Bài Viết

- NGƯỜI THẦY DẠY VIỆT VĂN VÀ ĐỨA HỌC TRÒ THÍCH LÀM THƠ

- CHA VÀ CON

- MÙA NOEL KỶ NIỆM

- TẢN MẠN CHUYỆN THẦY CÔ, TRƯỜNG LỚP CŨ

- NGÀY ĐẠI HỶ

- BAY CAO, DIỀU ƠI!

NGƯỜI THẦY DẠY VIỆT VĂN VÀ ĐỨA HỌC TRÒ THÍCH LÀM THƠ

Thầy Phạm Ngọc Quýnh

Sau khi học xong bậc tiểu học ở Chợ Đồn, niên học 1962-63, tôi nộp đơn dự thi vào lớp đệ Thất trung học công lập Ngô Quyền. Kết quả không được như mong muốn của bản thân và gia đình. Tôi phải học một năm đệ Thất ở trường tư thục Minh Tân để năm sau dự thi lại vào NQ. Bởi vì, nếu lúc đó được học ở trường trung học công lập duy nhất của tỉnh lỵ Biên Hòa là điều hảnh diện. Ăn Tết xong, tôi đã ôn tập bài vở, học luyện thi với ý chí cao để được "bảng hổ đề danh". Tôi đã được đền đáp xứng đáng, đậu thứ hạng 6 trong tổng số trên hai trăm học sinh được chọn.

Tôi được nhà trường xếp vào lớp đệ Thất 3 Pháp văn, toàn là nam sinh. Có lẽ đã học qua một năm đệ Thất ở trường Minh Tân, kết quả học tập năm đó tôi có thứ hạng cao trong lớp. Đầu niên học 1964-65, lên đệ Lục, thầy Đặng Ngọc Thiềm được bổ nhiệm về làm giám học mới, chuyển 14 học sinh giỏi lớp Thất 3 sang Lục 1, và số nam sinh Thất 1 sang Lục 3, vì vậy số còn lại là nữ sinh. Tôi lại gặp lại một số bạn nữ đã học chung với tôi thời tiểu học ở Chợ Đồn. Năm đệ Lục, đệ Ngũ trôi qua, tôi học tập đều đặn và có thứ hạng trong lớp.

Niên học 1966-67, lớp đệ Tứ 1 của chúng tôi đang ở giai đoạn cuối của trung học đệ nhất cấp, để năm sau lên đệ nhị cấp, làm người lớn. Đó là lứa tuổi 16 trăng tròn, tuổi bắt đầu biết mơ mộng. Theo chủ trương của Bộ Giáo Dục, niên khóa 1966-1967, là năm đầu tiên bỏ thi tốt nghiệp trung học đệ nhất cấp, chỉ lấy kết quả bốn năm học để xét tuyển cấp giấy chứng nhận tốt nghiệp. Lớp đệ Tứ 1 của chúng tôi do thầy Phạm Ngọc Quýnh làm giáo sư hướng dẫn, Thầy kiêm dạy luôn môn Việt văn. Tôi nhớ rõ, lúc đó thể trạng thầy cao, gầy. Thầy đứng trên bục giảng, mặc quần tây dài còn thấy rộng thùng thình, sợi dây nịt bó sát vào lưng. Bù lại, Thầy có đôi mắt sáng tinh anh. Thầy giảng bài rất lôi cuốn học sinh, giọng Bắc chuẩn, tiếng nói rất thanh, cuối lớp còn nghe rõ. Dù rằng không bị áp lực về thi cử, nhưng do năm đó tôi có "để ý" cô bạn chung thời tiểu học, bây giờ lại chung lớp, nên tôi cố gắng học tập để không thua chị, kém em.

Có lẽ với phong cách giảng bài lôi cuốn của Thầy và sự cố gắng học tập của tôi, năm đó tôi đứng đầu lớp môn văn. Kết quả học tập cuối năm, tôi đứng thứ hạng ba trong lớp, có lẽ kết quả một phần nhờ mãnh lực tình yêu. Trước ngày tổng kết năm học ở trường và “chia tay phượng nở, sang hè", Thầy đã tổ chức tiệc cuối năm cho cả lớp. Với tính cách người thầy nhiều năm đứng trên bục giảng, Thầy muốn buổi tiệc chia tay lớp của chúng tôi thật ấn tượng và có ý nghĩa. Cũng có bánh trái, nước ngọt và văn nghệ tự biên, tự diễn. Thầy nói với cả lớp:

- Sang năm các em lên đệ Tam, phân chia ra nhiều lớp theo các ban A, B. Mỗi em chuẩn bị một món quà lưu niệm, rồi đánh số. Em nào bắt thăm được số nào, nhận món quà theo số đó. Đó là kỷ niệm của bốn năm đệ nhất cấp.

Vì không có sự chuẩn bị sẵn, tôi chọn đại một bản nhạc trong xấp nhạc do Võ Hà Mỹ mang đến. Bản nhạc có tựa đề NHỮNG KHUÔN MẶT HÔM NAY, không nhớ tên tác giả, do nam ca sĩ Duy Khánh trình bày. Ca sĩ này là thần tượng âm nhạc của tôi. Nội dung bài nhạc nói về tuổi trẻ và cuộc chiến quê hương. Tôi ghi vội mấy dòng chữ lưu niệm vào đấy. Kết thúc phần bắt thăm, tôi linh cảm người bạn gái của tôi nhận được kỷ vật nầy. Rồi chúng tôi chia tay, lên đệ Tam được sắp xếp sang nhiều lớp. Tôi vào đệ Tam B3, bạn gái tôi vào Tam B1, thầy giáo dạy Việt văn chuyển nhiệm sở. Thầy chuyển về làm Hiệu trưởng trung học Công Thanh. Thầy và trò không gặp nhau từ đó. Một khúc quanh của cuộc đời đối với tôi.

