vhnt, số 260
8 January 1997
Trong số này:
Thư vhnt..................................................................BBT
T h ơ :
1 - Anh Muốn Làm Sóng Biển......................................Lê Tạo
2 - Tháng Giêng Qua Làng Em...............................Trần Hoài Thư
3 - Hờn / Trách..........................................Nguyễn Bá Dĩnh
4 - Chuyện Ðời Mễ...........................................Ðức Lưu
5 - Em Ðến Tự Ngàn Xưẳ.....................................Chung Lê
6 - Một Chút Tình Cho Huế.............................Trần Trung Ðạo
7 - Khúc Ngâm Chinh Phụ ...............................Nguyễn Cát Ðông
8 - Thoáng HaiKu .................................................Thụy Phong
9 - Mây ........................................................Hữu Nguyên
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
10 - Thi Vị .......................................................Khải Minh
Ð i ể m P h i m / Ð i ể m S á c h
11 - Ðiểm Sách Mới (Phần I)......................Nguyễn Tiến Dũng
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
12- Sương.........................................................Vũ Trung
Ngày hết Tết tới, cứ mỗi lần viết xuống giấy một ngày-tháng-năm mới, nghe như cái tuổi đè đang nặng trên vai mình, và ghi vài nét trên tóc trên da. Thêm một mùa Xuân tha hương, ước mơ của mình biết có thêm được chút màu hồng Của sự hy vọng, hay cuộc sống luân chuyển không ngừng, đã đốt vơi đi chút dầu nhiệt huyết trong tim.
Một sáng mai, mình bỗng nhiên thích đọc một bài thơ, khúc văn nào đó, để thấy bài thơ không chỉ là du dương vần điệu, để biết khúc văn không chỉ là vấn vương tình tiết; mà để nghe lời thơ ý văn đang mời gọi - Lời mời gọi con người đến một mảnh đất, nơi tình yêu là một bài ca vĩnh hằng, không đau khổ nào có thể làm nguội lạnh tình yêu cả - Lời mời gọi con người đến một xứ sở, nơi hạnh phúc là hoa trái của riêng mỗi người, không ai giành giật của ai. - Lời mời gọi từ trái tim yêu thương nhân hậu.
Cảm ơn những dòng thơ, những câu văn mà các tác giả vừa là bạn đọc, đã chân tình giành riêng cho bạn đọc VHNT; trong đó là thông điệp của bốn mùa Xuân Hạ Thu Ðông, thông điệp về Cuộc Sống - Tình Yêu - Hạnh Phúc từ kỷ niệm quá khứ, hơi thở hiện tại và ước mơ tương lai.
Thân chúc bạn đọc một ngày vui
thân ái,
BBT/vhnt
Anh Muốn Làm Sóng Biển
Anh muốn làm sóng biển
ru hồn em dạt dào
những hôm em lười biếng
dòng đời chiều xanh xao.
Anh muốn làm sóng biển
bên tai em thì thầm
rót những lời êm ái
rất ngọt ngào trăm năm.
Anh muốn làm sóng biển
vỗ về em dịu hời
người em hay sầu muộn
nát lòng anh em ơi.
Anh muốn làm sóng biển
hôn đôi môi em mềm
dù cho đời ganh tị
anh vẫn mãi yêu em.
Anh muốn làm sóng biển
xóa sạch vết nhân gian
lời thị phi dè bỉu
làm mắt nai thoáng buồn.
Anh muốn làm sóng biển
ôm cát trắng ngàn năm
tâm hồn em tinh khiết
tình ta như trăng rằm.
Lê Tạo
Tháng Giêng Qua Làng Em
Tháng giêng qua làng em
Dừng quân bên hiên nhà nhỏ
Trăng lung linh trên tàn vú sữa
Xôn xao gió gọi thì thầm
Em nhìn lên bầu trời vô tận mênh mông
Tôi kể em nghe về chùm Hạc trắng
Tháng giêng bầu trời đầy sao lấp lánh
Con hạc bay về thăm lại quê hương
Em thấy gì không, đuôi nó dị thường
Vì sao sáng giữa hằng hà tinh tú
Vì sao sáng đang cùng nhau nhảy múa
Như cả bầu trời mở hội hoa đăng
Em nhìn lên, em nhỏ mười lăm
Tôi bắt gặp thêm hai vì sao yêu dấu
Em mười lăm, hết giêng mười sáu
Trăng sẽ tròn khi tôi trở lại nhà em
Tôi sẽ nói về một chùm Thiên Nga
Tôi sẽ chỉ em vì sao sáng nhất
Hết giêng, em càng lung linh đôi mắt
Vì sao đời tôi cũng nở mùa xuân
Bây giờ tôi bỏ làng cũ lưu vong
Bỏ những đêm qua vườn xưa hương cau hương bưởi
Bỏ ngọn gió thì thầm trên tàn vú sữa
Bỏ con hạc trời trở lại hằng năm
May mà tôi còn có hai vì sao xa xăm...
Trần Hoài Thư
Hờn
hãy cho tôi biết chừng mai mốt
xa nhau... em có nhớ gì tôi,
hay là em vẫn như con trẻ
gặp kẻ không quen cũng mỉm cười?
tôi chắc sẽ buồn... ai cũng thế,
đã đành... ai đã của riêng ai;
nhưng tình yêu có bao người hiểu,
nếu hiểu thì đâu cần thở dài!
hỏi để nghe chơi, đừng để ý
tôi có quyền chi cấm cản em!
lỡ khi có kẻ dèm pha bậy
lại bảo rằng tôi thích độc quyền!
thì cứ nói cười cho thoả thích
miễn lòng em chỉ một mình tôi.
mặc cho có đứa ngu ngơ tưởng...
mất mát gì đâu cái mỉm cười!
