Tập Thơ Kỷ Niệm

VIẾT CHO KỶ NIỆM

Lời tác giả.

Những vần thơ nầy tôi viết trong giai đoạn học đệ tam (1968), đến ngày ra khỏi trại tập trung, tháng 10/1977. Tôi tạm chia Làm 3 phân khúc. Đến đầu năm 2011, tôi mới tiếp tục làm thơ trở lại, sau hơn 30 năm nghỉ ngơi vì cơm áo gạo tiền.

* PHÂN KHÚC 1 : NHẬT KÝ HÀNH QUÂN

_ Lúc tôi đang trực máy ở BCH/TĐ có đơn vị báo cáo về:

- Đại bàng ơi ! vịt đang lội bên kia cồn đông lắm . Đêm nay đại bàng "Yếm âu Thật tình "(yểm trợ) gia đình bọn em .

Từ đó tôi viết ra 4 câu

Em nằm xoã tóc trên cồn.

Ta bên sông đứng nghe hồn lao xao.

Chiều buông nắng vẫy tay chào.

Ru ta nửa giấc mòn hao tuổi đời.

-4 /1974-

_ Gần hai tháng đơn vị "hấp" ở Chi Lăng, Thất Sơn . Trước mặt là rừng núi . Dưới chân là đất khô cỏ cháy . Nhớ quê nhà, bạn bè , tôi viết.

Ở đây ngày cũng như đêm.

Rừng xanh cây lá, suối đen vết thù.

Đêm nghe gió thổi vi vu.

Súng xa xa nổ , đạn mù mắt bay.

Tao mang nổi nhớ trên vai.

Đếm từng kỷ niệm bằng ngày tháng qua.

Mưa Chi Lăng , nhớ Biên Hoà.

Chiều ôm rừng núi hát ca một đời.

Tao giờ như áng mây trôi.

Bay theo cánh gió mù khơi nẻo về.

Mây giăng tám ngã đường quê.

Cho xin nhớ mãi đường về cố hương.

TỪ CHI LĂNG GỬI VỀ BIÊN HOÀ. 7/ 1973.

_ Lần về phép ngày mai trở lại với đơn vị, đêm chung vui với bạn bè , tôi viết.

Bọn mình còn một đêm nay.

Chén đưa chén tiển cho say cuộc tình.

Mai tao về với Trà Vinh.

Bỏ thành phố cũ với hình dáng em.

_ Một tháng hành quân ở vùng tranh chấp, Tập Ngãi (Tiểu Cần) . Đêm chíến dịch, dưới hầm chỉ huy. Trước mặt là sông Tập Ngãi đầy dừa nước, gió lạnh tái tê . Sau lưng là đồng hoang , ếch nhái kêu buồn da diết. Trời không trăng sao. Suy tư, buồn nhớ bạn bè thời phổ thông ở trung học Ngô Quyền (Biên Hoà), tôi viết.

Xa chúng mày tao buồn cô độc.

Ngồi làm thơ hút thuốc đốt thời gian.

Những kỷ niệm chợt khơi mầm sống dậy.

Bên cà phê bên khói thuốc miên man.

Tao nhớ quá những ngày xưa thân ái.

Mình chung trường chung màu áo học trò.

Giờ sách vở cũng trở thành xa lạ.

Cổng trường xưa còn có đợi chờ ?

Bạn bè chung lớp giờ còn dăm đứa.

Áo chinh nhân bên gươm súng miệt mài.

Đứa trở lại nưả hình hài tàn phế.

Trắng cuộc đời trắng cả tương lai.

Tao rồi cũng lăn thân vào sương gió.

Nắng quê hương in mái tóc phiêu bồng.

Chút nước mắt tưới xanh hồn cây cỏ.

Trả ơn đời trả nợ núi sông.

Lần về phép gặp nhau mừng kể lể.

Chung bàn tròn ly rượu ấm chuyền môi.

Men rượu đắng nhưng thâm tình vẫn ngọt.

Ngôn ngữ nào kể hết chuyện chia phôi.

Uống dùm tao tách cà phê nóng.

Đắng cay nào còn đọng trên môi.

Như thiếu chút gì trong cuộc sống.

Tao ngồi đây nghe thương nhớ đầy vơi.

Đêm chiến tuyến bên nổi buồn ngút mắt.

Trời vào đông sương buốt lạnh tái tê.