Năm học sau, ở lớp đệ Tam B 3, tôi gặp lại một số bạn Thất 3. Có một số bạn lên Nông Lâm Súc Bảo Lộc. Giữa năm học, dịp Xuân về, chiến cuộc Mậu Thân xảy ra. Một số bạn bè tôi không đủ tuổi hoản dịch, phải vào quân đội, vào Đồng Đế, Quang Trung. Năm đệ Tam, trước bối cảnh đất nước, với sức học về văn, tôi tập tành làm thơ nói về thân phận quê hương. Tôi ký tên dưới bút danh THI QUỐC SẦU, như nổi buồn của quê hương. Nhớ lại kỷ niệm ở năm đệ Tứ, nhớ về bản nhạc năm xưa, tôi viết bài NHỮNG KHUÔN MẶT HÔM NAY, gồm bốn khổ thơ lục bát, kể về bốn thân phận.

TUỔI TRẺ

Chưa tròn tiếng khóc chào đời.

Tai nghe súng nổ thay lời mẹ ru.

Lớn trong khói súng sa mù.

Và quê hương mẹ mang tù chung thân.

CHIẾN TRANH

Mười năm cuộc chiến lớn dần.

Bàn tay lửa máu đốt lần quê hương.

Đàn con ra mặt chán chường.

Cất cao tiếng hát mười phương cũng buồn.

QUÊ HƯƠNG

Từng đêm chớp bể mưa nguồn.

Bom rơi, súng nổ, dậy hồn trẻ thơ.

Ngày lên nét mặt bơ phờ.

Ôi, quê hương đó từng giờ đạn reo.

HỌC TRÒ

Giả từ kiếp học trò nghèo.

Bỏ nghiên, bỏ bút, lên đèo núi cao.

Nằm đêm bên lũy chiến hào.

Nghe hồn uổng tử thét gào trong đêm.

THI QUỐC SẦU

Năm tôi học lớp đệ Nhị, Xuân Kỷ Dậu 1969, tôi gửi bài thơ này và được chọn đăng ở đặc san Xuân của trường. Trong đặc san Xuân năm đó, có một bài thơ của lớp đàn anh mà tôi lấy làm thích, có 8 câu tâm đắc nhất tôi còn nhớ rõ. Khi tập thơ VIẾT CHO KỶ NIỆM của tôi gửi lên một diễn đàn, anh Trần Minh Tâm, K.07 NQ, nhận ra tôi là lớp đàn em. Anh nói, anh là người chủ biên đặc san Xuân của trường năm ấy, nhưng người bạn đồng môn, tác giả bài thơ mà tôi thích, anh không nhớ rõ là bạn nào. Tôi xin mạn phép nhờ trang web Ngô Quyền chuyển tải mấy câu thơ này, nếu tác giả còn liên lạc với trang web NQ sẽ nhận ra tác phẩm tim óc của mình.

.......

Buổi sáng thức dậy mặt trời mù sương.

Không phận quê hương biến thành phi trường.

Từng chuyến bay đêm nghe lời quỉ dụ.

Người chết nhục nhằn dưới ruộng trên nương.

Buổi sáng thức dậy mở ra-đi-ô.

Tổng kết thiệt hại từ xưa đến giờ.

Địch đã phơi thây gần nửa triệu.

Một nửa triệu người, mấy triệu khăn sô.

.......

Mùa hè đỏ lửa năm 1972, tôi vào quân đội. Khi ở đơn vị về thăm gia đình, tôi mới hay cô bạn gái lối xóm mà tôi đã "thầm yêu nhưng tình chưa dám ngỏ", vì chữ hiếu đã vâng lời mẹ sang sông. Tim tôi lúc đó dường như đã chuyển đổi sang màu đen, không còn màu đỏ tươi nữa. Trở lại với đơn vị, đối diện với hiểm nguy rình rập, những lúc cô đơn, suy tư, tôi nghĩ về em. Những bài thơ tình, nhưng bi quan, lại ra đời. Tôi nhờ quân bưu chuyển đến các tờ báo ở Sài Gòn. Em gái tôi đọc được, cắt ra, cất vào ngăn sách. Sau này, từ trại tập trung trở về với gia đình, vợ con, chẳng bao lâu, em gái đã trao cho tôi những bài thơ cắt từ trang báo, giấy đã úa vàng.

- Anh cất làm kỷ niệm cho đời.

Hơn ba mươi năm vì cơm áo gạo tiền, những bài thơ tôi đã để thất lạc đâu đó mà không tìm được. Nhưng trong bộ nhớ tôi thì cứ vẫn như in. Suốt khoảng thời gian đó cũng chẳng có bài thơ nào được ra đời. Hơn một năm nay, qua trang mạng, qua bạn bè, tôi tìm về kỷ niệm với bạn bè thân, cũng như tìm đến trang web Ngô Quyền, đồng hương Biên Hòa. Khi gánh nặng gia đình được tháo bỏ phần nào, khi các con cái đã trưởng thành, tôi có cuộc sống thong dong hơn. Những ý niệm về cuộc sống, kỷ niệm với bạn bè sau bao nhiêu năm nằm sâu lắng, giờ có dịp thức dậy trong tôi. Những bài thơ lại tiếp tục ra đời. Dịp Xuân Nhâm Thìn, có lẽ quá yêu nàng Xuân, một chùm thơ Xuân đến với tôi. Trên một diễn đàn, một vị thân hữu phụ trách trang web liên trường Vĩnh Long, trong đó có trường Tống Phước Hiệp, tongphuochiep.com , có cảm tình với tôi, đã trao đổi và chọn 4 bài thơ Xuân post lên trang web trường bạn. Người làm thơ cảm thấy hạnh phúc khi đứa con tinh thần của mình được quan tâm.

Dù không được như là Nguyễn Tất Nhiên, thi nhân đa tài bạc mệnh, với "thà như giọt mưa, vở trên tượng đá, có còn hơn không, có còn hơn không". Dù không như là Trần Trung Đạo với "đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười". Dù không được như là Lê Văn Nghĩa, bạn thơ của người bạn tôi quen trong tháng ngày nơi căn gác xếp của hẻm Nguyễn Thiện Thuật ở Sài Gòn.

Em đã đi như lần em đã đến.

Dòng sông xưa nước vẫn cuộn sa mù.

Ta ngồi lại bên cầu thương dĩ vảng.

Nghe giữa hồn cây cỏ mọc hoang vu.

