi xăng. Thành phố ít bị ô nhiễm. Ông bạn Úc bắt tay, hớn hở (mừng cho tôi hay mừng cho chuyến bay đã xuông xê), "chúc mừng anh về lại quê hương". Tôi vừa sung sướng, vừa cảm động, vừa vụng về: "chúc mừng ông đến Việt Nam...", "quê hương tôi"
Phi trường Nội Bài sạch sẽ, nhưng quá khiêm nhường và hơi cũ. Nhữnng thiết bị không tân tiến như những phi trường quốc tế khác. Chúng tôi xếp hàng chờ để làm thủ tục nhập cảnh. Một bà nhân viên phi cảng, mặc áo cánh, đang khoan thai dùng tay tát nước từ một thùng nước plastic có quai, cho bớt bụi trên hàng hiên của cổng vào. Thế kỷ 20 như ngừng chân lại tại đây, nhịp sống chậm hơn.
Tôi đứng chờ bên cạnh một người Nhật trẻ. Ðể cho qua giờ, và cũng để ôn tiếng Nhật, tôi quay qua chào anh ta bằng tiếng đảo Phù tang. Anh ta chào lại, tưởng tôi là một người đồng hương. Qua vài câu trao đổi, anh ta rất ngạc nhiên khi thấy một người Việt có thể đối thoại với anh ta bằng tiếng Nhật, thành thật mà nói rất ngập ngừng và hạn chế: Tôi đã không nói thứ tiếng này gần 20 năm. Nhờ nói chuyện mà sự chờ đợi bớt chán.
Nhân viên Việt Nam ở phi trường Nội Bài, ăn mặc đơn giản, nhưng ăn nói lịch s Tôi không nhìn thấy một dấu hiệu hối lộ nào, ngoại trừ, mấy anh cán bộ lúc nãy đã được người quen vào đón tận phi trường, hộ tống mấy xe đẩy, đi tọt ra ngoài cùng những hàng hóa mới mua. May qua, không có một anh Tây nào bị đập cầ Tối nay, nỗi mừng vui của vài gia đình sau những ngày xa cách sẽ được đậm đà thêm vì có một vài món quà tân tiến mới mua từ xa về. Tôi thấy dâng lên trong lòng một nỗi thông cảm. Tuy vẫn nghĩ rằng cần có một vài kỷ luật tự giác hơn.
Câu nói tiếng Việt đầu tiên (ngoại trừ những câu kiểm tra thủ tục) đón mừng tôi ở xứ Hà làm tôi không nín được cười. Người tài xế, sau khi nghe tôi nhờ mang hành lý của chúng tôi để lên xe, trợn tròn mắt nhìn "Em chưa bao giờ thấy một người Nhật nói tiếng Việt sõi như anh!". "Anh là người Việt chính gốc, chẳng lai tý nào em ơi". Tôi nói, em ta cũng cười. Nhịp cầu thông cảm đã được bắt mau giữa tôi, đứa con xa nhà quá lâu, và em, một người chưa từng rời xứ sở.
Chiếc xe Nhật tương đối đẹp, chở chúng tôi với một tốc độ rất chậm (30-35 cây số giờ) dù chạy trên đường mới, mỗi chiều 2 lanes. Nhưng còi xe thì bị bấm liên hồi. Tôi kinh hoàng khi nhìn thấy một đám em bé ngồi lấp chật trên đường lộ, chờ cho đến khi xe chạy gần tới, mới túa vào lề. Trên nhiều đoạn đường, một vài chiếc xe đạp chạy ngược chiều rất thản nhiên. T. (người lái xe) nói: "Anh chưa thấy hết đâu, để mai vào Hà Nội, sự giao thông còn kinh khủng hơn nhiều".
Chúng tôi, từ từ và thận trọng, vượt qua khoảng đường 14 cây số. Ðầu ra, có một cái chòi cũ kỹ, một chị ăn mặc xuềnh xoàng ngồi trong chòi thâu tiền đường. Ðộ 10 thước sau, có một hàng rào gỗ thô sơ, quấn dây kẽm gai, chận lại. Một người đàn ông đội nón cối, đen đủi đứng thâu lại cái vé vừa mới đưa. "Ðể kiểm xoát" T. giải thích.
