vhnt, số 239
18 October 1996
Trong số này:
thư vhnt............................................Nguyễn Phước Nguyên
T h ơ :
1 - Ý tưởng về mùa thu ....................................Trương Chi
2 - thơ trẻ Saigon: Song Phạm ......................................NTD p/t
- Huyền thoại / Giọt trăng ..................................Song Phạm
3 - Nợ ban đầu ...................................................Cỏ May
4 - Em đến tự ngàn xưa ........................................Chung Lê
5 - Em nhỏ làm chi trời Walnut ............................Nguyễn Nam An
6 - Không đề .....................................................Trân Sa
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
7 - Giới thiệu sách báo mới phát hành ..........................TK21
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
8 - Tháng 10, tình IRC .........................................P T Nguyễn
9 - Gary Gildner: Cô gái lúc buồn ngủ .....................Y Cựu dịch
Mùa thu năm nay bắt đầu rất lạ.
Mưa tầm tã suốt những ngày qua như để bù đắp cho nỗi khô cằn của lòng đất hè hạn hán.
Thu bắt đầu với vầng trăng chớm tròn. Tròn như để đáp lời hẹn ước.
Một đêm nguyệt thực.
Vùng đen che dần mặt trăng đang lên. Âm thầm. Không đe dọa.
Nắm tay người bạn đời đi trong lung linh ánh sáng.
Nghe lòng êm ả. Và thanh thản.
Khi vùng đen che trọn vầng nguyệt, ánh sáng lung linh ửng màu cam huyền ảo.
Lại mưa.
Từng giọt nhỏ. Lác đác.
Ngẩng mặt lên.
Ðã lâu, lâu lắm rồi
không có dịp đón từng hạt mưa mát mặt.
Vậy mà đêm đó
Có mưa.
Có mây.
Có trăng. Vầng trăng tròn nguyệt thực.
Ði giữa trời mưa, mà nghe mùa thu đang đến.
Ði giữa chớm thu, mà thương quá vầng trăng.
Trăng xưa.
Trăng nay.
Cử đầu vọng minh nguyệt
Ðê đầu tư cố hương *
Lòng ơi, thương quá khúc thơ xưa ...
Nguyễn Phước Nguyên
(thay PCL kỳ này)
* Lý Bạch
Ý Tưởng Về Mùa Thu
Còn đâu đó dưới lòng sông
Một tiếng hát
Tiếng hát vô danh như chàng Trương
Một chuyện tình chỉ tưởng tượng có thật
Giữa mùa nước dâng
Ðêm hoang mang và rét lạnh
Mùa thu không vàng màu hoa qùy
Con vạc về bên kia núi
có ngậm theo những hạt sương?
Hãy bước chậm lên mùa thu
Một đêm
Nghe tiếng chân ai trượt ngã dưới con đồi
Kỷ niệm lăn xuống vực thẳm
Im lìm chết
Nghe
Những vì sao rơi qua kẽ tay
Rồi tan biến
Như giọt nước mắt của Mỵ Nương
Ðã xóa bôi tất cả
Trương Chi
tháng mười, 1996.
Huyền Thoại
Có chú giun tương tư vì sao
Nó rời khỏi chỗ đi tìm
rồi bị giày lên cát
Trong cơn hấp hối
nó lặng im
Nghe cát xoáy vào từng vết xéo oằn trên
lưng mình
Ở chỗ vĩnh hằng
nó với được vì sao
Nhưng vì sao sa xuống trần...
Ðọan kết của một câu chuyện huyễn
hoặc kể rằng
Có vì sao lạc
rơi xuống chỗ chú giun rời bỏ khi xưa ...
Giọt Trăng
Có giọt trăng vỡ
Rơi trên má ếch con
Ðêm thu trăng tròn
Không còn ai bắt đóm đêm
hái hoa loa kèn
thắp đèn lồng chơi với
Kể từ chị nhái bén theo chồng sang
đồng mới
Ếch ngôi cao giọng nỉ non
Ðêm thu
Trăng vẫn cứ tròn...
Song Phạm
(giải 3 thơ Bút Mới II - TT ngày 5/9/1996)
Nợ Ban Ðầu (*)
cho anh Ng.
Ðêm. Ngọn nến sắp tàn.
Thắp vầng trăng thay nến
Trăng hai mươi không tròn
chẳng khuyết.
Ðêm. Những chai rosé d'anjou tôi thích
nằm lăn lóc.
Màu rượu hồng như những môi hôn.
Môi hôn thật thà
Môi hôn gian trá
Trả nợ ban đầu ...
Ðêm. Ðiêu đứng hề tiếng hát Trương Chi
Anh không còn vẽ
anh lại hát
dưới vòng nôi mọc từng nấm mộ
dưới chân ngày...
Ừ, dưới chân ngày...
Tôi đang đổ tràn ly rượu cuối
Lên tấm toil anh, hề, trắng toát: tượng vềmột đóa hồng,
để tặng anh,
Paris một ngày cuối hạ
Anh,
Hoa hồng không biết nói
Cũng chẳng biết điêu toa
Ôi anh, Trương Chi của tôi
Và món nợ ban đầu ...
Ðêm. Tôi vẫn nhắc những lời thơ phù phiếm
Tôi vẫn kể về cuộc đời, phù phiếm
Tôi vẫn thở than những điều phù phiếm.
Tôi quên nói một điều không hề phù phiếm: tôi yêu anh.
Ðêm. Con tò vò xây tổ
Tổ đơn côi
Tôi vứt con tò vò
khoác áo tò vò, chui vào tổ ấy
Ồ, ở đó
Tôi đã tìm thấy tôi
của một tuổi thơ chưa hề bị ám sát...