Nhưng tôi nghĩ những lời thơ của mình là trãi lòng ra với mọi người. Tôi đã cùng trái đất quay 61 vòng quanh quỉ đạo, còn bao nhiêu vòng nữa trước khi nhắm mắt xuôi tay. Đây là lúc trí óc còn minh mẫn, hãy vui lên theo ngày tháng còn lại trong đời. Có người bạn đã nói.

- Những bài thơ của Luận được in ra tập thơ, mình phải có bản đầu tiên.

Có người bạn đã hỏi.

- Tao không ngờ mầy có khiếu thơ văn.

- Tại vì năm đệ Tứ tao đứng đầu môn văn của lớp.

Thầy kính yêu của con, thầy trò ta đã không gặp lại nhau hơn bốn mươi năm qua. Nhưng qua trang web NQ, con đã gặp lại hình ảnh của Thầy. Không ngờ có sự khác biệt đến lạ thường. Thầy rất phong độ và "đẹp lão", khuôn mặt không xương xẩu như ngày xưa. Cầu xin ơn trên ban phúc cho Thầy, để có sức khỏe tốt và tinh thần minh mẫn. Khi bài viết nầy gửi đến Ban Biên Tập trang web NQ, Thầy đang hạnh ngộ với đồng nghiệp và học trò xưa nơi Cali nắng ấm. Con hy vọng cũng sẽ có ngày tương ngộ với Thầy, như đã gặp lại thầy Huỳnh Bá Hạnh, giáo sư Pháp văn của trường Minh Tân, nơi quê hương xứ Bưởi nhân dịp đầu Xuân vừa qua. Lúc nào con cũng ghi nhớ về một người thầy kính yêu dạy môn Việt văn với tâm tư người học trò thích làm thơ.

Biên Hòa, 23 giờ 30, 31/03/2012.

Đỗ Công Luận

CHS K.08 NQ BH.

CHA VÀ CON

Ba thân yêu của con,

Hôm nay con ngồi đây viết những lời nầy thì cha con ta đã thực sự xa nhau hơn nửa tháng. 60 năm con sống với ba, cũng như 95 năm cuộc đời ba là chuỗi ngày bất tận. Trong niềm tiếc thương vô hạn, ký ức của con sẽ mất đi khi con theo về với ba. Con muốn kỷ niệm của cha và con sẽ được lưu lại cho con cháu mai sau. Hai cuộc đời, hai thế kỷ trãi qua cuộc sống của kiếp người trong bể trầm luân hỉ, nộ, ái, ố...rồi cũng về với cát bụi mà thôi. Nhưng cuộc đời ba vẫn còn mãi trong tâm tư của các con.

Ba chào đời trong thời kỳ khổ đau của đất nước. Dân tộc ta chịu sự đô hộ của người Pháp. Bình diện bên ngoài thế giới, cuộc thế chiến thứ nhất sắp đi vào giai đoạn kết thúc. Gia cảnh nghèo, như cái nghèo của dân tộc, nội làm nghề đánh xe thổ mộ. Học xong tiểu học, ba phải rẽ ngang cùng bác Hai vào học nghề ở trường Mỹ nghệ Biên Hòa. Học xong 4 năm ở trường nghề, bác Hai lên làm thợ xoay chén ở Thủ Dầu Một. Ba bỏ năm học cuối để theo anh mình đi làm kiếm tiền về phụ gia đình nuôi 6 đứa em thơ dại. Nơi lò chén, ba gặp mẹ. Đất Thuận Giao là quê nội của mẹ. Ông bà cố khá giả, có nhiều ruộng đất. Nhưng ông ngoại không chí thú làm ăn, tối ngày say xỉn. Mẹ thuận tình về làm dâu xứ bưởi. Năm 1938, khi mẹ sinh anh hai thì bà nội cũng sinh chú út.

Từ đôi tay tài hoa người thợ.

Mẹ gặp cha nơi lò gốm thân quen.

Trai xứ Biên, bén duyên gái Thủ.

Những mầm xanh từ đất vươn lên.

Rồi ba và mẹ về lại Chợ Đồn, bỏ đi những năm tháng làm thuê nơi xứ xa. Ba về làm ở trường Mỹ nghệ Biên Hòa, nơi ba được đào tạo những năm về trước. Rồi lần lượt những đứa con ra đời. Ba và bác Hai cùng các cô chú cố gắng làm lụng để nuôi ông bà nội đau yếu. Con chào đời khi ông nội đi xa đã được hai năm. Khi con bốn tuổi,bà nội cũng bỏ con cháu theo về với ông nội. Lúc đó con đã có trí khôn. Con nhớ, ngày đưa bà nội về quê mẹ ở xã Tân Hạnh, con mặc đồ tang trắng bằng vải mùng, ngồi bên hông xe nhà giàn. Đoàn đưa tang kéo dài đến Chợ Đồn cũ. Đó là thời kỳ yên bình của đất nước sau 80 năm đô hộ của người Pháp. Người dân và chính quyền bắt đầu xây dựng lại đất nước. Vùng đất Chợ Đồn cũng có sự thay đổi. Ngôi chợ cũ nằm cập bến sông được dời về gần ngã tư, trên nền đất của Tổng hành Dinh đạo Cao Đài. Mãnh đất của ông bà nội để lại cho con cháu được may mắn nằm đối diện chợ Bửu Hòa mới. Cơ hội thoát nghèo cho dòng họ Đỗ của ta. Căn nhà mình ở hiện tại, hồi trước nội cho người ta thuê cất nhà. Bây giờ hòa bình lập lại, người ta đồng ý trả đất, với điều kiện gia đình phải mua căn nhà. Ba hỏi các cô chú, không ai có đủ khả năng tài chánh. Ba chạy khắp nơi, mượn bạn bè, mượn hụi, đủ số tiền 50.000 vnđ, thời điểm 1958, để mua lại căn nhà bề ngang 8 mét, dài 20 mét. Cô năm Hiếu, chủ nhà cũng là chủ lò gạch, nói với ba :

_Cậu Ba nên xây gạch lại hai tấm vách nhà , vì bằng cây đã mục. Tôi bán gạch thiếu cho cậu, có tiền trả sau.