Trách
em không chịu hiểu tôi gì hết
yêu thể chừng ni, không biết sao?
chẳng lẽ em chờ tôi nói rõ
mà thôi... tôi chẳng nói gì đâu!
nhìn lén em cười hồn nhiên quá
xin ước được là viên ô mai
thà tôi tan giữa đôi hàm ngọc
còn hơn là phải nhớ thương hoài!
em vẫn nói cười vui vẻ tệ
mình tôi... mê mẩn..một mình tôi
không sao! tôi có thành ngơ ngẩn...
chẳng trách gì em đến nửa lời!
Nguyễn Bá Dĩnh
Chuyện Ðời Mẹ
Ngày chị hai sinh ra,
Bố lặng lẽ bỏ nhà đi biệt
Mẹ âm thầm đơn chiếc
Bồng bế chị về nương náu ngoại xưa
Ðất Bình Dương chẳng đủ bóng dừa
Che chở mẹ những khi đơn lẻ
Cũng con đường đất đỏ
Từ dốc cầu ông đành tới miễu Thành Quan
Con đường nắng chang chang
Mẹ đi hoài không tới
Cũng con đường ni thuở còn con gái
Cùng bọn trẻ làng
Mẹ hái trái cò-ke
Nay cũng những trái chín xum xoe
Mà nghe lòng nặng trĩu
Bởi tận trong tâm
Mẹ một lòng vẫn... chịu
Thuở còn con gái
Nội thương mẹ cái tiếng giỏi giang
Chợ búa, vá may, nức tiếng trong làng
Xát lúa, bẻ cau, việc nào cũng thạo,
Nhà ngoại lại nghèo, thiếu cơm, hụt áo
Mẹ lại mồ côi cha lúc mới lên mười
Gả mẹ vào nhà nội cho yên nơi
Ngoại chỉ cốt mong cho con mình an phận
Mẹ chẳng than van, chẳng phân trần, tâm sự
Chỉ âm thầm, dạ nhỏ cho ngoại vui
Và người con gái đôi mươi
Chịu đánh mất mối tình thứ nhất.
Ðằng đẵng tròn một tháng
Người ấy vẫn đợi, vẫn trông
Mẹ vẫn chưa đổi ý, thay lòng.
Vì thương ngoại,
Mẹ dứt bỏ mốt tình vụn dại
Rồi cuối cùng đằng ấy,
Hẹn mẹ hai năm
Nếu duyên nợ không cầm,
Thì đường ai nấy rẽ
Người ta đành xa mẹ
Bỏ vào khu làm du kích cho làng
Chờ mẹ tròn chũ nghĩa hai năm
Ðêm hôm ấy trăng Rằm,
Màu trăng lạnh, buồn căm con suối Giữa,
Mẹ thêm lần nữa
Nước mắt tuôn giòng,
Lệ nhạt nhoà mang phận long đong
Lặng lẽ âm thầm sang nội
Bố vốn hào hoa, phong lưu rất trội
Ấy thế việc gì cũng chỉ nội thôi
Chùn gối phong trần chịu để nội vui
Bố về Bình Dương cưới me.
Hai cõi lòng đơn lẻ
Ăn ở nhau vì hiếu hơn tình
Mẹ bắt đầu vùi kiếp phù sinh
Dưới những lằn nịch lưng bạo tàn của bố
Tóc mẹ dài, đen óng
Ngày lại ngày oằn dưới bàn tay
Nghiệt ngã, vô tri, man dã, đoạ đày
Lôi xốc mẹ từ nhà ngang xuống bếp
Bố vẫn hộc hằn thẳng tay đánh đập
Dù chỉ bất cứ chuyện gì
Hòng mẹ chán chường tuyệt vọng bỏ đi
Mong gỡ nốt một mối tình gượng ép.
Sợ ngoại buồn, ngoại biết
Mẹ vẫn âm thầm,
Vẫn lạnh lùng, nhẫn nhục từng năm
Gửi gắm nốt kiếp tằm cùng bố
Rồi lại hai năm sau
Tin mẹ vẫn không vào
Người ấy về Lái Thiêu cưới vợ
Hai mảnh tình sầu nặng duyên, không nợ
Gặp nốt một lần cho trọn nghĩa bấy nay...
Lần thứ ba, nước mắt mẹ chảy dài
Ðể từ đấy mẹ không cần khóc nữa
Với người xưa, mẹ có duyên không nợ
Với bố thì mẹ nặng nợ hơn duyên
Ôm phận long đong chèo chống con thuyền
Bập bềnh,
Trôi nổi.
Ngày con ra đời
Mẹ trông cằn cỗi
Nợ đã trả tròn hơn chục năm trôi
Còn chỉ chút tình cho lũ chúng con thôi
Ngần ấy tuổi, mà con chưa lần roi vọt.
Ngót chục năm đòn, nỗi đau mẹ biết
Nên chẳng một lần Người mắng nhiếc một câu
Mẹ đã đau, nên chẳng muốn lũ con đau
Là con gái mẹ cho vào làng võ
Chẳng để chi hơn rủi ro bất hạnh
Chồng có nặng tay cũng biết đỡ đòn.