CỏMay
(*) thơ Hoàng Cầm, "Và một dòng thơ trang trải nợ ban đầu"
Em đến tự ngàn xưa
Em mắt biếc xanh chiều hải đảo
Hai bàn tay đan mộng thương yêu
Cơn gió chướng trôi về phương Bắc
Ðể ngẩn ngơ một áng mây chiều
Em đã đến từ trong vĩnh cửu
Nhạc không gian xoa dịu sầu đau
Cây trúc nhỏ chìm sâu góc núi
Trổ hoa vàng líu ríu bên nhau
Em bước xuống tinh cầu lạnh giá
Áo dài tay biêng biếc trời xanh
Mở toang cửa đón chào nắng mới
Niềm ưu phiền thoáng chốc tan nhanh
Em xõa tóc hồn căng nhiệt đới
Máu về tim nhịp thở Ðông Dương
Trên đất cũ dài đêm tiền sử
Hồn xanh xao lạc chốn thiên đường
Chung Lê
em nhỏ làm chi trời Walnut
Em nhỏ làm chi trời Walnut
Tủm tỉm miệng cười, gió nổi đời sau
Tay xé nát bài tình thơ thứ sáu
Có còn vui buồn chắp nối chân nhau
Em nhỏ làm chi rầu rầu tìm phương đó
Ngủ đậu cành xanh hồn ngại gió cuốn xa
Vội vã trưa tìm nhét phong thư tình lạ
Anh chưa bỏ đời sao em nhỏ, âu lo
Em nhỏ làm chi hồn đôi phương, đứng ngó
Chút gì mong manh tiếng gọi nhỏ đầu dây
Thấp giọng lời thương, tìm khắp đường một bữa
Chỉ còn nửa đời anh gởi lại đây
Em nhỏ làm chi mà mây giăng đầu núi
Hay đang buồn tưởng anh bỏ đi xa ...
Nguyễn Nam An
Không đề
Con chim
đứng mổ
con trùng
Vô âm tiếng thét
hãi hùng
giữa trưa
Vệ đường
Nửa xác nằm khô,
Nửa chôn trong bụng chim
chờ hóa thân
Tiếng chim
chẻ giọng vị âm
Nửa vô tâm,
Nửa tận cùng bi thương
Trân Sa
GIỚI THIỆU SÁCH BÁO MỚI PHÁT HÀNH
Tạng Thư Sống Chết
biên khảo của Sogyal Rinpoche, Trí Hải dịch sang Việt ngữ, Thanh Văn xuất bản 1996, 435 trang, giá US$18.00. Không ghi địa chỉ liên lạc.
Tạng Thư Sống Chết có nghĩa là một cuốn sách của Tây Tạng (phản ảnh các quan niệm của Phật giáo Tây Tạng) về vấn đề Sống và Chết. Tác giả, Sogyal Rinpoche, là người đã sinh ra và trưởng thành trong truyền thống Tây Tạng, đã thụ giáo một vài vị lạt ma tên tuổi nhất của Tây Tạng, đồng thời cũng được hấp thụ một nền giáo dục tân tiến, đã sống và giảng dạy nhiều năm ở Tây phương, và đã quen thuộc với lề lối tư duy của người phương tây.
Đối với đa số chúng ta, chết là cái phải tới, nhưng khi nó chưa tới, nhất là khi nó có vẻ còn xa, thì ta không có vấn đề gì phải nói tới nó cả. Ai cũng sợ cái chết, coi nó là một loại kẻ thù, phải luôn luôn làm mọi động tác che chắn để mình khỏi chết. Bản năng sinh tồn dạy ta phải làm như vậy. Nhưng sự minh triết không dừng ở trình độ bản năng mà nhìn thẳng vào cái chết, tìm hiểu bản chất của nó xem nó đóng "vai trò" gì trong đời sống con người bây giờ và mai sau. Các tôn giáo lớn đều cho rằng chết không phải là hết, chết chỉ là một biến cố chuyển đời sống hiện tại của chúng ta qua một trạng thái khác. Cho nên con người phải biết cách đón nhận biến cố ấy để cuộc viễn du sau đó được xuôi chèo mát mái.
Cuốn Tạng Thư Sống Chết là một thiên khảo cứu công phu về cái chết theo quan niệm Phật giáo Tây Tạng, với một cái nhìn rất hiện đại. Nếu ta chết một cách u mê, chưa chắc ta đã hiểu đầy đủ về cái chết (cũng như sống một cách u mê thì không hiểu rõ về sự sống), nhưng nếu chúng ta đọc cuốn sách này thì ta sẽ hiểu rất rõ về cái chết, bất luận chúng ta theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Và sẽ thấy rằng dù chúng ta rất quý sự sống, nhưng chúng ta không sợ cái chết, không những thế, còn biết cách đón nhận nó một cách thanh bình.
Về phương diện chuyển ngữ, đây là một bản dịch xuất sắc, vừa tài hoa, văn chương, vừa diễn đạt được các ý niệm triết học và tôn giáo một cách dễ dàng và trong sáng. điều đó có thể hiểu được, vì Trí Hải chính là đạo hiệu của Phùng Khánh, người đã cùng Phùng Thăng dịch cuốn Câu Chuyện Của Dòng Sông nổi tiếng ở Sài Gòn khoảng ba mươi năm về trước.
Thơ, v.v... và v.v...
biên khảo của Nguyễn Hưng Quốc, Văn Nghệ xuất bản 1996, bìa của Khánh Trường, dày 294 trang, giá 16 mỹ kim. Liên lạc: NXB Văn Nghệ.
Nguyễn Hưng Quốc là một tay cự phách viết về thơ, ở ngoài cũng như ở trong nước Việt Nam. Sau những cuốn trước, cũng do Văn Nghệ xuất bản, cuốn sách mới này cho thấy một Nguyễn Hưng Quốc già dặn hơn, uyên bác hơn, và cũng mới mẻ hơn. Những tác phẩm đầu của Nguyễn Hưng Quốc viết về thơ dựa trên cảm quan và lối phân tích văn chương quen thuộc. Trong cuốn sách mới này Nguyễn Hưng Quốc đã vượt ra khỏi lề thói quen thuộc của ông, mở thêm các cánh cửa lý thuyết văn học, thẩm mỹ, thi học, và lý thuyết mới về ngôn ngữ.
Đó là kết quả của những năm tìm tòi và tham bác trong phạm vi nghề nghiệp mới của ông, tại một đại học ở Úc Châu. Cũng như Nguyễn Phan Cảnh, Thụy Khuê và đặng Tiến, ông đã giới thiệu với độc giả đọc tiếng Việt các lý thuyết nổi tiếng trong thế kỷ này về ngữ học và phê bình văn học. Sau các công trình mở đường của các tác giả trên, việc thưởng thức và phê bình thơ của người Việt Nam sẽ phải khác trước.