Ba cảm ơn và từ chối vì sợ nợ chồng thêm nợ.

Phố xá mọc lên quanh ngôi chợ mới. Nhà mình mở cửa hàng tạp hóa. Má thôi không còn hàng ngày quảy đôi thúng chén sành sứ sang chợ Biên Hòa để bán. Hai chị đã lớn, cùng má trông nôm cửa hàng. Ba vẫn hàng ngày đi làm ở trường Mỹ nghệ bằng chiếc xe máy Sachs hiệu Capri. Mỗi sáng khi đi, ba mang theo một lon sửa bò gạo,và một lon guigoz thức ăn đựng trong túi vải "bồng bột".

Tết Nguyên Tiêu năm 1959, lần đầu tiên trong đời con được ba dẫn đi chơi xa. Ba và con, chú Hai Tài Ký và chị Kim, được chú Tài phú của nhà ông Ban Kiết chở trên chiếc xe con cóc Citroen đi vía Bà ở Thủ Dầu Một. Lễ rước kiệu Bà được tổ chức buổi chiều. Kiệu Bà rước đến đâu, pháo được đốt đến đó. Các dây pháo thả dài từ trên lầu đến mặt đất. Cù, lân, rồng, hàng mấy chục con múa diểu hành theo đoàn rước kiệu. Đó là thời kỳ thanh bình sau mấy mươi năm chiến tranh của đất nước. Tối hôm đó, chú Tài phú đưa mọi người đi ăn cơm Tàu ở nhà hàng Chợ Lớn. Mấy năm sau, gia đình nghe tin chú bị tai nạn giao thông, tử nạn ở dốc 47 .

Xong cấp tiểu học trường làng, con thi vào trung học Ngô Quyền. Ngày có kết quả thi tuyển, ba đi làm về ngang nghe xướng danh. Gần hai tiếng đồng hồ đứng mỏi chân, không có tên con, ba thễu não về nhà.

_Đứng cả buổi mà không nghe tên mày. Có mày ở đó là tao đạp một cái rồi.

Cơn thịnh nộ của ba cũng là nổi buồn của con. Năm sau, con cố gắng ôn tập thi lại. Ngày có kết quả, con đậu thứ hạng 6 trong tổng số 250 học sinh được chọn. Ba đi làm về, con báo tin mừng cho ba, ba ôm con cười ra nước mắt. Mấy hôm sau, ba chở con đi Chợ Lớn lấy hàng về bán và mua sắm dụng cụ nhập học cho con. Một chiếc cặp da, môt cây bút máy Pilot màu đen, tập sách và cả chiếc áo mưa .

Năm 1963, con vào trung học, lưng ba còm thêm vì suốt ngày ngồi bên chiếc bàn xoay. Có lần, ba chở con vào chỗ làm. Con nghịch ngợm bên những cục đất sét trắng, nhào nặn in hình những con thú bằng những khuôn mẫu nhỏ. Con chạy lên đầu lò nung gốm, bên ống khói cao ngất, nhìn xuống bên dưới là đường rầy xe lửa, hai bên là những dạt lúa màu xanh.

Vẫn quanh năm oằn lưng làm thợ.

Nuôi đàn con ngày tháng lớn khôn.

Cha mãi là cây cao bóng cả.

Là bóng mây che chở đời con.

Đầu năm 1968, chiến cuộc diễn ra khốc liệt. Tết Mậu Thân. Ba lo âu thêm khi con phải đi học quân sự học đường một tháng. Riêng con, con vẫn cố gắng mỗi năm lên lớp, để được nhận giấy chứng nhận tình trạng hợp lệ quân dịch. Cuối năm 1970, con tốt nghiệp trung học, bắt đầu khúc quanh mới của sự nghiệp học tập, vào đại học.Con phải lên Sài Gòn trọ học, cuối tuần thứ bảy mới về nhà. Sáng thứ hai, được ba "viện trợ" tiền bạc và thức ăn khô cho con. Cà-phê bột, sửa hộp, mì gói, cá hộp, bột giặt..., những hàng hóa tiêu dùng của Nhật mà người Mỹ hào phóng ban cho qua hình thức viện trợ. Ba khuyên con cố học, tránh sự sa ngã của những hiện tượng xấu mới du nhập vào xã hội ta. Phong trào hippy, quần ống túm, vạt áo sơ mi dài bó gối, tóc tứ quái...Thấy bạn bè có xe gắn máy, con ước ao có một chiếc để đi học. Chú Tám xuống hãng hỏi thăm giá cả để "còm-măng". Một chiếc Honda dame "đập thùng "thời điểm đó 48.000 vnđ. Ba cũng đồng ý mua cho con, nhưng nhà phải mượn hụi, bớt vốn nhập hàng. Thấy vậy, con không đòi hỏi nữa. Một chiếc Mobilette Đức màu xanh mua lại, cũng là phương tiện để con đến trường và từ Sài Gòn theo ngã xa lộ về nhà mỗi tuần.

Mùa hè năm 1972, con xong năm thứ hai đại học,chuẩn bị bước vào hai năm chuyên nghành. Nhưng mơ ước không thành hiện thực. Chiến tranh Việt Nam đi vào đỉnh điểm. Mọi nguồn lực được đổ dồn vào cuộc chiến. Lớp trẻ chúng con bị cuốn vào vòng xoáy của chiến tranh. Ngày nhận lệnh nhập ngủ, ba buồn rầu nói với con.

_Thôi đành chấp nhận, chẳn lẽ trốn chui nhủi hay sao ?

Con mặc áo lính, giả biệt gia đình, bè bạn rồi vào trường Bộ Binh Thủ Đức. Mỗi sáng chủ nhật, ba mẹ mang, xách đến thăm con. Trong doanh trại, con háo hức chờ tiếng loa vang. Thức ăn khô được tiếp tế. Con chỉ ăn cơm ở nhà bàn, không dám la cà ở các câu lạc bộ. Con hiểu hoàn cảnh gia đình và sự khó nhọc của ba mẹ. Hàng quân tiếp vụ, bạn bè bỏ không mua, con mua lại rồi gửi cho gia đình để bán kiếm lời.