Phần con trai, mẹ dặn khẽ lũ con,
Thân nam tử, không bao giờ đánh vợ
Mấy chục năm trời oằn trong nỗi sợ
Chẳng rõ mẹ còn có hận bố không,
Nhớ năm nao, khẽ hỏi mẹ một lần
Người chỉ khóc, rồi thở dài, không nóị
Lỡ bước một đời tấm thân mẹ trót
Thương ngoại quá nhiều trót đã hy sinh,
Nên chuyện nợ duyên, chăn gối con mình
Người rất hiểu chẳng bao giờ gượng ép.
Mấy chục năm trời, vết thương lòng canh cánh
Thảo một vài hàng kính bút mẹ đây.
Đức Lưu
(Tập thơ Hiện Thực)
Em Ðến Tự Ngàn Xưa
Em mắt biếc xanh chiều hải đảo
Hai bàn tay đan mộng thương yêu
Cơn gió chướng trôi về phương Bắc
Ðể ngẩn ngơ một áng mây chiều
Em đã đến từ trong vĩnh cửu
Nhạc không gian xoa dịu sầu đau
Cây trúc nhỏ chìm sâu góc núi
Trổ hoa vàng líu ríu bên nhau
Em bước xuống tinh cầu lạnh giá
Áo dài tay biêng biếc trời xanh
Mở toang cửa đón chào nắng mới
Niềm ưu phiền thoáng chốc tan nhanh
Em xoã tóc hồn căng nhiệt đới
Máu về tim nhịp thở Ðông Dương
Trên đất cũ dài đêm tiền sử
Hồn xanh xao lạc chốn thiên đường
CL
Một Chút Tình Cho Huế
Ta, học trò dù chẳng phải ra thi
Và em, đẹp như vầng trăng quê cũ
Chiều sông Hương, đêm Nam Giao không ngủ
Một gả làm thơ, nhút nhát, si tình
Huế u trầm và khó hiểu như em
Huế nhẫn nhục với trăm ngàn nỗi khổ
Ta ghé Huế mỗi mùa hè phượng nở
Ðể nghe tình vương vấn buổi về thăm
Huế đẹp tuyệt vời vào mỗi tháng Năm
Ta yêu nhất những con đường phượng đỏ
Chiếc xe đạp, đèo nhau qua phố nhỏ
Con dốc dài, đẩm ướt áo thư sinh
Mảnh đất nghèo trong xứ sở điêu linh
Em khóc ngất mỗi lần ta trở lại
Ta cũng biết sẽ một ngày xa mãi
Cuộc chiến nầy, ai biết có mai sau
Huế âm thầm ở lại với thương đau
Em ở lại trời quê hương mây xám
Chiếc nón lá che quảng đời mưa nắng
Em mơ gì khi nghe tiếng ve kêu
Mười lăm năm, ta bỏ Huế và em
Bỏ lại hết bao mộng đời dang dở
Trên nẻo ấy lời thương yêu chưa ngỏ
Ðể bây chừ thương tiếc một vầng trăng.
Trần Trung Ðạo
Khúc Ngâm Chinh Phụ
Thời Gian
Ngựa hồng vút bóng qua truông
Lời ru thần thoại nghe buồn tuổi thơ
Bến xưa lau lách dật dờ
Một con đò ngủ bên bờ tịch liêu
Dư Âm
Khói sương nầy khói sương chiều
Bước chân hồ hải vào phiêu lãng rồi
Ơi, còn đây lá hoa ơi!
Những ngôn từ của một thời gian qua
Dư Ảnh
Tôi về tìm kỷ niệm xưa
Bài thơ nào cũng buồn da diết buồn
Ngựa hồng vút bóng qua truông
Tôi che mặt khóc trong sương buổi chiều
Nguyễn Cát Ðông
(Giải nhất - Giai Phẩm Phan Thanh Giản - Xuân Ất Tỵ - 1965)
thoáng haiku
băng giá trên cây
nhiễu thành dao nhọn
cắt đời cắt người
(1996)
Thụy Phong
Mây
Mây vương núi trắng ơ hờ
Ðường quanh mấy lượt, trời mơ khuất dần
Người đi, đỉnh tuyết bâng khuâng
Người về đêm lạnh mấy lần trở trăn.
Hữu Nguyên
THI VỊ
Thi vị là tinh hoa, huyết tủy của thơ. Nó khởi sự từ vô thức qua phản ảnh của một thực tại nào đó để sinh ra hình tượng nơi tiềm thức. Mây bay trong không gian sẽ có thể rất khác với mây trong nội tâm thi sĩ. Thế giới tiềm thức của mỗi thi sĩ mỗi khác cho nên không có thi vị của ai giống ai. Từ thi vị chúng ta sẽ tìm thấy hình hài ngôn từ, dáng điệu, cội nguồn thơ. Thí dụ câu thơ quen thuộc sau:
Ðoái trong muôn dặm tử phần
Hồn quê theo ngọn mây tần xa xa
Kiều - Nguyễn Du
Chúng ta có thể phân tích thi vị câu thơ này theo 6 nhóm người sau:
Nhóm 1:
Trình độ: không để ý đến ý nghĩa của hai tiếng tử phần, mây tần; không coi trọng ngữ học (hán, nôm, việt)
Câu thơ trên không khác gì câu văn vần sau:
Ðoái trông muôn dặm núi sông
Hồn quê theo ngọn mây hồng bay xa
hoặc buồn hơn xíu nữa:
Ðoái trông muôn dặm núi sông
Hồn quê theo ngọn ngô đồng thu sang
Những câu văn vần diễn nghĩa, tả cảnh này tự đóng nghĩa lại, nhạc có tạo xuôi tai, cảnh sắc như hình ảnh tự dùng máy chụp hình chụp lấy, thi vị theo tình ý chủ quan và nhất thời.