Nguyễn Hưng Quốc vẫn tỏa ra phong độ cũ, quen thuộc đối với những người đã đọc ông từ mươi năm nay. Đó là lối văn phân tích thông minh, tinh tế và có khi nghịch ngợm. Độc giả sẽ thích thú nghe ông biện luận "Bài Thơ Con Cóc hay ở chỗ nào?" Nếu cuốn sách này lấy câu hỏi đó đặt tên thì cũng thích hợp. Để trả lời câu hỏi đó, tác giả đưa tới các câu hỏi căn bản khác trong diễn trình chuyển hóa của thơ cũng như việc thưởng ngoạn, phê bình thơ, mà Nguyễn Hưng Quốc gọi là Vận động của thơ - Vận động chỉ có nghĩa là thay đổi, khác với Tiến bộ, hay Phát triển.
Tác giả đã chủ tâm phá vỡ một số huyền thoại về thơ, "những huyền thoại làm chúng ta nhận diện sai bản chất của thơ, và ít nhiều làm tê liệt năng lực sáng tác cũng như cảm thọ của chúng ta." (ÐQT)
Con Ðường Yêu Thương - Mẹ Têrêsa
biên khảo của Hoàng Quý, Phụng Sự xuất bản 1996, 213 trang, giá US$10.00. Liên lạc: Phụng Sự, P.O . Box 2054 F18, Westminster, CA 92684.
Đây là một cuốn sách tác giả viết về Mẹ Têrêsa, đúc kết từ nhiều nguồn tài liệu khác nhau, mà chính yếu là cuốn "A Simple Path" (Lối đường Giản Dị) của Lucinda Vardey, do nhà Ballantine Books tại New York xuất bản. Mẹ Têrêsa là một nữ tu đạo Công Giáo nổi tiếng thế giới về cuộc đời xả thân cho người nghèo khó tại Ấn độ, một biểu tượng sống động về đức tin và sự thánh thiện. Trong phần giới thiệu, Linh Mục Hồng Phúc đã cho rằng mỗi thời gian có những lối sống Phúc Âm mới, và Mẹ Têrêsa chính là hình ảnh sống Phúc Âm đích thực của thời đại chúng ta. đó là một con người "vừa huyền bí vừa thực tiễn, vừa kinh bang tế thế vừa tu trì khổ hạnh."
Tác giả Hoàng Quý đã làm một việc rất có ý nghĩa khi đọc tài liệu rồi chọn lựa và giới thiệu các trích đoạn phù hợp với các đề mục nói lên những chặn đường tu giản dị của Mẹ Têrêsa: Thinh lặng, Cầu nguyện, Tin tưởng, Yêu thương, Phục vụ, và An bình. Tấm gương của một kẻ chân tu bao giờ cũng mang lại một ảnh hưởng tích cực cho con người nói chung. Các gương sáng ấy ngày càng cần thiết cho trái đất của chúng ta, trong đó sự đấu tranh giữa cái thiện và cái ác vẫn luôn luôn ở trong một trạng thái căng thẳng không nguôi.
Hồi Ký đức Giáo Hoàng John Paul II
nguyên tác của Tad Szulc, Duy Nguyên dịch sang Việt ngữ, Hoàng Quý hiệu đính, Thế Giới xuất bản, 540 trang, giá US$26.00. Liên lạc: 2471 Alvin Avenue, San Jose, CA 95121, USA.
Chúng ta thường gọi hồi ký là câu chuyện đời của một người do chính người đó viết, hoặc có khi do người đó kể lại cho một người khác viết hộ mình. Hai đặc tính của định nghĩa thông thường ấy không đúng với cuốn sách được dịch là Hồi Ký đức Giáo Hoàng John Paul II này. Đúng ra phải gọi đây là một cuốn tiểu sử, theo như tên của nó trong nguyên bản tiếng Anh của Tad Szulc, Pope John Paul II: The Biography.
Cuốn sách này là một công trình biên khảo đồ sộ của một cựu thông tín viên tờ The New York Times, ông Tad Szulc. Tác giả đã tiến hành một công cuộc nghiên cứu công phu và sâu sắc dựa trên rất nhiều nguồn tài liệu và các cuộc phỏng vấn tại Vatican, Ba Lan, Hoa Kỳ và tại cả chục quốc gia khác. Hơn một cuốn tiểu sử thuần túy, cuốn sách này đã đề cập đến mọi diễn biến quan trọng trên thế giới, cả lãnh vực tôn giáo lẫn chính trị, trong hậu bán thế kỷ này: từ bối cảnh quê hương Ba Lan của vị Giáo Hoàng tương lai cho tới những bí mật về cuộc bầu cử giáo hoàng, những vận động cho Ba Lan thoát chế độ cộng sản và từ đó lôi kéo đế quốc cộng sản Liên Xô và đông Âu sụp đổ hoàn toàn.
Một cuốn sách chứa đựng vô số tài liệu quý giá liên quan đến các biến cố lớn lao của thế giới chúng ta đang sống, và quan trọng hơn, cho người đọc biết rõ hình ảnh một bậc vĩ nhân của thời đại này.
Người Chị
tập truyện của Trần Long Hồ, Minh Văn xuất bản, 181 trang, giá US$11.00, ngoài Hoa Kỳ $13.00. Liên lạc: 1808 Graham Road, Falls Church, VA 22042, USA.
Truyện Người Chị, được lấy tên làm đầu đề cuốn sách, là một đề tài lạ, nối kết xưa và nay. Chuyện kể một phong tục của Việt Nam thời phong kiến, người vợ đứng ra cưới nàng hầu cho chồng, khi nàng hầu sinh con thì con phải gọi vợ lớn bằng mẹ, và gọi mẹ mình bằng chị. Chuyện ấy đã thuộc một thời quá vãng khá xa xưa, bây giờ không còn mấy ai nhắc đến. Nhưng Trần Long Hồ nhắc đến, vì cái đuôi của câu chuyện xưa ấy còn kéo đến ngày nay, qua tận đất Hoa Kỳ. Hai ông già, một người con nàng hầu, một người con vợ chính, xa nhau mấy mươi năm vì ở hai miền Nam Bắc, cuối cùng tìm ra nhau tại Mỹ, khiến cho cái thảm kịch tưởng đã lãng quên chợt sống dậy với tất cả màu sắc sống động của nó.