Cuối năm 1972, gió đã xoay chiều. Người ta không muốn theo đuổi cuộc chiến tranh hao tổn và bị dư luận lên án. Trò ngưng bắn được bày biện. Bọn SVSQ chúng con được làm công cụ tuyên tryền cho chiến dịch. Con được phân công công tác ở Cần Thơ, cách xa nhà gần 200 cây số. Ba mẹ lại lo lắng. Ba theo dượng Ba, em rể bác Hai gái, đến thăm con. Vì sự ham vui của tuổi trẻ, trước khi ba lên xe đò, con căn dặn ba.

_Gần đến ngày Noen, ba bảo các em gửi điện tín cho con để xin phép về thăm nhà.

Thực tế là con về để đi chơi với bè bạn ở Biên Hòa. Khi cầm tờ điện tín trên tay, con bàng hoàng.

_BA BỊ XE ĐỤNG NẶNG, GẢY TAY CHÂN. VỀ GẤP.

Ba ơi, hãy tha thứ cho con.

Rồi con ra đơn vị, về chiến trường Trà Vinh, đối mặt với cái chết và sự sống, dù rằng lệnh ngưng bắn ký chưa ráo mực. Hồi đó phương tiện thông tin liên lạc không đa dạng như bây giờ. Hàng ngày gia đình vẫn trông thư con. Có thư về là con còn sống. Cũng có thể thư đến nhà thì con đã xuôi tay. Cả tháng không có thư con, ba lại bắt xe đò xuống thăm con. Có lần, cậu Sáu , em mẹ, từ Long Thành về thăm anh chị, ba rủ cậu xuống Trà Cú thăm con. Ba và cậu đến nơi, con đang ở vùng hành quân. Anh hạ sĩ người Miên, tà lọt của đại đội trưởng, ngồi tọc mạch kể chuyện về con cho ba nghe. Tháng trước con suýt bỏ mạng ở Tập Ngãi, Tiểu Cần, vì đơn vị bị phục kích. Thôi thì số mạng chớ biết tính sao.

Rồi ba má cũng tìm cách chung lo để con không ở đơn vị chiến đấu. Đầu năm 1974, đơn vị trưởng đồng ý cho con về làm sĩ quan truyền tin đơn vị, để được đi học ngành, với điều kiện phải lót tay số tiền tương đương hai tháng lương. Con trình bày xong, ba đồng ý và đưa tiền để con xuống đơn vị gấp. Đôi khi đồng tiền cũng đổi được mạng sống của bản thân. Rồi con về Vũng Tàu học truyền tin. Rồi con chuyển ngành về Hành chánh tài chánh bằng năng lực của mình. Một năm đó là thời gian yên lành của tâm trí ba. Ngày tàn cuộc chiến, con mặc trở lại bộ dân phục. Nổi mừng vui của ba chưa dứt thì lại có nổi lo. Con phải vào trại tập trung để đánh bóng lại cuộc đời. Ba má lại phải trông chờ hàng ngày nhận giấy báo thăm nuôi để đến với con. Những chuổi ngày chờ đợi và âu lo.

Một đời cha, nước non ly loạn.

Nửa đời con, đất nước loạn ly.

Con vào lính, ngày con khôn lớn.

Cha theo con đến cuối cuộc phân kỳ.

Ba không còn làm ở Hợp tác xã Gốm nửa, mà về làm cho Xí nghiệp Gốm

của chú Ba Nam ở gần nhà. Ba đã 60 tuổi, như tuổi con bây giờ. Sức khỏe không còn như ngày xưa. Chiếc bàn xoay của ba đã được gắn cái mô-tơ chạy điện để không phải đạp chân. Ba sản xuất hàng thô tại nhà rồi giao cho xí nghiệp. Con từ trại tập trung trở về, ba bảo.

_Con phụ ba kéo hàng giao cho xí nghiệp, để người ta thấy mình có lao động mà không bị đưa đi kinh tế mới.

Khi hai đứa em con từ chiến trường Tây Nam trở về sau 3 năm chinh chiến, ba mới thở phào nhẹ nhỏm nói với gia đình.

_Sau cuộc chiến tranh nầy, gia đình mình không có bị thương vong, mất mát, đó là điều phước đức của ông bà để lại.

Ba đã dạy chúng con làm điều nhân nghĩa, trọng việc tốt, tránh điều xấu, đúng theo những điều đạo lý mà nội đã dạy cho ba. Nghèo cho sạch, rách cho thơm. Những khi rảnh rổi, ba kể cho con nghe về lai lịch của dòng họ. Thời ông sơ từ miền ngoài vào Nam lập nghiệp, sinh 2 người con. Đỗ văn Thông và Đỗ văn Minh. Một người định cư ở Lái Thiêu, Tân Uyên. Một người ở Chợ Đồn, Tân Vạn. Rồi sinh con, đẻ cái. Những người họ Đỗ ở Tân Uyên cũng có thể là bà con.

Rồi ba vẫn miệt mài lao động cho đủ thâm niên làm việc để được nghĩ hưu theo luật định. Hàng tháng ba vẫn lảnh số tiền lương hưu đủ để ăn sáng và tiêu vặt hàng ngày. Cuộc sống các con đã khá giả hơn xưa, đủ sức nuôi ba đến trọn cuộc đời. Nhưng ba không chịu ở không, có lẽ do lao động quen rồi. Ba xin làm lại cho xí nghiệp theo chế độ hợp đồng, ăn lương thời vụ. Hàng ngày ba vẫn đạp xe đến xí nghiệp. Có lần trên đường về, ba bị xe tải quẹt té, các con lo lắng. Nhưng nhờ trời, ba bình yên, không sao. Cho đến khi sức khỏe không còn cho phép, mắt mờ, tai yếu, ba mới chịu ở nhà với các con. Ba cũng không chịu nghĩ ngơi, bày bàn giấy số trước nhà, kiếm tiền ăn sáng.Thực tế là ba muốn tìm vui bên những người bạn già của ba. Buổi sáng, bên ly cà-phê sửa nóng, ngồi kể chuyện với tri âm, đó là niềm vui cuối đời. Nói trúng đề tài là ba thao thao bất tận.