Nhóm 2:
Câu thơ có những chỗ họ hiểu mơ hồ để tưởng tượng. - với tử phần` họ có thể tưởng tượng là: mộ địa, nghĩa trang, một cảnh chết chóc, một tương lai buồn v.v... (Thật ra tử phần đây là cây tử và cây phần gợi nhớ nhà cũng giống như cây tre, cây trúc, cây dừa là hình ảnh quê nhà đối với nhiều người trong chúng ta) - Với mây tần có thể tưởng tượng mây bay tần ngần; Mây về nước Tần, bay qua nước Tần hoặc bay đi từ nước Tần. Có thể mây mầu trắng, mầu xám, xanh, đỏ, đen v.v... (Mây tần: trong câu thơ này là mây bay qua núi Tần Lĩnh trong câu thơ của Hàn Dũ ý nói nhìn mây bay qua núi Tần mà không biết quê nhà đâu.) Nhóm này dùng thơ để diễn tả chủ ý của họ, vô tình hay cố ý, nhiều khi còn phản lại tình ý của tác giả. Chúng ta thường thấy họ ở những bài tựa hoặc phê bình của những tập văn vần, văn xuôi mà gọi là thơ. Thi vị hoàn toàn ngoài thơ có nghĩa là có thể giả dối, nhàm nhảm.
Nhóm 3:
Biết ngữ học và rõ sự tích Tử Phần, Mây Tần. Ðây là nhóm thích thơ, sưu tầm, phân tích cấu trúc và định ý thơ. Họ thưởng thức và không tìm tòi sâu rộng hơn. Thi vị đối với họ có nhiều khía cạnh nhưng chỉ một câu hay một khổ thơ nào đô Ðối với họ, một vài câu ưng ý nào đó trong Truyện Kiều đủ để hiểu cả tác phẩm này. Lấy phần tử để hiểu toàn thể như vậy nếu không sai trái thì cũng thiếu xót vô cùng.
Nhóm 4:
Trình độ có thể so sánh với tác giả. Họ biết nhiều sự tích có thể sóng sánh với Tử Phần, Mây Tần của Nguyễn Du. Họ đặt sự tích vào toàn thể bài thơ để hiểu ý và phân tích sự tích của tác gỉa. Họ đem ra những gỉa thuyết, những giải nghĩa rồi cách chọn lựa như lúc tác giả sáng tác. Thi vị đây là họ cảm ngộ thơ trong toàn thể (bố cục, không gian, thi gian, cấu trúc, tình ý), họ có những phê bình đa dạng, khách quan, khai mở thêm tình ý cho dòng thơ và đưa ra những thêm bớt sửa đổi thích hợp. Nhiều bài thơ trở thành tuyệt tác nhờ nhóm này góp ý cho tác giả sửa đổi.
Nhóm 5:
Những người sống trong sự tích Tử Phần, Mây Tần. Họ thấy tác gỉa và thấy họ ít nhiều trong tác phẩm. Thi vị đây là chính hỗ Ðặt chúng ta vào 3 hoàn cảnh sống: 1. của Kiều, 2. của người tha phương và 3. của một người không có kinh nghiệm xa nhà.
Chúng ta sẽ thấy ngay mức độ thấm thía khác nhau của câu thơ cho mỗi hoàn cảnh nêu trên.
Nhóm 6:
Những người như chúng ta hôm nay đọc lại để cảm xúc lạc về một không gian, thời gian (hoàn cảnh) nào đó. Cái cảm xúc này không khác gì mấy so với những áng văn vần hoặc văn xuôi trong sử sách hoặc trong cổ tích. Ở đây chúng ta mới nhập vào thơ bằng nghiệm thức (điển tích trong hiện tại) để đặt hồn vào một khung cảnh lịch sử có thật. Thi vị trong câu này còn thiếu những nhạc, cảnh cấu trúc trong tiềm thức của Nguyễn Du để có thể đem hẳn chúng ta vào một thế giới khác hẳn với khung cảnh hiện tại và lịch sử|.
Chúng ta vừa thấy tầm mức quan trọng cuả thi vị qua 4 tiếng: Tử Phần, Mây Tần trong một câu thơ rất thô sơ được viết cách nay hơn 200 năm. Thi vị chưa phải từ tiềm thức nguyên sơ tiết vào ngôn ng Nội dung còn vị văn vần áp chế và hình thức còn bị ngoại cảnh áp đặt để tạo ra một câu thơ cho mọi người nhiều hơn câu thơ phản ảnh con người Nguyễn Du.
Từ câu thơ nghiệm thức đơn giản đó đến nay hầu như thơ chúng ta không tiến thêm. Hiện tại có rất nhiều văn vần và thật khan hiếm thơ vì đa số thi sĩ và độc giả luẩn quẩn với nhau trình độ của nhóm 1 (thơ mới, thơ tự do, thơ nhảm) và 2 (thơ chủ nghĩa, thơ tuyên truyền, thơ mỹ cảm, dục cảm, tình cảm v.v..)
Trở lại thi vị, chúng ta khảo sát tiếp câu thơ sau:
Tầm mây nhạn bóng hoài hương
Môi im ngậm sóng sông người quê em
Tình trong Câu thơ này vẫn như câu của Nguyễn Du nghĩa là nhớ thương quê hương nhưng thi vị không xoáy vào điển tích nữa mà chuyển sang ý trừu tượng bằng những hình ảnh tiềm thức như bóng hoài hương , ngậm sóng.