Trừ truyện Người Chị nghiêng hẳn về quá khứ xa và hiện tại chỉ là cái cớ, những truyện khác phần nhiều nhằm nêu những vấn đề của ngày hôm nay, như chuyện gửi tiền về Việt Nam trợ giúp thân nhân (Còn Có Bao Ngày, Thằng Bất Hiếu), chuyện hội nhập khó khăn của người lớn tuổi vào xã hội định cư mới (Một Chốn An Lành)... Nhưng hai truyện Vết Sẹo và Vết Sẹo 2 mang một chủ đề khác hẳn: đó là những vết sẹo cụ thể trên thân thể của một cán bộ ngoài Bắc vào Nam và một binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa cũ, do cuộc chiến đã qua mang lại, nhưng mà lại điển hình cho sự thương tổn tâm thần của người thuộc cả hai phe sau khi cuộc chiến đã tàn.
Qua nhiều tác phẩm đã xuất bản và qua Người Chị, Trần Long Hồ chứng tỏ là một người cầm bút bám sát với cuộc sống của người Việt Nam sau 1975 trong nước cũng như ngoài nước, quan sát, thể hiện những vấn đề gai góc của nó. Với con mắt của một nhà văn và của một người thầy thuốc đầy trách nhiệm, ông thấy được nhiều chuyện, nhiều chi tiết khuất lấp trong cuộc sống cũng như trong con người. Văn ông giản dị nhưng chuyên chở sâu, khiến người đọc dễ bị lôi cuốn, nhưng khi buông sách thì thường thở dài, ngẫm nghĩ.
Theo Dấu Chân Chim
thơ của Nguyễn Lý Tưởng, Hội Nhà Thơ Tài Tử Việt Nam xuất bản, 203 trang, không ghi giá bán. Liên lạc: Nguyễn Lý Tưởng, 9931 Central Ave. #46, Garden Grove, CA 92644, USA.
Tác giả, Nguyễn Lý Tưởng, cựu sinh viên viện Hán học Huế, tốt nghiệp đại học Sư phạm, cựu Dân biểu VNCH, hai lần ở tù trong chế độ Cộng sản tổng cộng 14 năm, đến Mỹ năm 1994. Hơn 90 bài thơ trong quyển thơ của ông cho thấy ông làm thơ từ những năm cuối thập niên 50, và tiếp tục làm đều đặn, kể cả thời gian ở trong tù. Thơ ông lời và tứ không mới, ít vẻ tài hoa, nhưng giọng chân thật rất gần gũi với ca dao. Ông có một đức tin vững chắc, tình cảm của ông đối với cuộc sống rất đằm thắm, ông cảm hứng với từng sự việc, con người, cảnh vật cụ thể và biểu lộ ra thơ. đặc biệt các bài thơ khóc bạn của ông thiết tha, chân thành, nhuốm màu cổ điển.
Đời sống trong tù đem lại cho tác giả những tâm trạng và ước mơ đơn giản đến lạ lùng:
Cho tôi nghe tiếng sấm,
Giữa mùa Xuân cấy cày.
Cho tôi mưa mùa Hạ,
Ngập tràn trên cỏ cây.
Cho tôi vừng trăng tỏ,
Khi mùa thu mây bay.
Cho tôi ánh nắng hồng
Giữa mùa đông heo may.
Ông còn làm thơ chữ Hán, một điều khá hiếm hoi giữa những người cùng thế hệ với ông. Có thể âm hưởng của Hán văn (và cả niềm tin tôn giáo nữa) đã góp phần làm thơ ông chững chạc và nhiều màu sắc cổ điển.
Nắng Qua Phố Cũ
truyện dài của Nguyễn Ngọc Ngạn, tranh bìa Nguyễn Thị Hợp, trình bày Nguyễn đồng, Văn Khoa xuất bản 1996. Dày 460 trang, giá 18 Mỹ kim. Liên lạc: Văn Khoa, 9200 Bolsa Ave., #123, Westminster CA 92683.
Nguyễn Ngọc Ngạn viết khỏe, nhưng vài năm gần đây ông đi vào ngành nghệ thuật trình diễn nên ít có sách mới xuất bản. Cuốn Nắng Qua Phố Cũ là một "trở về" của cây bút ăn khách nhất hải ngoại hiện nay. Truyện của ông thường là hư cấu dựa trên nhiều cảnh sống thực, đôi khi những tình huống, hoặc ngay cả nhân vật, trong truyện của ông là những "việc thật người thật" như trong một bản tin báo chí.
Ông chịu ảnh hưởng sâu đậm của Vũ Trọng Phụng trong lối chọn đề tài cũng như văn phong, bút pháp. "Nắng Qua Phố Cũ" cũng nằm trong dòng văn phóng sự này, chỉ có cái tựa nghe không "nổ" như những cuốn trước (chẳng hạn "Nước đục," "Sau Lần Cửa Khép"...).
Trong "Nắng Qua Phố Cũ," có hai chủ đề: một là tệ nạn "mua" hoặc "thuê" con lai ở Việt Nam để được đi Mỹ định cư, và hai là đời sống của giới nghệ sĩ trình diễn Việt Nam ở Mỹ.
Nguyễn Ngọc Ngạn vốn là thuyền nhân nên ông không xa lạ với cảnh sống của đồng bào ở trại tạm cư đông Nam Á, nhưng những mảnh đời con lai ở đảo Batàan ông viết ra từ trí tưởng, nên nhìn chung có hơi khuôn sáo. đọc ông, người ta có cảm tưởng tất cả những trường hợp đi Mỹ theo diện con lai đều là những gian trá, lừa đảo...