Chiếc xe đã bỏ vùng ngoại vi để vào Hà Nội. Ðường phố vẫn tối với những vùng đèn vàng hiu hắt. Hai bên lề tôi thấy rải rác đâu cũng có quầy hàng, những xạp bán xăng, những bảng đề "Thịt Chó"; hầu như nhà nào có tý mặt tiền cũng thành một tiệm nhỏ. Một khu chợ trời khổng lồ, tôi nghĩ thầm trong bụng.
Chúng tôi vào Hà Nội theo ngả Cầu Giấy. Nơi đây trên một thế kỷ trước, một người sĩ quan hải quân Pháp, Francis Garnier đã bị tử trận. Thời còn ở Pháp, tôi đã nhiều lần trầm ngâm đứng trước căn nhà, nơi ông ta đã được sinh ra ở thành phố Saint Etienne, nghĩ thầm về những định mạng lịch sử, (hay những ngẫu nhiên lịch sử) trong đời người. Khoảng trên 5 năm trước, chính quyền Việt Nam đã trả lại hài cốt của Francis Garnier về cho chính phủ Pháp. Lá rụng đã về cội. Hôm nay, tôi về đây, về giữa thành Hà Nội.
Hà Nội đón tôi không rộn rã tiếng ngừời thân, như hình ảnh người cha già ngày nào chờ tôi tại phi trường Tân Sơn Nhất. Hôm đó tôi có để lệ lên mắt thì phải, cha đã già đi, tôi không được ở cạnh. Lần về này, Hà Nội ngấm dần vào lòng tôi, như một hò hẹn từ lâu lắm. Tuy là lần đầu thấy Hà Nội, tôi có cảm giác như đã quen thuộc từ lâu. Hà Nội chờ người trong chữ nhẫn và chữ dịu. Tôi ngắm nhìn từng dẫy phố băng qua, suy nghĩ những tên đường, phố Nguyễn Thái Học băng qua phố Tôn Ðức Thắng, đường Lê Duẫn... Phần đông những tên phố mang đậm nét chính trị cận đại. Nhưng nhiều tên phố vẫn bộn bề cổ sử: Phố Quán Sứ, phố Cửa Nam, phố Bà Triệu...
Khách sạn chúng tôi trú ngụ trong 6 ngày ở Hà Nội, nằm trên đường Triệu Việt Vương, gần hồ Bảy Mẫu. Phoenix là một khách sạn 3 lầu mới xây, có khoảng 20 phòng. Phòng khá rộng, có giường đôi, tủ lạnh và máy điều hòa không khí. Bàn, ghế, tủ, giường đều làm bằng gỗ khảm, khá kỹ. Có kem đánh răng, bàn chải, xà phòng nhãn Trung Quốc nhưng khá tốt. Nước tắm không đủ nóng nhưng không đến nỗi rét lắm. Ở Hà Nội, một khách sạn do người Việt làm chủ như vậy đã là khá lắm.
Sau khi đóng cửa phòng, tôi để cảm xúc tự do dâng lên trong lòng. Cúi xuống hôn vào đất Việt Nam, cách một tầng lầu. Tôi có cảm giác ngần ngật như người say rượu: Tôi đang ở giữa Thăng Long, trong một giai đoạn quan trọng của đất nước. Còn 6 năm nữa thôi, kỷ nguyên thứ 21 sẽ bắt đầu. Từ trong lòng tôi, bỗng dấy lên tiếng thầm thì của Hồ Gươm muôn thuở.