Cấu trúc thơ ở đây không giới hạn văn học, thực cảnh nữa (mây, nhạn, môi, sóng, sông) mà nhờ tiềm thức biến nó thành ảo ảnh của thế giới siêu thực. (môi ngậm sóng, sông người quê em). Nhạc câu thơ trên dựa vào thể Lục-Bát để có cấu trúc giản lược cho tiếng nhạn thay vì chim nhạn theo đúng cú pháp văn phạm.
Chúng ta thưởng thức thi vị câu thơ sau với vài khía cạnh như Tình, Cảnh, Cấu trúc, Ngôn ngữ:
Mây tần ngần ngại ngực đêm
mưa x(o)a mặ)t nhớ lòng thèm quê(ế) hương
Chúng ta thấy:
Tình: nhớ quê hoặc nhớ quê qua cây quế hương.
Cảnh:
1. Thực cảnh: mây, mưa, ngực, đêm, mưa xa, quế hương...
2. Lãng mạn: lòng thèm
3. siêu thực: Ngực đêm, mặt nhớ, mắt nhớ
4. Lập thể: Mây tần (mây nước Tần), Mây tần ngần (Mây bay chậm buồn), ngại (không tha thiết), ngại ngực (Ngại lòng, mệt nản), ngực đêm (đêm trong tâm hồn, trong tim), ngại ngực đêm (Ngại chơi bi đàng điếm...); mưa xa, mưa xoa mặt, mặt nhớ v.v...
Cấu trúc:
1. Ðiển tích: Mây tần
2. Trừu tượng: Ngại ngực3. Văn học: Thành ngữ: Xa mặt cách lòng được đổi thành xa mặt nhớ lòng.
4. Ngôn ngữ: x(o)a: vừa có nghĩa xa và xoa; mắt: (mắt, mặt); quế- (quê, quế) Nếu lấy những yếu tố trên và thêm cấu trúc trực cảm (feeling), thi vị sẽ khác trong hai câu thơ trích trong bài Tương Tư sau:
Em từ tâm huyết lụa trinh
màn đêm trong nước non mình tương tư
em hình như thể hình như
cò(ồ)n sông lở núi động từ yêu em
Feeling hay trực cảm là dạng thức ngôn ngữ biến thể trong cấu trúc và biến nghĩa trong dạng văn để thành thơ. Trong câu thơ trên feeling được đặt vào 2 tiếng hình và 2 tiếng 'như' trong em hình như thể hình như. Mỗi tiếng nếu phân tích riêng biệt sẽ có nghĩa khác nhau và đặt chung vào lại có nghĩa khác.
Bây giờ chúng ta để thi vị tự áp chế ngôn ngữ vào cấu trúc thơ như trong khổ thơ trích trong bài Ngộ sau:
Vô tích sự tình tình hóa mộng
cầu kỳ duyên ngộ áo em bay
ngoan ngoan mẵá)i tóc thề non nước
tình tự ? \ ~ / say (tình tự hỏi huyền ngã sắc say)
hơi thở em cởi) vực mê cuốn hút
gọi vui về ngực tiết thơ tươi
gót đêm nhiệm tích ngập sông mộng
ảo ảnh yêu trăng giáp mặt người
lưu lạc anh buồn vui lãng đãng
thuở yêu người thay dáng nhân gian
thân em mưa nắng hợp hoan
phong lưu thể phách lạc đàn thiên di
cuồng cuồng si! cuồng cuồng si
địa đàng đêm khép mi hạnh phúc
ảo giác về tiềm thể hóa thơ
bồng bềnh nhục thể hoang sơ
mềm môi thần thoại
đến giờ
yêu nhau.
Tới đây chúng ta không cần dài dòng để giải thích tính lãng mạn, siêu thực, lập thể v.v.. nữa. Nếu những ký hiệu ? \ ~ / được hiểu bằng tiếng hỏi, huyền, ngã, sắc và tạo nghĩa cho khổ thơ trên thì đó là một cách giải thích thi vị tạo ra ngôn ngữ, hình thể mới để cấu trúc thơ theo tâm tư thi sĩ.
KẾT LUẬN:
Thi vị khởi điểm cho sáng tác, thành hồn thơ và tạo sự sống cho thơ. Nếu lấy tiêu chuẩn cuối, tức là sự sống thơ để sưu tầm thì chúng ta có thể nói hầu hết những bài gọi là 'thơ Mới', Thơ Tự do phải xếp vào văn vần hoặc loại bồ Nguyên nhân chính là họ đảo ngược từ THI VỊ - CẤU TRÚC thành CẤU TRÚC - THI VỊ để đưa đến sự hiểu lầm trầm trọng giữa THƠ và VĂN VẦN hôm nay.
Tóm lại: thi vị tiết ra từ tâm tiềm thức nơi mỗi tác giả. Tiềm thức này sẽ áp chế ngôn ngữ để tạo ra cấu trúc thơ riêng biệt. Từ đây độc gỉa nhập vào thơ và tạo giá trị và sự sống cho thơ. Vì thế thơ không có phong trào, không khép hồn vào chủ đề hay mở hồn ra theo đơn đặt hàng quảng cáo, tuyên truyền. Mỗi thi sĩ mãi mãi là một thế giới thơ riêng biệt. Còn lại những hình thức ngôn ngữ như luật văn vần, văn xuôi, văn phạm đều là chuyện ai cũng phải nhuần nhuyễn và là chuyện rất thường.