Ngược lại, trong chủ đề mô tả đời sống của những nghệ sĩ trình diễn, ông tỏ ra nắm vững các chi tiết hiện thực, tuy không sâu sắc về mặt tâm lý nhân vật. Trong số các nhân vật của "Nắng Qua Phố Cũ," dường như chỉ có Hảo là sống động, vì diễn biến tình cảm thuận lý; còn lại đều rơi vào những khuôn mẫu do tác giả nhào nặn gượng ép -- cả hai mối tình, Hậu và Trác, Hiên và Khắc, đều... thiếu chuẩn bị, khiến độc giả không thấy một chút xao xuyến nào trước khúc quanh của câu chuyện và trước cái kết lửng lơ "ba người ra đi khi trời vừa sáng"! (LTC)
(Trích TK21 số 88)
Tháng 10, tình IRC
(kỳ 1)
Có lẽ chỉ có mình hắn là người duy nhất trên cái hành tinh này ghét cay ghét đắng Internet. Nói cho đúng, lúc đầu hắn cũng thích xử dụng Internet lắm chứ, nhưng rồi một biến cố xảy ra làm cho hắn buồn đời, mà caí biến cố đó lại bắt nguồn từ Internet, nên hắn đâm ra ghét lây cái hệ thống Internet toàn cầu này.
Hắn nghĩ phải chi không có cái hệ thống quỷ quái này, có lẽ hắn đang có những ngày an vui, bình thản như bao nhiêu người khác. Hay phải chi hắn không bày đặt bắc chước người ta đi học đại học, để được làm quen với sự tiến bộ của kỹ thuật, mà lo đi cày như những người đặt chân lên xứ Mỹ muộn màng, thì chắc hắn cũng không có đến nỗi như vậy.
Mọi sự cũng bắt đầu vào tháng 10, cách đây 2 năm, khi hắn còn đang mài đũng quần trên ghế nhà trường. Hai năm đầu, hắn học hành cũng không đến nỗi tệ. Hắn học về CS nên tối ngày cứ ở trong lab làm bài, không thì về nhà ngủ cho bù lại những đêm thức thâu đêm suốt sáng đánh vật với mấy con bugs.
Vào một ngày gần lễ Halloween, hắn đang ở trong phòng lab làm bài.
Một thằng quỷ sứ ngồi kế bên cứ nằng nằng đòi chỉ cho hắn làm thế nào leo lên net nói chuyện với bà con vòng quanh thế giới. Thằng bạn của hắn hỏi:
"Heh man, mày có biết chơi IRC không?"
Hắn càu nhàu:
"See cái mốc xì, bug cả đống , kiếm hoài không ra, tao đang bực mình đây".
Thằng quỷ sứ lại nói:
"Well, thì take a break đi, để tao chỉ cho mày chơi cái này cho vui, biết đâu tí nữa mày kiếm ra mấy cái bugs đó"
Nhân đang bực mình vì cái bugs quỷ quái, hắn cũng ử hử coi IRC là cái gì. Thế rồi thằng bạn hắn chỉ cho hắn làm thế nào mà chạy vô IRC, rồi cái channel nào là của dân Viet nam... Sau này nghĩ lại, hắn không biết hắn nên cám ơn thằng bạn hay là nguyền rủa nó. Có lẽ cả 2 vì nhờ đó mà hắn đã có được một thời gian tuyệt đẹp trong đời mà cũng tại vậy mà hắn đã và đang buồn đới.
Ngay trong cái tuần hắn tập cái "thói hư tật xấu" IRC, hắn đã gặp nàng. Vâng, hắn gặp một người mà hắn không thể ngờ là hắn đã đau khổ trong suốt gần 2 năm qua. Kể cũng lạ, hắn nói chuyện với biết bao nhiêu người, cả trai lẫn gái mà có sao đâu. Chả có tí cảm giác chi cả, cứ như nói chuyện với robot vậy, bên này hỏi bên kia trả lời, bên kia hỏi bên này trả lời. Nhưng khi nói chuyện với nàng, hắn có một cảm giác rất là kỳ lạ, giống như gặp lại một người bạn lâu năm sau bao nhiêu năm không gặp. Nàng đã "message" hắn trước vì cái "nick name" hắn dùng nghe như con gái, nên có lẽ nàng tưởng hắn là con gái. Mà cái tê n hắn cũng giống con gái thật, nếu không có dấu, và viết theo lối Mỹ thì ai mà biết hắn là đực rựa. Tuy vậy hắn cũng nói thật hắn là con trai và tự giới thiệu với nàng. Chỉ có thế thôi, 2 bên nói qua nói lại vài lời rồi mạnh ai nấy đi. Vài ngày sau, hắn lại gặp nàng nữa, lần này 2 người nói chuyện với nhau lâu hơn. Hắn và nàng chỉ "message" cho nhau, không thèm nói với ai cả. Thôi thì bao nhiêu chuyện, từ chuyện trường học, chuyện gia đình, chuyện bạn bè mang ra kể cho nhau nghe ráo trọi. Lúc đó hắn mới biết nàng đang ở một tiểu bang miền Bắc tuyết trắng, học M.Ạ ngành Tâm lý học. Hắn có vẻ khớp vì tuổi thì hắn lớn hơn nhưng học thì lại thua xa, hắn chưa có cái BS nữa thì làm sao mà dám hó hé với nàng. Tuy nhiên, hình như nàng không có "ke" cái vấn đề đó và lại nói chuyện với hắn thâ n mật và tương đắc hơn. Ðiều này càng làm hắn ngạc nhiên, khâm phục và từ từ đi tới chỗ ái mộ nàng. Con gái như vậy ở cái xứ nam thừa nữ thiếu này đâu có phải là dễ kiếm. Hắn đã gặp biết bao nhiêu cô trong trường, nhan sắc thuộc loại trung bình mà mặt thì lúc nào cũng hất lên trời, giống như cái cổ bị tật, không thể cuối xuống.
Thế rồi ngày qua ngày, tình bạn của hắn và nàng được bồi đắp theo với những lâ `n nói chuyện trên Net tăng lên. Hắn cảm thấy Internet sao mà tiện lợi và hữu dụng quá. Hắn leo lên Net hầu như mỗi ngày. Hắn trở nên một chuyên gia về ngành "IRC". Hắn biết tất cả những chat server nào ít bị kẹt để có thể xử dụng hầu cuộc nói chuyện hằng ngày giữa hắn và nàng không bị gián đoạn. Hắn và nàng hẹn nhau giờđể lên net. Ngoài ra, email gởi cho nhau thì cứ gọi là thiếu điều cái mail server bị nghẹt. Biết hắn có mặc cảm lớn tuổI còn đi học, nàng lúc nào cũng động viên nâng đỡ tinh thần của hắn. Nàng làm cho hắn không còn cảm thấy chán nản việc học nữa. Nàng luôn luôn sửa cho hắn mỗi khi hắn nói sai English. Mới đầu còn tự ái, nhưng rồi thì cũng quen.