Phạm Thế Ðịnh
Xóm Slum
Tôi đang trở lại Logan. Ðây là đường Old York. Ðây là dãy phố lầu xám cũ. Ðây là ngã tư, đèn xanh đỏ. Ðây là tiệm giặc. Và văn phòng địa ốc Somershoe, mà không một người tị nạn nào lại không biết tên, hay gắn liền với cuộc sống. Tiền thuê nhà phải trả vào đầu tháng. Những lần than phiền về heat, điện hay nước. Ông nội ông già, hay người con trai Somershoe, ba thế hệ chuyên môn sống bằng nghề địa ốc. Và đối diện với văn phòng địa ốc là ngôi lầu 4907, tầng hai. Chiếc xe trolley đã chạy qua, âm vang lách cách. Những tia lửa xẹt chạm trên hàng dây điện trời. Lũ bồ câu đã bay rợp trên những mái nhà rêu cũ. Màu tường vôi vẫn chưa quét thêm lớp vôi mới. Thêm hai tiệm tạp hoá của người Miên. Và mùi mắm bồ hóc bốc nồng nàn trong không khí. Những người mặc sà rông đi lại trên vĩa hè. Cảnh cũ đã không còn nữa. Những bóng hình Việt Nam năm xưa đã biến mất. Và bây giờ nhường khu Logan này cho một sắc dân khác. Như đầu tiên là người da trắng, kế đến là Do Thái, đến Mỹ đen, rồi Việt Nam, và bây giờ la Miên... Nếu còn giống chăng là những ụ rác, những vĩa hè dơ bẫn, vẫn cái bóng nghèo nàn thiếu ánh sáng từ một nơi được mệnh danh là slum, đến nỗi những người tị nạn phải gọi là Lò Gan. Ngã tư này, dưới cột đèn này, hôm nào những người tị nạn Việt Miên Lào Mông đã từng tụ tập trong những đêm về sáng để chờ những chuyến xe bus đưa về các nông trại xa. Từ căn lầu hai, tôi có thể nghe tiếng cuời nói bằng những ngôn ngữ khác nhau rộn ràng trong một đêm về sáng. Tôi nhớ đến những chuyến xe bus đầy ngập người qua khỏi cầu Delaware, về những vùng thôn dã, và những nông trại táo, cherry, lê, mận trùng trùng điệp điệp... Khi xe vừa dừng là đám người túa ra, chạy tìm chỗ tốt. Chỗ tốt ở đây có nghĩa là một khu vực sai quả, để họ có thể thu hoạch nhiều hơn và dĩ nhiên là sẽ nhận tiền nhiều hơn. Cái giá này ai nói là giá nô lệ khi ai ai cũng tự nguyện. Vâng, mỗi năm cứ đến vào mùa hè, những người dân tị nạn lại nao nức trở lại nông trại cũ như những đứa bé trở lại trường trong ngày tựu trường...Chẳng ai thắc mắc về những bài báo nói về bóc lột mồ hôi nước mắt của các trại chủ, hay các tên cai thầu... Chẳng ai nghĩ đến thân phận bi thảm trong thời kỳ nô lệ xa xưa...
Bây giờ tôi đang trở lại. Trên một tầng lầu nào trước mặt tôi, cánh cửa vẫn còn đóng kín. Không biết có gia đình nào ngụ ở đấy hay không. A, tôi nhớ ra rồi. Cái bóng tôi ở đằng sau khung cửa sổ trên lầu hai ấy. Cái bóng hôm qua trong căn phòng ít ánh sáng. Chiếc giường bố đặt bên cạnh vách tường. Chiếc bàn dùng làm bàn viết, học, khách. Cái sàn ván thông đánh màu verni vàng bóng. Và khung cửa sau nhà bếp nhỏ hẹp, để tôi có thể nhìn qua nhà láng diềng, gọi nhau ơi ới bằng tiếng nước mình. Và lũ gián trong đêm. Và cả đám chuột lộng hành. Và những ngày tắt heat, hay những buổi heat mở tối đa khiến cửa sổ phải mở toang. Từ cõi nhỏ hẹp bần hàn đó, mấy năm, với giá tiền thuê rẽ mạt chưa hề tăng, chúng tôi đã sống, để nếm thế nào là giọt lệ đầu tiên của người tị nạn. Bạn bè ít ai dám bén mãng thăm viếng. Họ nghe Logan như nghe một điều gì đó hãi hùng. Khu đen. Khu drug. Xe bị đập cửa kính. Bánh bị đâm thủng ruột. Một người đàn bà tị nạn sắp bị hiếp. Vợ tôi bị đập, xô mấy lần trong những buổi sáng sớm đón xe đến hảng. Tôi bị đám thiếu niên rượt ngay sau khi vừa ló đầu lên miệng hầm subway. Tiệm tạp hoá Ðại hàn dưới lầu tôi thuê thỉnh thoảng nửa đêm bịphá cửa. Cảnh sát cảnh cáo tôi đừng bận tâm lý do chủ tiệm đã có bảo hiễm lo lắng dùm. Ðó, Logan, hay Lò gan là như thế. Như thế, tại sao tôi lại bâng khuâng như một kẻ đã gởi vào đầy nhiều kỷ niệm. Như thế, tại sao tôi cứ nghĩ là chính nơi này là một phần trong đời sống của tôi. Ðâu có gì để phải nhắc lại khi nhục nhằn, hoạn nạn, và những đám mây u ám một thời? Ðâu có gì để nói về một slum. Ðâu có gì để phải kể lại cái bóng tôi một trưa nào trong ngôi nhà thờ Mỹ trong khu, khi tôi phải nương cậy vào Ơn Trên để ban cho tôi có đủ nghị lực. Lần đầu tiên tôi đã đến nhà thờ, dù tôi chưa bao giờ thuộc ngay cả một lời kinh căn bản nhất. Tôi đã nhắm mắt. Cầu gì. Con tôi thơ ngây nói về tên giáo viên người Ðại Hàn bệnh hoạn phụ trách lớp ESL bắt đám học trò trai gái lớp một hôn nhau, hay cởi hết áo quần để hắn nhìn. Cầu gì. Làm sao tôi thoát khỏi slum. Làm sao cho con tôi được học một ngôi trường tốt hơn. Không ai hướng dẫn. Không ai chỉ bày. Không ai biết tiếng Anh, tiếng Mỹ lưu loát. Những người như thế đã không bao giờ ở nơi này. Cầu gì. Cho tôi được một chút thông minh, để tiếp tục làm học trò già. Chiến tranh, tù tội, vượt biển, bao nhiêu ám ảnh, thảm kịch chất chồng đã cướp đi hết mớ kiến thức học vấn xa xưa rồi. Cho đôi mắt mờ yếu của tôi được thấy rõ những giòng chữ thầy viết. Cho những lời giãng tôi còn theo kịp, dù một đôi phần. Tôi nhớ hôm ấy, trong lòng giáo đường Tin Lành rộng mênh mông, không có ai, trừ tôi. Nắng làm lung linh những ô kính xanh xanh đỏ đỏ. Ngày xưa, tôi chưa một lần đến nhà thờ hay chùa chiền để cầu cứu. Nhưng bây giờ, giữa một xứ sở rộng mênh mông này, giữa một xóm slum này, lấy ai an ủi, khuyến khích, vỗ về tôi? Vợ tôi cảm thấy tuyệt vọng. Nàng đã nhận ra rằng xứ Mỹ không phải là một thiên đàng như nàng đã từng mơ ước. Không phải là những đồng penny hay cent dư được vất đầy trên những trạm xăng, để mình đến đó cứ việc lượm nhặt như người bạn cùng sở, đã từng du học, trở về nước kể lại. Mà trái lại, nó là tội ác, súng đạn xữ dụng bừa bãi, tội lỗi tràn ngập. Nàng đã thấm thía thế nào là tự do. Bởi vậy, nàng chỉ sống bằng những giấc mơ. Mơ ngày. Mơ đêm. Mơ một ngày chúng tôi có một chiếc xe, để nàng được đi đây đi đó, thăm bạn bè, hay chiêm ngưỡng phong cảnh. Mơ ngày tôi ra trường, có một job tốt. Và cả những giấc mơ thật đẹp