Tay gối súng chừng nghe đời ngoảnh mặt.

Rừng cây xanh ngăn kín lối đi về.

Mai hết giặc tao về bên gối mẹ.

Ôm cuộc đời rao bán người mua.

Đời sẽ buồn và đời sẽ chán.

Vì tương lai có cũng bằng thừa.

Điếu thuốc tàn như ngày chợt tắt.

Tao trở về hiện tại của tao.

Những hào lũy kẽm gai giăng mắc.

Ngày mai ơi ! Xin vẫy tay chào.

THƯ CHO BẮNG HỮU Ở BH. 9 /1973

* PHÂN KHÚC 2 : NHẬT KÝ YÊU ĐƯƠNG

_ Lúc đi chiến dịch ở Cần Thơ , tôi có nhắn về gia đình đánh điện tín giả để xin về phép vui Noel . Hơn 16 giờ ngày chủ nhật 24/12/1972 từ tiểu khu Phong Dinh ra , với tờ phép trên tay, tôi đi xe tốc hành về thành phố . 20 giờ đến bến xe Miền Tây . 22 giờ về đến Biên Hoà vui chơi với bè bạn . Sáng ngày 25, gia đình báo tin "em đã làm lễ đính hôn ngày hôm trước nửa (23/12), với một người không yêu thương nhưng giàu có" . Lần về phép buồn . Sau này , trong đồn vắng ở Tiểu Cần , nhớ kỷ niệm xưa tôi viết.

Ta về phố Chợ Đồn xưa.

Tay đong nước mắt cho vừa nhớ thương.

Từ ta đánh vỡ thiên đường.

Trái si mê rụng nghe vương vấn sầu.

Em về khoát áo cô dâu.

Mình ta đếm bước qua cầu đắng cay.

Mây trên đỉnh núi còn bay.

Nghìn năm ta vẫn mơ hoài dáng Liên.

Ta xa phố thị hoa đèn.

Tay ôm thép súng lên miền đảo hoang.

Ở đây gió núi trăng ngàn.

Đêm ru nổi nhớ đốt vàng tuổi ta.

VỀ CHỢ ĐỒN YÊU DẤU. 5/1973

- Ngày em vu quy tôi viết.

Em về ngủ giữa tay người.

Se sua màu áo cho đời lên cao.

Ta nghe hồn bỗng xôn xao.

Ân tình xưa cũ tiêu dao tháng ngày.

Ta ôm mộng giữa tầm tay.

Mộng đời tan vỡ ta say say buồn.

Trời thu lá đổ muôn phương.

Đêm ta quét lá dọn đường em đi.

Bây chừ còn laị những gì.

Ngày mai em đã vu qui theo chồng.

Em vui bên xác pháo hồng.

Ta ôm nổi nhớ đi rong giữa đời.

Giờ xin trả lại cho người.

Bờ mi ánh mắt tiếng cười ngày xưa.

Ta đi giữa cuộc gió mưa.

Tay đan nước mắt phân bua cuộc tình.

LỤC BÁT CA BUỒN. 6/1973.

_ Thất tình , buồn với chung rượu giải sầu, tôi viết thơ say.

Ta bên một túi thơ đầy.

Nửa bi đong rượu để say quên đời.

Trong ta máu đỏ ngừng trôi.

Rượu say, say tỉnh nghe đời ngả nghiêng.

Tay trăm nhánh mọc ưu phiền.

Đong đưa nổi nhớ lên triền lũng cao.

Bây chừ tình ái xanh xao.

Tay đan nước mắt ta đào mộ ta.

THƠ SAY. 7/1973.

_ Về lại chốn xưa, không còn gặp em . Nhớ lại những ân tình thưở còn đi học, rồi thân phận bây giờ : Tuổi trẻ, tình yêu, cuộc chiến tôi viết.

Em đã đến như triều dâng thác lũ.

Cuốn hồn ta giữa cơn sóng xô bồ.

Nắng hanh vàng cho hoa tình nở nụ.

Ta quay cuồng thành tượng đá ngây ngô.

Chiều tan học ta về qua phố cũ.

Tìm dáng em trong màu mắt thân yêu.

Ngày tháng đó tình hồng lên rộn rã.

Yêu rất nhiều như một thưở người yêu.

Rồi một thưở sông buồn gieo sóng nhớ.

Ta ra đi cho vẹn ước mơ xưa.