Mười năm về trước, căn nhà của ba má gầy dựng đã được các em xây dựng thành căn lầu đúc 2 tấm sàn để làm nơi ở và mua bán. Bởi vì con người sinh ra nhiều mà đất không nở thêm được. Mỗi chiều, ba lên sân thượng trồng kiểng, tưới cây. Con mừng cho sức khỏe của ba. Một, hai năm sau, ba lên đến sân thượng phải ngồi nghĩ thở, các con bắt đầu lo lắng. Rồi các con không để ba ngồi bán số nửa, để bắt đầu phụng dưỡng tuổi già cho ba. Thấy ba ăn được, các con yên tâm. Thấy ba mệt khó thở, có lẽ lao lực quá độ, các con lo lắng.

Thêm một ngày mừng cha tuổi thọ.

Như thiên thu gọi ước mơ về.

Mẹ khuất bóng theo mây về núi.

Phụng lìa loan, kẻ chợ người quê.

Hai năm về trước, chú Bảy bị suy tim, hấp hối. Ba bảo các con đưa ba vào thăm chú, như một lần vĩnh biệt. Khi chú Bảy mất, ba đã mò mẩm đi quanh quan tài. Anh khóc em.Hai tuần trước khi ba mất, cô Năm bị đột tử, các con dấu kín không cho ba hay. Cho đến một ngày, sức tàn, lực kiệt. Như cây đèn dầu đã cháy sáng 95 năm, giờ dầu đã cạn dần,bấc đã lụi tàn, một cơn gió nhẹ thoảng qua, một cách an nhàn, ba đã vĩnh viễn lìa đời khi con cháu quay quần đông đủ.

Năm năm về trước, trước khi mẹ lìa đời, ba đã có ý nguyện hỏa thiêu thi hài. Ba nói, vì sợ người chết không yên khi phải cải táng để dành đất cho người sống. Khi mẹ được đưa về an táng trong nghĩa trang gia tộc họ Lưu ở Thuận Giao, ba lại có ý nguyện xin một chỗ an nghĩ cạnh mẹ, nơi miền đất phúc mà 75 năm trước ba mẹ gặp nhau. Ba cũng trăn trối với các con.

_Người ta sống, phải có nhà và ngủ ở nhà mình. Khi chết đi, nằm ngủ giữa trời đất.

Bây giờ các con đã làm đúng ý nguyện của ba. Hai ngôi mộ song song xây giống nhau, nam tả, nữ hữu. Chỉ có hàng rào bao bọc bên ngoài và không có mái che ( nhà mồ), để ba mẹ thanh thản nắm tay nhau giữa trời đất, xung quanh là mộ chí những người thân.

Giờ trong giấc ngủ bình an.

Sánh đôi huyệt mộ, phụng loan cận kề.

Trăm năm tình nghĩa phu thê.

Trời cao đất rộng, bốn bề tri âm.

Ba kính yêu của con,

Một đời người, một rừng cây. Khi ba mất đi đã để lại lòng thương tiếc vô hạn nơi các con. Hôm đám tang của ba, con thấy xót xa nhưng hảnh diện khi đoàn người xếp hàng chờ đợi để vào cúng viếng.Họ là bạn bè, đồng nghiệp của các em, cũng như là học trò của ba. Họ là những người thân, họ hàng, lối xóm, biết gia đình ta từ thuở Chợ Đồn còn hoang vu, nhiều mồ mã. Từ thuở 2 cây cầu sắt mới bắt qua sông Đồng Nai mà hồi đó nội có tham gia xây dựng. Từ thuở nội còn đánh xe thổ mộ lộc cộc từ Chợ Đồn xuống Tân Vạn, ngược lên bến đò Ngựa rồi vòng qua Cầu Hang. Niềm hạnh phúc dâng trào trong nổi buồn tang tóc. Con trai của con, đích tôn của ba, chỉ kịp về mặc bộ đồ tang rồi ôm linh vị ông nội trước giờ động quan ít phút. Bởi vì mấy hôm tang lễ của ba, cháu phải vào trường làm đồ án tốt nghiệp. Chắc ba tha thứ và không hờn trách cháu. Bốn tháng trước, lúc ba nằm bệnh viện, cháu về thăm ba. Con nắm tay ba và nhắn nhủ.

_Ba cố gắng sống, có thể là thêm một năm nửa, để cháu cầm bằng tốt nghiệp cho nội vui. Con là niềm hy vọng của ba, nhưng không thực hiện được ước mơ. Cháu sẽ thay con thực hiện ước mơ của ba.

Bây giờ ba đã vĩnh viễn xa lìa con cháu, theo quy luật sinh tử mà không ai tránh khỏi. Nhưng ba vẫn sống trong lòng chúng con. Trong tim con có chỗ cho ba mẹ nằm.

Thì thôi, ba ngũ ngàn năm.

Con còn đi khắp thế gian khóc cười.

Cuộc đời là vậy đó. Con còn nặng nợ với đời và sẽ tiếp bước ba, theo sau. Câu trả lời chỉ còn là thời gian.

Vĩnh biệt ba kính yêu của con.

Biên Hòa, 11 giờ 30, ngày 31/10/2011.

Đỗ công Luận.

CHS K.08 NQ

MÙA NOEL KỶ NIỆM

Chiều tối qua, tôi lấy xe máy chở cháu ngoại dạo một vòng quanh phố chợ Biên Hòa. Những ngày cuối năm, trời mau sụp tối. Phố đã lên đèn. Công viên bờ sông Đồng Nai bắt đầu nhộn nhịp. Từng đôi chầm chập thả bộ dọc theo công viên. Trên ghế đá từng cặp nam nữ đang chụm đầu vào nhau. Trên xe máy họ đang nói chuyện với nhau bằng ngôn ngữ đôi tay. Họ đang yêu nhau. Gió sông lành lạnh thổi lên. Xa xa, những chùm dây điện giăng giăng, chớp nháy những hình tượng ngôi sao, cây thông giáng sinh nhiều màu rực rỡ. Ngày Chúa giáng sinh sắp cận kề. Mùa noel kỷ niệm 1972 lại hiện về trong tâm trí của tôi.