của ngày xưa. Má, em, láng giềng, quê ngoại, những gương mặt thân yêu, những kỷ niệm thời con gái...Vâng, những cơn mơ tôi nghiệp. Và chúng tôi đã nương nhờ bằng những cơn mơ như thế. Chỉ tội nghiệp cho con tôi. Nó vẫn lớn lên, không tra tấn, than thở. Nó đi học một mình, trở về nhà một mình, không bạn bè lân láng. Tôi phải kê cả ba hòn gạch, để nó có thể đứng ở trên đấy, mở khoá cánh cửa lầu thuê. Nó chiến đấu cũng như ba nó chiến đấu. Sáng ngày Giáng Sinh, nó mừng rỡ khoe cùng chúng tôi, là ông Già Noel tài quá ba mẹ ơi, ổng biết cả chiếc xe tự động mà con thích... Niềm vui của nó là ngồi trước chiếc truyền hình đen trắng để nhìn những Tom hay Jerry... Nó chưa hề nghe được tiếng dế mèn vào mùa hè hay được thấy cánh diều trên đồng cỏ như tuổi thơ của tôi. Nó hẩm hiu cùng căn phòng, mà những cửa sổ trước và sau, tôi đã đóng cả đinh 15 phân như những hàng chông. Không bạn nhỏ, không nội ngoại, không cả bầu trời xanh và cao để nhìn con diều xanh đỏ, để mong gió mỗi lúc mỗi nổi lên. Không đám mây bàng bạc trong bài văn của Thanh Tịnh vào tuổi học trò xa xưa. Nó có mặt ở đấy, côi cút. Ðôi khi nó ngủ quên, quên cả nghe điện thoại thăm chừng của tôi làm tôi phải cuống cuồng bỏ học trở lại nhà mà lồng ngực như vỡ bùng trong xe bus. Trời ơi. Chúng tôi đã lén lút bỏ nó một mình bất hợp pháp. Học. Học có ích gì chứ. Ba cái chữ nghĩa, ông trạng, ông nghè có ích gì chứ. Rồi sau đó, ai lại đi mướn một tên học trò già? Tôi làm sao chen đua cùng tuổi trẻ. Tôi đã tự hỏi và yếu mềm để nghĩ đến một lần bỏ cuộc. Tôi tự biết chữ Anh chữ Mỹ của tôi. Tôi cũng tự hiểu về bộ não của tôi. Cái bán cầu đã bị đen đặc bởi bao nhiêu thảm kịch chập chùng. Không còn lấy một khoãnh nhỏ để in vào đấy chút kiến thức. Thêm cái tai bị bức màn nhỉ bởi sức nổ của quả lựu đạn năm xưa. Thêm đôi mắt yếu kém. Thêm cả cái cô đơn của một con ngựa mất hết đàn. Tôi nói với vợ tôi. Tôi không còn muốn chiến đấu nữa. Nhưng nàng vẫn tiếp tục khuyến khích tôi. Nàng vẫn tiếp tục mơ trong bóng tối của căn lầu thuê, thỉnh thoãng cữa bị phá tung và những dấu giày to tướng in đậm trên tấm drap trắng. Nàng tiếp tục bơm vào những điều tốt đẹp dù tôi càng lúc càng mệt lã bởi những kỳ thi, và cái job lau chùi nhà cửa buổi tối. Trong khi đó, con tôi mỗi ngày đến ngôi trường mà vách thành vẽ sơn chằng chịt, để học với tay thầy Ðại Hàn bệnh hoạn...Và cứ thế, hết năm này qua năm khác, hết nỗi chán nãn này tiếp đến nỗi chán nãn khác, cay đắng này đến nỗi cay đắng khác. Phải cay đắng lắm chứ. Cay đắng như những lần vào nhà vệ sinh phụ nữ, đặt cái xe đẩy chắn ở cửa ra vào và lục lạo từng chiếc băng vệ sinh. Cay đắng lắm chứ. Cay đắng như nỗi cô độc trùng trùng khi đứng đợi xe bus trong những đêm tuyết bão. Hay những cái nhìn đầy ngạo mạn, khinh bỉ từ những kẻ đồng hương. Dù vậy, bên cái thân phận hẩm hiu của kiếp đời tị nạn, vẫn còn có những