Khải Minh
Sống Và Viết tùy bút của Võ Phiến, Văn Mới xuất bản, 169 trang, giá US$10.00. Liên lạc: Văn Mới.
Tập sách không dày, chia làm hai phần Sống (gồm những tùy bút về cuộc sống) và Viết (những tùy bút về việc viết lách). Trong tác phẩm mới nhất này, Võ Phiến vẫn tiếp tục quan sát quanh mình, quan sát chính mình, với cái nhìn tinh tế pha chút nghịch ngợm. Nhưng ẩn dưới cái đặc tính cố hữu ấy là một nỗi buồn nhớ thiết tha và bàng bạc mà trước đây người ta ít gặp trong văn của ông. Những mảnh quá khứ, nhiều khi rất nhỏ, chợt đến với ông với một nỗi buồn tiếc chơi vơi. Nhưng cuộc sống vui tươi trước mắt hình như cũng khiến ông có chút bùi ngùi kín đáo, giống như câu nói của một nhân vật trong sách: "Et bientôt c'est tout fini et nous ne jouons plus -- Chẳng mấy chốc mọi chuyện sẽ qua đi và chúng ta sẽ chấm dứt cuộc chơi."
Dù trong lãnh vực Sống hay Viết, đọc ông vẫn luôn luôn là điều thú vị, vì ông nhìn ra nhiều cái rất mới, rất ngộ nghĩnh, và ông dẫn dắt câu chuyện một cách vui vẻ. Ðúng đây là tùy bút chứ không phải là truyện, nhưng ông luôn luôn có chuyện để mà dẫn dắt người đọc, dù đôi khi bài viết của ông bây giờ trở nên rất ngắn, chỉ vài trăm chữ.
Văn Hiến Nền Tảng Của Minh Triết biên khảo của Nguyễn Ðăng Trúc, Ðịnh Hướng Tùng Thư xuất bản, 230 trang, giá US$15.00.
Ðây là một cuốn sách khảo sát một số truyện trong Lĩnh Nam Chích Quái, những truyện như Họ Hồng Bàng, Ngư Tinh, Hồ Tinh, Mộc Tinh, Trầu Cau, Ðầm Nhất Dạ, Bánh Chưng, Dưa Hấu, Phù Ðổng... Hầu hết những truyện này đã được truyền tụng từ lâu trong dân gian Việt Nam, và ý nghĩa của chúng cũng đã được khẳng định theo các lý giải thông thường về đạo đức cũng như về nhân quần xã hội. Nhưng trong quyển sách này, tác giả Nguyễn Ðăng Trúc đã có một cái nhìn hoàn toàn khác, và rút từ đó ra những giá trị tinh thần vừa phổ quát của nhân loại, vừa đặc thù của dân tộc Việt Nam. Ở mỗi truyện, tác giả khảo sát kỹ về hình thức như bố cục, lời văn, vị trí của truyện trong tập Lĩnh Nam Trích Quái... rồi đến phần giải thích ý nghĩa của hành vi, lời nói, nhân vật câu truyện, dựa trên các chiều kích Trời, Người và Ðất.
Ai cũng biết những truyện trong Lĩnh Nam Chích Quái không phải là lịch sử mà là huyền thoại hoặc sự tích dân gian, và tác giả Nguyễn Ðăng Trúc muốn đi tìm ý hướng siêu lịch sử cũng như các yếu tố văn hóa trong những truyện ấy bằng một cái nhìn mới mẻ dựa trên các kiến thức tổng hợp về các huyền thoại và môn huyền thoại học trên thế giới. Nhờ thế những truyện tưởng như hoang đường bỗng nhiên như được mặc một tấm áo mới, đầy ý nghĩa nhân văn và tâm hồn dân tộc. Với Văn Hiến, Nền Tảng Của Minh Triết, Nguyễn Ðăng Trúc đã nâng các truyện xưa của ta lên một tầm cao và đẹp, đúng với vai trò mà chúng đã đóng một cách âm thầm nhưng linh hoạt trong tâm thức, trong ký ức lớn của dân tộc qua suốt chiều dài của lịch sử.
Câu Chuyện Giữa Ðường tuyển tập truyện ngắn của Nguyễn Hiền, Cái Ðình xuất bản, 157 trang, giá US$12.00.
Nguyễn Hiền là tên thật cũng là bút hiệu của một dược sĩ hiện ở Hòa Lan, vẫn viết bài về văn học cho các báo ở Hòa Lan, ngoài ra cũng có sáng tác đăng trên các tạp chí Việt ngữ tại Hoa Kỳ như Văn Học, Thế Kỷ 21... Câu Chuyện Giữa Ðường tập hợp 13 truyện ngắn của Nguyễn Hiền có bối cảnh phần nhiều là cuộc sống tị nạn tại Hòa Lan, hoặc Sài Gòn những ngày tháng chuẩn bị vượt biên vào cuối thập niên 70. Nhưng điều chú trọng của tác giả không phải là bối cảnh, bối cảnh chỉ là cái cớ, để ông nắm bắt lấy những điều mà ông gọi chung là những "chuyện giữa đường," những chuyện tưởng như chỉ thoảng ngoài tai, nhưng không biết từ lúc nào chúng đã hằn vào trong ký ức thành những vệt sâu, suốt đời không mất dấu. Ông viết lại những chuyện như thế, những chuyện không có chuyện, mà là những "vệt sâu trong ký ức," nhưng bản lãnh tài viết truyện ngắn của ông đã biến thành những mảng sống động của cuộc đời đồng thời cũng thành những dấu hỏi để đấy giữa cuộc nhân sinh. Ðọc xong mỗi truyện ngắn của ông, người đọc hình như nghe lòng vẫn chưa yên, vẫn phân vân một câu hỏi mơ hồ: tại sao vậy? Mà hình như đó cũng là câu hỏi của chính tác giả, vì "chuyện giữa đường nghe qua rồi bỏ" mà ông vẫn không bỏ được, vẫn biến chúng thành văn chương, thì hẳn phải có nợ nần gì. Thì ra đó là những điều ẩn dấu sâu kín phía bên dưới bề mặt của cuộc sống mà thường giới cầm bút hay tò mò khám phá ra, và đem đến cho người đời những khám phá về chính họ mà thường họ không ý thức được.