Những ngày cuối tháng 11/1972, các khóa SVSQ chúng tôi đi chiến dịch tuyên truyền về cuộc ngưng bắn sắp diễn ra. Tôi công tác ở xã Thới An Đông, Cần Thơ, cùng với Nguyễn Văn Ly, chuẩn uý Nguễn Văn Á. Sau này còn có Trần Thanh Nguyên tăng cường. Thới An Đông là một xã nửa quê, nửa chợ. SôngTrà Nóc chảy bọc quanh xã, rồi đổ ra sông Hậu. Tỉnh lộ 72, quốc lộ 91 bây giờ, chạy cắt ngang qua và kéo dài đến tận Châu Đốc. Bên kia sông là phi trường quân sự Trà Nóc. Trụ sở xã nằm cặp theo sông, cách cầu Trà Nóc hơn 1 cây số.

Bác gái tôi quê ở Trà Ôn. Em rể bác, gia đình chúng tôi gọi là dượng ba. Những ngày đầu tháng 12, dượng ba lên Biên Hoà để thăm chị vợ và các cháu . Hôm trước ngày về quê, dượng ba có đến thăm ba má tôi.

- Tôi ở chơi một hai hôm nửa rồi về. Nghe nói anh chị ba định đi thăm cháu Luận. Sẵn tiện, anh chị theo tôi đến Cần Thơ. Tôi chỉ đường cho anh chị lên Trà Nóc. Sau đó tôi ra bến Ninh Kiều đón tàu đò về Trà Ôn.

Ba tôi thấy thuận tiện nên đồng ý, vì từ đó đến giờ ông chưa lần nào đi Miền Tây. Ở nhà khởi hành khoảng 4-5 giờ sáng. Đến trưa ba tôi đã có mặt ở trụ sở xã. Vì đã có điện báo trước, khi đi công tác về, tôi vội chạy qua để gặp cha mình. Bốn anh em chúng tôi ở bên Cuộc cảnh sát quốc gia, gần phòng máy. Tình hình các xã xung quanh có diễn biến gì chúng tôi đều nắm được. Sau một đêm hàn uyên, sáng hôm sau tôi đưa cha mình ra lộ để đón xe lên Cần Thơ, rồi về Biên Hoà. Hôm đó ở tỉnh Cần Thơ có tổ chức mít-tinh, đường xá nhộn nhịp hẳn lên. Trước khi chia tay, tôi cầm lấy tay cha và căn dặn :

- Khoảng 20, 21 tây, ba nói với mấy em đánh điện tín để con xin phép về thăm gia đình.

Thật sự là tôi muốn có phép để về chung vui với bạn bè ở Biên Hòa .

Chiều 22/12 khi đi công tác ở ấp về, anh văn thư xã qua trao bức điện tín cho tôi.

- BA BỊ TAI NẠN XE CỘ. GÃY CHÂN. NẶNG. XIN VỀ PHÉP.

Đọc xong nội dung, tôi hơi bàng hoàng. Có lẽ vì muốn có ép phê, nên em gái tôi mới viết như vậy .

Sáng 23/12/1972, sau khi tờ đơn được trình qua xã và chuẩn uý Á, tôi đáp xe đò lên quận để xin phép. Phải theo hệ thống quân giai. Chi khu cách xã hơn 10 cây số, về hướng Thốt Nốt. Hồi trước là quận Phong Phú, bây giờ là quận Ô Môn. Đến chiều, chi khu trưởng mới duyệt đơn cho tôi. Hồi đó, tôi quên là ngày 24-12, đêm noel, nhằm vào chủ nhật. Ngày chủ nhật được nghỉ, về tỉnh chơi, tôi mặc quân phục chỉnh tề, đem theo tờ đơn để trình ký luôn. Nếu có phép trong ngày thì sẽ có một đêm noel vui vẻ. Nếu không, ngày thứ hai về cũng được.

Khoảng 9h sáng, tôi vào tiểu khu, đến phòng văn thư. Đón tôi là một viên thượng sĩ già. Sau khi đọc xong hồ sơ, ông nhìn tôi và mỉm cười.

- Chuẩn uý đến hơi trễ một chút. Đại tá đã đi ra ngoài bằng xe jeep. Tờ đơn của chuẩn úy tôi đặt ở bàn làm việc. Nếu đại tá về, ký xong tôi đưa cho chuẩn úy về kịp tối nay.

Ông ta hiểu ẩn ý của tôi. Lúc đó tôi cảm thấy thời gian sao lâu quá. Ngồi lên ngồi xuống, đi tới đi lui. Hết giờ làm việc buổi sáng. Tôi thả bộ ra bến Ninh Kiều, gặm một ổ bánh mì, uống ly trà đá để rồi vào chờ đợi tiếp. Khoảng 3 giờ chiều, viên thượng sĩ ra gặp tôi với nét mặt hân hoan.

- Đại tá đã duyệt đơn của ông xong rồi đó. Tôi đánh máy tờ phép, ổng ký, vào sổ, là chuẩn uý sẽ về kịp.

Còn gì vui sướng cho bằng. 4h chiều tôi qua phà, lên bờ Vĩnh Long, đón xe tốc hành thẳng tiến về Sài Gòn. Không hiểu sau lúc đó tôi lì lợm quá. Dường như có cái gì thôi thúc. Trên xe tôi vẫn mặc nguyên bộ quân phục. Đoạn đường từ Cái Bè đên Cai Lậy, chiều tối VC thường ra chặn xe đò, sau khi thiết vận xa M113 của SĐ7 nằm án ngữ đã rút về căn cứ.

Hơn 8h tối, xe đò về đến bến xe Miền Tây. Tôi đón xe buýt vào thành phố , nhà thờ ngã sáu Chợ Lớn người ta đã bắt đầu đi lễ . Giờ đó xe đò Liên Hiệp không còn. Tôi phải đến bến xe Nguyễn Hoàng, đường Trần Phú bây giờ, để đón xe lô về Biên Hoà. Xe chạy theo hướng xa lộ, đến ngã ba Tam Hiệp, qua Tân Mai, rồi bỏ khách ở cây xăng Sáu Sử Biên Hùng. Về đến đó khoảng 10h đêm, tôi định đón xe người quen để về nhà.