tấm tình của những người trong cuộc. Họ cùng một xóm. Họ đã coi tôi như người họ nể trọng. Họ mang những giấy tờ nhờ tôi dịch nghĩa dùm Ðôi khi họ mang cả report card để khoe cùng tôi là con họ học giỏi. Anh Thư, em mới thưởng cho con em chiếc radio cassette. Tháng này, thầy phê toàn chữ đỏ không à.Em mừng quá. Tôi nhớ cô Vân hàng xóm đã có lần nói với tôi như thế. Nhưng khi nhìn vào tấm report, tôi thấy toàn điểm F. Tim tôi như quặn thắt. Tôi có nên nói với người mẹ tội nghiệp này về ý nghĩa của chữ F kia không. Ðấy xóm slum của tôi là thế. Ban đêm ít ai dám bén mãng ra đường. Cảnh sát cũng ít khi lai vãng. Những building bỏ hoang, những sân đầy cỏ dại và ụ rác. Chỉ có chăng là con đường ngoài phố chính dẫn lên city Hall là còn tương đối khang trang. Nó bị bỏ quên, và người ta đã tìm cách trốn nó như những người Do Thái trước đây. Chúng tôi, những người tị nạn đầu tiên, cũng vậy. Cũng tìm mọi cách bỏ nó mà thoát. Vài gia đình đã may mắn rời khu slum. Riêng gia đình tôi, phải mất đến bốn năm. Ơn Trên đã cho tôi tốt nghiệp với điểm khá cao, và được hãng AT&T bốc. Ngày từ giã xóm slum, vợ tôi thắp nhang khấn vái đất đai thổ thần để cảm tạ. Tôi lạy. Con tôi lạy. Ðất đai ở đâu cũng là đất đai, cũng dính kết vào trời, và lẫn quất những đôi mắt của những đấng quyền năng siêu hình, vợ tôi tin tưởng mãnh liệt như vậy. Nàng viện dẫn trường hợp tôi, một tay sinh viên già duy nhất được AT&T chọn trong hàng chục ứng viên tại trường. Anh phải tin anh à. Vâng, tôi tin lắm. Ngày cuối cùng ở xóm slum, tôi đã tháo gỡ tấm ván dày đóng đinh 15 phân ra cửa sổ, để nhìn được con đường Old York dưới màn tuyết trắng. Trên hàng dây điện, những con chim bồ câu đậu dài. Trời xám đục. Chiếc trolley chạy qua, bánh nghiến trên đường sắt. Như vậy, bốn năm cũng trôi qua. Ở đâu cũng có trời. Trong chiến tranh, trong tù tội, trên biển cả, và trong khu slum của vùng Logan này. Các ngài không bao giờ bỏ mình đâu. Lời an ủi của nàng, dù đúng hay không đúng, nhưng có một điều là cái slum này vẫn là nơi dung dưỡng tôi và gia đình trong những năm tháng đầu tiên. Chúng tôi vẫn bình an. Và chúng tôi vẫn đạt được niềm mơ ước.
Và niềm may mắn ấy vẫn còn tiếp tục sau khi chúng tôi rời khỏi Logan. Con tôi đậu đầu trung học. Nó được chọn vào chương trình 7 năm BS/MD. Ngày phỏng vấn, nó đã kể về những kinh nghiệm trong khu slum mà nó đã trãi qua. Những kinh nghiệm về những kẻ bất hạnh. Nó ước ao trở thành một bác sĩ tự nguyện về phục vụ tại những nơi nghèo khó thiếu thốn văn minh. Cám ơn Trời, nó không bao giờ nhắc đến những kỷ niệm cay đắng để mang theo lòng như cha nó. Rõ ràng tâm hồn tuổi trẻ thơm tho và trắng như tờ giấy. Không thù hận. Không bâng khuâng. Có lý tưởng. Và cả bầu nhiệt huyết. Tôi cầu mong tuổi trẻ của nó không bị vồ chụp bởi bầy diều hâu như thế hệ của tôi đã từng bị trước đây.
Trần Hoài Thư
6/11/96