Vàng thơ của Cao Xuân Tứ, Cái Ðình xuất bản, 60 trang, giá US$8.00.
Cao Xuân Tứ cư ngụ tại Hòa Lan từ 1975, cộng tác với nhiều báo Việt ngữ hải ngoại như Văn Học, Thế Kỷ 21... và các báo ngoại văn như Edinburgh Review (Anh), Westerly (Úc), De Tweede Ronde (Hòa Lan), Deus Ex Machina (Bỉ)... cùng với chương trình "Short Story" của đài BBC World Service (Anh). Ông cũng đã đoạt giải thơ Dunya của Hà Lan năm 1995.
Tập thơ gồm những bài thơ đắc ý nhất của tác giả, viết bằng ba ngôn ngữ Việt, Anh và Pháp. Thơ ông giàu hình tượng, rất nhiều tứ và từ lạ, kết cấu chặt chịa. Các đặc điểm ấy chuyên chở nhiều nỗi niềm của tâm tình Việt Nam, nhưng khi đọc người ta khó "thả hồn theo thơ" vì ít gặp nhạc điệu bổng trầm quen thuộc, mà mắt phải mở lớn, ý thức căng thẳng để đối phó với cái mới sẵn sàng xuất hiện bất ng
(Xin Ðón đọc Phần II ở số VHNT 261)
Sương
Sương trăn trở mãi mà cũng không chợp mắt được. Gió đầu thu nhè nhẹ bên khung cửa nhỏ lao xao mấy chậu kiểng ngoài hiên làm nàng nghe buồn lạ. Chỉ còn đêm nay. Ngày mai rồi cả cuộc đời, cuốn sách sẽ sang trang, Sương sẽ theo chồng đi làm người vợ ngoan, mẹ hiền; một chuyến viễn du có lẽ xa nhất của đời mình. Sương lan man nghĩ đến giây phút đứng nghe lời giáo huấn cuối của cha. Không biết nàng sẽ khóc không nhỉ? "Khấp như thiếu nữ vu qui nhật" mà. Chưa xa mà đã nghe nhớ. Những khóm hoa cuối vườn chắc sẽ úa dần vì không còn bàn tay Sương chăm sóc. Con đường nhỏ với hàng cây cao vút soi bóng ưu tư sẽ buồn hơn khi mùa thu đến vì vắng đi âm thanh xào xạc của bước chân chiều lá đổ. Ðàn bồ câu trắng ngơ ngẩn bên mỗi hoàng hôn, trông mong người con gái với những hạt hướng dương thơm ngọt.
Sương ít khi suy nghĩ nhiều về chuyện lập gia đình. Nàng vẫn thường tự nhủ việc gì đến sẽ đến. Có lần mẹ đùa bảo Sương:
- Mầy suốt ngày lông bông vậy chắc phải chờ tới rụng răng cũng chưa có người tới rước đi cho tao mừng!
- Càng sướng chớ sao mẹ, khỏi phải lo mệt xác. - Sương cười bỡn.
Mẹ mắng yêu:
- Ờ, đứa con gái nào mà hổng nói như mầy, mai mốt gặp người vừa ý rồi là cuốn gói đi theo kể gì tới cha mẹ.
Sương ôm vai mẹ nũng nịu:
- Con mẹ hả, con sẽ ở với mẹ cho hết cuộc đời.
Mẹ hứ nhẹ nhìn Sương không tin.
Mà quả thật vậy. Sương đã gặp và yêu Thanh, người con trai với ánh mắt như tinh tú, nụ cười nhẹ nhàng kín đáo mà rực rỡ hơn ánh dương quang buổi lập xuân. Anh đã đem cho Sương những chuỗi ngày thật bình an, vui vẽ. Anh dịu dàng, tỉ mỉ, bao dung, lo lắng cho Sương từng ngày. Bên cạnh Thanh, nàng không còn có một chút ưu tư, lo lắng nào cả. Sương vui như đóa hoa rực rỡ trong nắng mai. Rồi nàng trở thành cô dâu mới sắp cất bước vu qui. Nếu phải đổi cả cuộc đời để được ở bên cạnh Thanh nàng cũng sẵn sàng nhưng khi ra đi lòng cũng không khỏi buồn lưu luyến.
Có lẽ tiếng trăn trở của Sương làm cho chị Phấn giường kế bên ngủ không được nên chị hỏi khẽ:
- Ngủ không được hả Tuyết?
- Dạ, em thấy hơi hồi hộp một chút. Sương trả lời.
- Hông sao đâu... ngủ đi cưng, ngày mai rồi đâu sẽ vào đó thôi!