Tình ngỡ đẹp nên tình vẫn đợi.

Nhưng tin yêu đã lạc bến mong chờ.

Ta trở laị bằng linh hồn tượng đá.

Ôm trái sầu nghe nhức nhối đường tim.

Con thuyền cũ giờ ra đi vội vã.

Ta muôn đời theo dõi dấu chân chim.

Dòng sông nào cũng xuôi về biển cả.

Người con gaí nào rồi cũng theo chồng.

Em giờ đã về nơi xa lạ.

Ta phương này thương nhớ mãi dòng sông.

Một thưở yêu người xanh hồn lá uá.

Nhánh rong rêu mọc phủ cánh tay đời.

Ta trọn kiếp xin làm chim rừng núi.

Tìm tình yêu bên những ánh sao rơi.

MỘT THƯỞ YÊU NGƯỜI. 5/1973

* PHÂN KHÚC 3 : TIỀN NHẬP NGŨ

_ Năm Mậu thân 68 , tôi đang học lớp đệ tam Ngô Quyền . Từ Biên Hoà, nhìn về hướng rừng Cò Mi (Bình Dương) , quê ngoại cuả tôi, những chiếc B57 đang lao xuống bỏ bom . Tôi viết.

Con chim sắt buông mình lao vụt xuống.

Một tiếng ầm như xé nát không gian.

Một hố sâu chôn tội ác tham tàn.

Đó vết tích cuã những ngày binh lửa.

Đó là 4 câu thơ đầu tay của tôi . Bây giờ vùng đất đó đã là khu công nghiệp Nam Tân Uyên , với lò gạch, với nhà máy. Ngày xưa đó là vùng trắng

_ Năm Mậu thân , tình hình chiến sự leo thang, chiến tranh về thành phố . Việc học của bọn mình gián đoạn . Hoãn dịch hạ thêm một tuổi . Bạn bè lần lượt vào quân đội . Lần đầu tiên mình biết lo âu . Một ngày trên quê hương dài quá .

Buổi sáng thức dậy ngửa mặt nhìn trời.

Bè bạn xa rồi mỗi đứa một nơi.

Thằng đi biệt động, thằng vào lính thủy.

Cuộc chiến tranh này giết tuổi hai mươi.

Buổi trưa đi học qua phố thị buồn.

Kẽm gai giăng đầy trên khắp nẻo đường.

Người lính gác già tay nâng khẩu súng.

Viên đạn trong nòng như sẵn sàng tuôn.

Một chuyến xe tang đi về nghĩa điạ.

Mang cổ quan tài phủ lá quốc kỳ.

Phố thị u buồn hàng cây lặng lẽ.

Như cúi đầu chào như tiễn người đi.

Người lính trở về bằng đôi nạng gỗ.

Bàn chân kiêu hùng gởi tặng quê hương.

Từng bước âm thầm lê trên hè phố.

Nhân thế bây giờ còn mấy người thương ?

Buổi chiều xuống chậm từng tia nắng nhạt.

Đêm tối lần về với vạn tang thương.

Từng loạt súng vang phá tan giấc ngũ.

Mẹ bồng con thơ chạy giữa đêm trường.

Ngày trên quê hương còn nhiều đổ vỡ.

Ngày trên quê hương còn máu xương rơi.

Xin một ngày yên không nghe súng nổ.

Xin một ngày mai được thấy mặt trời.

NGÀY DÀI TRÊN QUÊ HƯƠNG. 1968

Năm đó tôi học lớp đệ nhị . Đồng thời tôi cũng tâm đắc mấy câu thơ của đàn anh lớp đệ nhất (tôi không nhớ tên ) , đăng trên Đặc San Xuân Ngô Quyền , tôi xin mạn phép sao chép lên đây.

Buổi sáng thức dậy mặt trời mù sương.

Không phận quê hương biến thành phi trường.

Từng chuyến bay đêm nghe lời quỷ dụ.

Người chết nhục nhằn dưới ruộng trên nương.

Buồi sáng thức dậy mở ra-di-ô.

Tổng kết thiệt hại từ xưa đến giờ.

Địch đã phơi thây gần nửa triệu.

Một nửa triệu người, mấy triệu khăn sô.

Quê hương tôi có sân bay quân sự Biên Hoà to lớn lúc bấy giờ , sau Tân Sơn Nhất.