Kể ra cũng tốt, nàng ở đây từ hồi 4 tuổi, tiếng Việt cũng giỏi, cho nên sửa sai cho hắn thì chính xác quá chứ còn chê gì nữa. Tình yêu đến với hắn và nàng không biết từ lúc nào, có lẽ qua những lúc nói chuyện vói nhau trên net hay những khi hắn gởi email bài văn nhờ nàng coi lại dùm rồi gởi lại, nhưng khi hắn đánh bạo t hố lộ là hắn yêu nàng, nàng chỉ cười và "message" lại:
"I l u 2".
Thật là buồn cười vì hắn đã thương một người mà chưa một lần biết mặt, chưa một lần nghe giọng nói. Hắn nói cho thằng bạn thân nghe, hắn chỉ nói:
"Xì, tình yêu IRC, 3 bảy 21 ngày ."
Hắn cũng phân vân vì mặc dầu hắn biết hắn rất là thương nàng thật lòng, không phải "3 bảy 21" như cái thằng bạn hắn đã phán, nhưng hắn lo không biết là nàng có thật lòng hay không. Nhất là sau khi 2 người hẹn gởi hình cho nhau, hắn càng lo lắng ghê gớm.
Hắn tự biết là mình không có tên trong hạng đẹp trai, lại ốm, may mà hắn cao 1m79 không thì có cho vàng, hắn cũng không dám gởi hình cho nàng. Bỏ cái phong bì vào thùng thơ rồi, hắn mới cảm thấy lo lắng. Không có cái tâm trạng nào khó chịu hơn là lo lắng và chờ đợi. Hắn lo là không biết cái gì sẽ xảy ra khi nàng coi hình hắn v à hắn chờ coi hình của nàng và một cái email của nàng "goodbye" với hắn. Ðối với hắn, nhan sắc của nàng có như thế nào cũng không sao tại vì hắn có tư cách gì mà lựa chọn chứ. Qua được vài năm, trong tay chưa có gì, lại xí trai, có người thương thì đúng là phước đức ông bà 3 đời để lại rôì. Ba ngày sau, hắn nhận được phong bì của nàng. Ngắm nhìn nét chữ xinh xắn của nàng bên ngoài một lát để hình dung ra khuôn mặt nàng, hắn xé cái phong bì ra. Ối trời, lạy Chúa tôi, lạy Ðức Phật, lạy Thánh Ala, sao mà nàng.... xinh quá. Tấm hình chụp nàng ngồi trên một cái băng ghế trong một cái mall nào đó. Quần áo đơn giản càng làm nổi bật khuôn mặt xinh xắn của nàng. Nàng càng xinh bao nhiêu, hắn càng buồn và thất vọng bấy nhiêu. Ðiệu này thì hình hắn nàng mang đi "lộng kiếng" là cái chắc. Người đẹp như vậy con trai xếp hàng cả cây số, còn lâu đến hắn. Hắn quá thất vọng, bỏ luôn những cuộc nói chuyện mà hắn và nàng vẫn hẹn nhau hàng ngày vì hắn nghĩ nàng sẽ chẳng bao giờ lên hay có lên cũng tránh hắn. Thôi thì hắn rút lui trước cho rồi.
Một tuần lễ liền, hắn không bước chân vào cái thế giới IRC và ráng cắm đầu vô mấy cái homework. Nhưng càng cố gắng quên thì hình ảnh nàng càng hiện ra, nhất là hắn đã biết mặt nàng nên cái hình đó hiện ra càng hiện thực hơn. Chịu không nổi, hắn quyết định gặp nàng một lần để nói cho đâu ra đó cho hắn phải tâm phục và khẩu phục luôn. Thật là bất ngờ, sau một tuần, hắn có bao nhiêu là emails của nàng. Hầu hết là nàng lo lắng sao không thấy hắn lên, nàng sợ hắn bịnh hay là bị tai nạn gì đó mà mất đâu cả tuần. Tuyệt nhiên không thấy nàng nhắc đến tấm hình của hắn. Có lẽ nàng muốn nói thẳng với hắn hơn là nói trên email. Cũng chẳng sao, hắn cũng muốn nói với nàng một lần cuối để đâu vô đó không thì hắn không thể tập trung vào bài vở được.
Gặp hắn trên net, nàng lo lắng hỏi thăm hắn có bị gì cả tuần không mà sao không lên net, làm nàng đợi hằng ngày. Hắn chưa nói chi thì nàng cho hắn biết một tin động trời là 2 tuần nữa, nàng sẽ bay qua thăm hắn. Trời đất, đúng là tin động trờị Hắn không tin vào mắt mình, hỏi nàng lại:
"Bé (hắn vẫn kêu nàng là bé vì hắn lớn hơn và nàng cũng thích vậy) qua thăm bà con huh?"
"Không, bé qua thăm anh, bé không có bà con bên đó. Nếu phiền anh thì thôi, bé không đi nữa", nàng đáp.
Ối trời, hắn mừng còn hơn được trúng số (có lẽ vậy vì hắn có trúng số bao giờ đâu mà biết) chứ còn phiền cái gì nữa.
Hắn quên cả hỏi về tấm hình của mình. Nàng xin hắn số phone để tối gọi vì nàng phải đi mua vé máy bay đang on sale. Trời ơi, tối nay, hắn sẽ được nghe giọng nói của nàng nữa. Có lẽ cuộc đời của hắn không còn gì là sung sướng hơn vậy nữa. Khác với mọi ngày, đóng đô trong phòng lab tới khuya, bữa đó hắn về sớm, tạt qua mua đại cái hamburger và về nhà ăn đợi điện thoại. Cái phone cứ nằm im ru bà rù, chả chịu kêu lên cho hắn làm hắn càng đợi càng bồn chồn. Sau cùng rôì nó cũng kêu vang. Không để cho cái phone kêu tới lần thứ 2, hắn đã nhấc điện thoại lên. Ðầu bên kia, một giọng nói nhẹ nhàng, thánh thót vang lên, tuy rằng cách phát âm tiếng Việt không rõ lắm. Ðúng là người sao, giọng vậy. Giọng của nàng cũng đẹp như nàng, hắn nghe mà người cứ đờ cả ra, không đáp lại được câu nào. Nàng báo cho hắn biết là nàng đã mua được vé và nàng sẽ có mặt tại đó sau khi finals chấm dứt. Vậy càng tốt, lúc đó hắn cũng đã thi xong, có thời gian đi chơi với nàng. Từ đó, tối nào hắn và nàng cũng nói chuyện trên điện thoại.
Nói chuyện trên điện thoại thì vui và có cảm giác hơn nói trên net thiệt nhưng mà hắn vừa nói vừa thầm lo cái phone bill. Không biết bao nhiêu nhưng mà ngày nào cũng trung bình 2, 3 tiếng thì chắc kỳ này hắn phải ăn mỳ gói trường kỳ rồi. Nhưng mà làm sao mở miệng nói nàng kêu cho hắn. Thực ra nàng cũng nói để nàng "share" cái hóa đơn với hắn nhưng mà hắn là con trai mà, nhất là con trai Việt nam, có thằng nào mà để cho con gái bỏ tiền ra. Cho nên hắn chỉ cười mà nói với nàng:
"Bé đừng lo, anh take care cái bill được mà, chuyện nhỏ."
Ba tuần lễ sao mà dài và lâu đến như vậy. Hắn đếm từng ngày, từng ngày, mong cái ngày nàng đến. Khi 2 người gặp nhau tại phi trường, hắn tự nhiên lúng túng, không biết làm cái gì. Nàng giống y như trong hình, chỉ có điều hơi thấp hơn tí. Nàng là người đầu tiên nói trước. Thật là kỳ, ở trên net hay ở trong điện thoại, hắn nói với nàng như là con két, nói liên cùng kỳ tận không dứt mà sao bây giờ không nặn ra được một chữ. May mà nàng biết hắn đang lúng túng, cứ bắt chuyện trước và hắn đáp lại nên cuộc đối thoại giữa 2 người từ từ trở nê n thân mật hơn.
Một tuần lễ đó, phải nói là thời gian đẹp nhất trong đời hắn. Hắn đưa nàng đi chơi khắp nơi. Ban ngày thì đi những khu giải trí, chiều thì ra biển ngắm mặt trời lặn, tối thì nắm tay nhau thả bộ trên những con đường vắng vẻ quanh trường nhìn lá vàng rụng (lúc đó gần Xmas nên lá rụng ghê lắm).
Rồi thì cái gì sẽ đến đã đến, ngày đưa nàng ra phi trường để đi về, 2 người không nói một lời nào. Mắt nàng đỏ hoe, nước mắt đọng sẵn 2 bên mi, chỉ chờ hắn nói tạm biệt là rớt xuống. Mà hắn nói được gì cơ chứ, mắt hắn cũng thấy cay cay, miệng thì cứng đờ ra, chẳng biết nói gì. Một tuần lễ sao mà mau quá, hắn giống như sống trong mơ và bây giờ giật mình tỉnh dậy thấy mọi thứ biến đâu mất. Phải mà, nàng cũng sắp biến mất rồi và không biết chừng nào hắn mới có thể gặp lại nàng. Gã và nàng cứ im lặng cho đến khi nàng chuẩn bị vào máy bay. Hai người nhìn nhau không nói một lời nào. Hắn không muốn nhìn thấy nàng khóc vì hắn sẽ khóc theo. Hắn lấy hê 't can đảm, hôn nhẹ vào má nàng và nói:
"Thôi bé vô đi, không trễ, hy vọng mình sẽ gặp nhau nữa nha." Và hắn quay đâù lại bước đi ngay, không dám nhìn lại. Ði một quãng quay lại, hắn thấy nàng vẫn đứng nhìn theo hắn, và đang chùi nước mắt. Hắn càng bước nhanh hơn. Hắn sợ nhất trong đời là đi tiễn ai đi đâu xa, nhất lại là tiễn người mình thương, không biết bao giờ mới gặp lại.
P T Nguyễn
(còn tiếp kỳ sau)
Cô Gái Lúc Buồn Ngủ
Gary Gildner
Sleepy Time Gal (Cô Gái Lúc Buồn Ngủ) của Gary Gildner, in trong The Crush, do Echo Press xuất bản năm 1983. In lại trong tuyển tập nhiều tác giả Suđen Fiction, do Robert Shapard và James Thomas tuyển chọn; Peregrine Smith Books, Salt Lake City, xuất bản năm 1986.
Trong một thị trấn nhỏ phía bắc Michigan nơi ba tôi sống hồi còn thanh niên, ông có một người bạn Ý làm việc trong nhà hàng. Tôi sẽ gọi bạn ông là Phil. Việc của Phil làm trong nhà hàng cũng thông thường như bạn biết - từ pha cà phê buổi sáng đến quét dọn buổi tối. Nhưng điều đặc biệt về Phil là tài chơi dương cầm của ông. Vào tối thứ bẩy, ba tôi và Phil và các bạn gái sẽ lái xe mười hay mười lăm dặm tới một quán bên đường cạnh hồ để uống bia và khiêu vũ, và Phil sẽ chơi trên một cây dương cầm cũ kỹ. Ba tôi nói Phil có thể chơi bất cứ bài nào bạn nói tên, nhưng bài hát mọi người đều chờ đợi là bài Phil viết, và ông luôn luôn chơi vào lúc cuối, trước khi họ trở về lại thị trấn. Và dĩ nhiên mọi người biết ông viết bài hát cho cô bạn gái của mình, vừa đẹp vừa giầu. Cha cô là chủ nhà băng trong thị trấn, một ông già khó tính người Ðức, và ông không thích Phil đi chơi với con gái ông.
Ba tôi ít kể chuyện, và khi ông kể, ông không chuẩn bị trước và hay nhấn mạnh về cuộc khủng hoảng kinh tế và sự thiếu thốn, thay vì nhắc đến những chỗ quan trọng. Tôi sẽ cố kể như ông đã kể nếu được.