Phấn là chị họ xa của Sương. Ngày mai chị sẽ giúp Sương trang điểm sớm nên tối nay chị ở lại đêm. Tuyết là tên giấy tờ của Sương nên mọi người ngoài gia đình đều gọi như vậy. Sương tự nhiên bật cười sau câu trả lời. Tên gì mà Sương với Tuyết, cả hai đều lạnh lùng cô độc. Trời lạnh dần, vài con chim giật mình kêu chiu chít lẻ loi ngoài hiên vắng làm cho đêm đã dài lại càng dài thêm.
oOo
Ðã hơn mười giờ sáng. Ba Sương đứng trước gương thắt lại chiếc cà vạt cho ngay. Mấy đứa em họ chạy giỡn làm rộn rã hẳn cái yên lặng thường ngày của căn nhà nhỏ. Sương thỉnh thoảng liếc nhìn đồng hồ trong khi ngồi nói chuyện với mẹ Ðã quá giờ hẹn lâu rồi mà vẫn chưa thấy nhà trai đến để cùng đi làm lễ. Thanh ít khi trễ hẹn, bình thường chàng vẫn rất đúng giờ giấc. Sương nhìn vội ra đường mỗi khi có tiếng xe chạy qua.
Có tiếng điện thoại reng, Sương đưa tay bắt vội lòng thầm nghĩ có lẽ là Thanh gọi. Bên kia đầu giây là Tuấn, em Thanh. Tuấn nói nhanh qua hơi thở:
- Chị Tuyết hả, xe anh Thanh bị đụng trên đường, đang đi vào bệnh viện St. Ignatius, chị đến đó nha.
Tuấn cúp điện thoại rồi mà Sương còn ngơ ngẩn, nàng không biết phải làm gì cả, đôi tay run rẩy, thừa thãi; nàng chỉ còn biết kêu lớn "Ba ơi, ba", mặc cho giòng nước mắt lăn xối xãxuống đôi gò má vừa trang điểm.
Sương gặp mẹ Thanh trước phòng cấp cứu, đôi mắt mẹ ướt đẫm nước mắt, bà đưa tay ôm Sương vào lòng như ôm cả nỗi buồn bất hạnh. Thanh nằm yên trên giường, đôi mi nhắm chặt, Sương cố nén để đừng bật lên tiếng nức nở. Nàng nắm chặt lấy đôi bàn tay Thanh như muốn truyền cả hơi ấm đời mình, cho thời gian đừng đi vội.
Ðâu đó trong không gian có tiếng ngân nga của hồi chuông giáo đường vang vọng, mông mênh, xa vắng từng hồi như đưa tiễn một linh hồn về nước Chúa.
oOo
Sương tần ngần mở khóa căn nhà mới còn thơm mùi gỗ. Hơi đêm lành lạnh dường như đang chia sẻ với nàng nỗi buồn góa phụ. Sương bước vào nhà bật đèn. Ánh sáng nhẹ tràn ngập căn phòng, dịu dàng im lặng phảng phất mối sầu biền biệt. Cơn gió nhẹ qua song thưa, lung lay bức màn tơ trắng như từng bước chân khe khẽ của người yêu đi tìm một người yêu. Sương ngồi xuống ghế. Hơi ấm hôm qua còn y nguyên trên từng nếp da nhăn. Bức ảnh bán thân của nàng và Thanh chưa giăng một hạt bụi. Anh thanh thản quá, môi cười nhẹ ấp ủ cả một trời yêu dấu. Nước mắt chợt lăn nhanh xuống gò má. Hôm nay, ngày mai rồi cả một đời, không biết đến bao giờ những giọt lệ biệt ly sẽ ngừng rơi. Hình như có ai vừa thì thầm gọi tên nàng. Ðúng là Thanh rồi. Sương nhìn vội qua song tựa. Ngọn đèn đêm thản nhiên soi bóng xuống con đường nàng chưa kịp quen tên. Gió thổi động cánh cửa phòng tân hôn kẻo kẹt, ánh sáng hồng nhè nhẹ lung lay. Sương bước vội vào phòng. Nhịp tim ngừng lại một giây khi nàng bắt gặp đôi mắt tha thiết đang hướng về nàng. Ðúng là Thanh rồi, anh đây mà! Sương đưa tay dụi mắt, nụ cười chưa kịp nở trên môi. Nàng chạy lại ôm chầm lấy Thanh. Anh ôm trọn thân thể Sương trong vòng tay thì thầm:
- Anh chờ em lâu quá.
- Xin lỗi anh.
Nàng chỉ nói được vậy, mặc cho giòng lệ nóng tuôn trào trên đôi mi tiều tụy, những giọt nước mắt tràn ngập niềm vui buồn chất chứa. Thanh đặt lên môi Sương nụ hôn nồng nàn nóng bỏng của đôi tình nhân vừa tìm lại nhau sau lần sinh ly tử biệt. Nàng đáp lại với cả trái tim của người con gái đang yêu. Quấn quít trong nhau cho vơi đi những giây phút đau buồn. Nếu như những ước mơ chỉ có thể trở thành sự thật trong cơn dạ mộng thì họ đang dìu nhau vào giấc trăm năm để được ngủ say cả một cuộc đời.
Ðêm thật dài, trôi qua lặng lẽ. Ngoài hiên, vầng trăng non cô đơn, vời vợi, âm thầm. Trong phòng tân hôn, một bóng người lẻ loi bên giấc ngủ say với nụ cười còn ngấn giọt nước mắt long lanh. Ðâu đó trong không gian có tiếng thở dài, dài hơn cả nỗi sầu con gái.
Vũ Trung