_Tháng 6/1972 lúc nhận lệnh nhập ngũ chuẩn bị rời xa bảng trắng, học đường , người thân , bè bạn, tôi viết.

Em vui chín chục ngày hè.

Ta về hong nắng vàng hoe tóc đời.

Tay đưa, tay đón mọc mời.

Quê hương mình đó rã rời dung nhan.

Ta ôm tuổi ngọc lên ngàn.

Hai bên thây chết xếp hàng tiễn chân.

Rồi theo ngày tháng lớn dần.

Ta đi viết sử cuả dân da vàng.

Muời năm cuộc chiến chưa tan

Máu hồng, xương trắng trang hoàng quê hương.

Súng bom ru giấc mê đường.

Đưa hồn nhân thế qua truông hận thù.

HÀNH TRANG VÀO ĐỜI. 6 /1972

_ Nghĩ đến thân phận : Tuổi trẻ , Quê hương, Chiến tranh , Học trò , tôi viết :

Chưa tròn tiếng khóc chào đời.

Tai nghe súng nổ thay lời mẹ ru.

Lớn trong khói súng xa mù.

Và quê hương mẹ mang tù chung thân.

Muời năm cuộc chiến lớn dần

Bàn tay lửa máu đốt lần quê hương

Đàn con ra mặt chán chường

Cất cao tiếng hát mười phương cũng buồn

Từng đêm chớp bể mưa nguồn.

Bom rơi súng nổ dậy hồn tuổi thơ.

Ngày lên nét mặt bơ phờ.

Ôi, quê hương đó với giờ đạn reo.

Giã từ kiếp học trò nghèo.

Bỏ nghiên , bỏ bút lên đèo núi cao.

Nằm đêm bên lũy chiến hào.

Nghe hồn uổng tử thét gào trong đêm.

NHỮNG KHUÔN MẶT HÔM NAY. 10 /1969

_ Trước ngày nhập ngũ , đêm chia tay, bạn gái khóc , tôi viết.

Thôi em chớ khóc than nhiều.

Đong đưa nước mắt anh tiều tuỵ thêm.

Nín đi em , nín đi em.

Để anh đốt lửa thắp đèn tương lai.

ĐOẠN KẾT :

_ Đêm Đồng Pan cô quạnh . Suy tư, không ngủ được . Nhớ buổi chiều vợ hiền đến thăm , không có mang theo con gái đầu lòng (cháu chưa đầy tuổi) . Nhìn tấm ảnh hai mẹ con , buồn , tôi viết,

Hàng trăm cây số em đến thăm anh.

Mang những quà xinh chứa nặng ân tình.

Anh đứng lặng yên nghe hồn bật khóc.

Một chút gì buồn vương trong mắt anh.

Anh nhìn mắt em để nhớ Bé Hiền.

Đôi mắt nào tròn, đôi mắt nào đen.

Ơi ! hình dáng này cho anh cuộc sống.

Anh thấy cuộc đời như rạng rỡ thêm.

Anh muốn thời gian ngừng chuyển động.

Để ngày tương ngộ kéo dài thêm.

Khăn tay anh chặn sầu lắng xuống.

Như ngày đầu anh phải xa em.

Nắng đã lên cao ngày vui xuống chậm.

Anh trả em về phố thị đèn hoa.

Chim rừng cất giọng như lời đưa tiễn.

Anh nhìn dáng em theo bụi đường xa.

Áo tím quay lưng về phố chợ.

Bụi đường níu hộ áo dùm ta

Giữa chốn thâm sơn anh vẫn nhớ.

Bè bạn chia nhau chút muối cà.

Áo tím đi rồi , còn anh ở đây.

Với ngàn cây xanh với lá khô bay.

Đêm rừng gió núi sương khuya lạnh.

Em ở quê nhà em hỡi có hay.

Tôi lập gia đình trước biến cố lịch sừ 9 ngày . Khi vào trại 6 / 1975 vợ tôi mới cấn bầu . Ngày đó bọn tôi thường hay nói với nhau.

Ngày đi con chưa ra đời.

Ngày về con đã rong chơi khắp nhà.

Tháng 4 /1977 tôi ra trại cải tạo. Rồi vì cuộc sống, cơm, áo, gạo, tiền, suối thơ cạn dần, hồn thơ không còn lai láng. Hy vọng sẽ có thêm những vần thơ mới tiếp theo.

Đỗ Công Luận

CHS K.08 NQ BH