Thế thì họ đến quán bên đường cạnh hồ, và cuối cùng Phil sẽ chơi bài hát của anh, và mọi người sẽ nói: Phil, bài hát hay lắm, mày có thể kiếm được cả đống tiền nhờ nó. Nhưng Phil chỉ lắc đầu, mỉm cười và nhìn cô bạn mình. Tôi phải cắt ngang đây để nói rằng ba tôi, một người hiền lành nhưng thực tế, không thích nhấn mạnh chỗ Phil nhìn cô bạn mình. Mẹ tôi mới là người kể rằng cô bạn gái sẽ dựa đầu lên vai Phil trong khi ông chơi đàn, và ông lấy ý cho bài hát từ vẻ đẹp của cô ta khi cô buồn ngủ. Mẹ tôi không có mặt trong câu chuyện, nhưng bà nghe kể lại khi bà và ba tôi còn trẻ, vì vậy bà biết chuyện đó. Tôi muốn cắt ngang ở đây và nói thêm về cách Phil viết bài hát, có lẽ nên cho thấy ông huýt sáo điệu nhạc và đặt lời một cách chậm chạp và cẩn thận để tìm cho được chữ hay nhất, trong khi đang lột vỏ hành hay gọt vỏ khoai trong nhà hàng. Nhưng ba tôi đã tới đoạn chở họ từ quán bên đường về nhà, và đang nói vỏ xe ông vá chằng vá đụp thế nào, và máy xe ông là một đống phụ tùng từ các hiệu khác nhau, và một số phụ tùng còn là sáng chế riêng của ông. Và mẹ tôi đang nói ông già người Ðức đã bắt con gái hứa không dính líu với bất cứ anh chàng nào cho đến khi xong đại học, và không được đi khuya. Thêm nữa, mẹ tôi thích những đoạn buồn, và bà nôn nóng kể tới đoạn về buổi tối cuối cùng của họ trước khi cô gái đi học đại học xa.
Thế là họ cùng đến quán bên đường, và câu chuyện thật buồn. Mẹ tôi nói phụ nữ ứa nước mắt khi Phil chơi bài hát cho cô gái. Ba tôi nói Phil bỏ một tuần lương mua áo mới và cà vạt, cái cà vạt đầu tiên ông có, và người ta chọc ông. Ai đó huýt sáo lớn và nói: Phil, mày nên đem bài hát đó xuống Bay City - với họ cũng như New York City, chỉ thực tế hơn - bán lấy tiền đi học đại học luôn. Họ không cố ý nhưng lại thành ác nghiệt, vì Phil chưa từng lên đến trung học. Nhưng theo ý mẹ tôi, bạn có thể thấy người ta cố làm cho Phil vui.
Rồi, cô ta về nhà dịp lễ Tạ Ơn, Giáng Sinh và Phục Sinh. Và họ cùng lẻn ra quán bên đường để uống bia và khiêu vũ, và mọi thứ lại như cũ. Và dĩ nhiên có những mùa hè. Và mọi người đều biết Phil và cô gái sẽ cưới nhau sau khi cô làm tròn lời hứa với cha, vì bạn có thể thấy như thế trong ánh mắt của họ, khi Phil ngồi bên cây dương cầm cũ kỹ chơi bài hát cho cô.
Dĩ nhiên trong lời ba tôi kể không có cái phần cuối về ánh mắt của họ, nhưng tôi không thể không thêm vào dù biết nó sẽ làm một số bạn sốt ruột. Nên nhớ là chuyện này xảy ra nhiều năm về trước, trong rừng bên bờ hồ ở phía bắc Michigan, trước khi có truyền hình. Tôi ước gì mình có thể viết nhiều hơn, nhất là về bài hát và cảm tưởng của Phil khi hát và cảm tưởng của cô gái khi nghe và biết đó là bài hát của cô ta, nhưng tôi đã lấn quá nhiều vào một câu chuyện đơn giản mà cũng không phải là chuyện của tôi.
Rồi đây là phần quan trọng nhất. Có lẽ đến đây nhiều bạn đã đoán được rằng vào một mùa hè gần cuối cô ta không về nhà để gặp Phil, vì cô gặp một tay nào đó ở đại học, bảnh trai và giầu như cô, và vì cha cô biết hết về Phil và gây áp lực để cô quên Phil. Cô ta xiêu lòng và theo tay mới này về nhà hắn trong dịp nghỉ và yêu hắn. Dân thị trấn đoán như vậy, vì sau khi tốt nghiệp, họ xuất hiện, đã cưới nhau, và hắn lập tức tiếp quản nhà băng của ông già người Ðức - và mua một chiếc Pontiac mới ở chỗ ba tôi làm thợ máy và trả tiền mặt. Chuyện trả tiền mặt luôn luôn làm ba tôi ngừng lại lắc đầu, và cứ nhắc đến những lúc khó khăn, nhưng lại có gã này diện áo sơ mi trắng bảnh bao (mẹ tôi nói cổ tay áo Pháp) và trả hết bằng tiền mặt.
Và ba tôi cũng lắc đầu chuyện này. Phil đem bài hát xuống Bay City bán lấy hai mươi lăm đô la, đồng tiền duy nhất ông kiếm được bằng bài hát đó. Ðó chính là bài hát chúng tôi vừa mới nghe trên máy phát thanh và đã làm ba tôi nhớ lại câu chuyện tôi vừa kể. Còn Phil thì sao? À, ông ở lại Bay City và tìm được việc quản lý một rạp xi nê. Ba tôi gặp ông ở đó sau hồi khủng hoảng kinh tế, khi ông trên đường đi Detroit để làm việc cho hãng Ford. Ông ngừng lại và Phil cho ông một hộp bắp rang. Bài hát ông viết cho cô gái đã bán được vài triệu đĩa, và nếu tôi cho bạn biết tên, bạn có thể sẽ hát được, hay ít nhất cũng huýt sáo được điệu nhạc. Tôi tự hỏi cô ta sẽ nghĩ gì khi nghe bài hát đó. Ồ vâng, ba tôi cũng gặp vợ Phil. Bà ta làm trong rạp với ông, bán vé và quét thảm sau buổi chiếu bằng cái loại chổi đẩy tay. Mẹ tôi nói bà ta lại to mập và ồn ào và không giống người kia chút nào.
Y Cựu chuyển ngữ