- Anh Tuấn, cho em quá giang về nhà.

- Mày đi đâu mà giờ này còn ở đây?

- Em ở Cần Thơ mới về.

- Lên xe , tao chở về.

Anh Tuấn là người cùng xóm, đi lính không quân, là anh rể hụt của tôi. Bác hai tôi có người con gái thứ năm, tên Xuyến, cùng tuổi tôi. Mẹ tôi nói.

- Con Xuyến sinh ngày rằm tháng mười, mày sinh ngày ba mươi.

Cách đây 4 năm, mẹ tôi cũng mất vào ngày rằm tháng mười .

Chị ấy đẹp người đẹp nết, anh Tuấn mê mẫn tâm hồn. Khoảng 1970 cả giả đình bác tôi vào tu ở cùa Tam Bảo, suối Lồ Ồ. Anh ấy lỡ mộng yêu đương.

Xe vừa ra khỏi cầu Gành , hướng ngược lại phải chờ đèn đỏ. Tôi thấy một chiếc Toyota màu cà phê sữa. Tâm nhũi mày cầm lái đó sao?

- Anh Tuấn cho em xuống để đi chơi với mấy đứa bạn. Anh đừng nói với nhà em là em có về.

Trên xe còn có Tâm con, nó là sinh viên Sĩ Quan cảnh sát Thủ Đức, còn mặc nguyên bộ lễ phục. Nó không vào trường, mà ở lại ham vui với bạn bè. Có Nguyệt là em nó, em Thu, em Hằng. Tâm nhũi chở bọn tôi đi vòng lên mấy xứ đạo xem đèn. Dù đất nước đang chiến tranh, giáo dân đón mừng ngày Chúa giáng sinh long trọng và hoành tráng lắm. Các nhà thờ đều treo đèn sặc sỡ, có hình tượng Chúa cứu thế nằm trong máng cỏ. Sau đó nó đưa bọn tôi đến nhà bạn Chánh, có em gái tên Nga, nhà ở Hãng Dầu để dự tiệc. Cả gia đình này đang định cư ở Úc. Gần 2h sáng, tôi theo Tâm nhũi về nhà ở Tân Vạn để ngủ.

Sáng sớm, em trai tôi đã đem xe máy đến chở tôi về. Vừa bước vào nhà, mẹ tôi đã la rầy, cằn nhằn.

- Mày biểu tụi nó đánh điện tín trù ba mày chết. Về đến Biên Hòa rồi còn không chịu về nhà. Bận bộ đồ lính đi khắp phố, bộ khoe hả?

Tôi lầm lũi vào nhà thay quần áo.

Chiều tối tôi ra ngồi trước hiên nhà. Nhà em sao vắng lặng quá, em đâu sao không thấy? Hiểu ý anh trai, em gái tôi ra gợi chuyện.

- Anh biết chuyện gì chưa?

- Anh mới về nhà, có biết gì đâu?

- Hôm kia, 23/12, đám hỏi chị Liên đó.

Tôi nghe như sét đánh ngang tai, đầu óc quay cuồng.

- Thôi anh đừng buồn chị ấy. Ba chị đã mất, má chị cũng lâm bệnh. Chị là con út , chị vâng lời má lấy chồng, để má chị có bề gì cũng toại nguyện. Phía chồng chị ấy cũng khá lắm.

Mấy mùa thi cử, để giảm stress, khuya tối tôi thường ra trước hiên nhà nhìn sang, rồi qua nói chuyện bâng quơ. Mắt đã trao nhưng tình chưa dám ngỏ. Rồi tôi vào Thủ Đức,chờ ngày ra đơn vị sẽ đặt vấn đề.Bây giờ ván đã đóng

thuyền.Tối hôm sau tôi cùng bạn bè đến cà-phê Tuyệt uống cà- phê, nghe nhạc . Từ dàn máy A Kai, giọng ca Lệ Thu trầm buồn cất lên bài RU CON TÌNH CŨ. Tôi đặt điếu thuốc lên môi, bật lửa .

- Mày nay cũng hút thuốc sao?

- Buồn.

Tôi kể cho bạn bè nghe. Tất cả đều im lặng. Không ồn ào huyên náo như những lần về phép trước. Hôm sau, tôi trở lại Thới An Đông. Gặp tôi, Ly nói chuyện vồn vả.

- Hôm thứ hai, đội văn nghệ xã đi dự hội thi ở Cần Thơ . Có cả đài truyền hình đến ghi hình. Đội của mình đoạt giải nhất.

Dù có đoạt giải đặc biệt tôi cũng không cần biết đến.

Rồi bọn tôi trở lại quân trường , chờ ngày ngưng bắn . Hy vọng sẽ xuất ngũ để trở lại giảng đường. Rồi gần Tết, em sang sông.

Thuyền hoa một chuyến em rời bến.

Ta đứng nhìn theo đến não lòng.

Mười hai bến nước sông sâu cạn.

Đưa em về bến đục hay trong?.

Rồi tôi ra đơn vị. Những tháng ngày gian khổ hiểm nguy rình rập. Lúc suy tư tôi nghĩ về em. Những bài thơ lần lượt ra đời, nhờ quân bưu chuyển đến báo Tiền Tuyến , Bút Thép.

Tôi có người anh họ có sạp báo lớn ở ngã tư Chợ Đồn. Một tối nọ, anh cầm tờ báo đến đưa cho mấy đứa em tôi xem.

- Bài thì đề tựa về Chợ Đồn, dưới ký tên người đất Vĩnh, lại gửi tặng Liên. Nó chứ ai .

Ta về phố Chợ Đồn xưa.

Tay đong nước mắt cho vừa nhớ thương.

Từ ta đánh vỡ thiên đường.

Trái si mê rụng, nghe vương vấn sầu.

Em về khoát áo cô dâu.

Mình ta đếm bước qua cầu đắng cay.

Mây trên đỉnh núi còn bay.

Nghìn năm ta vẫn mơ hoài dáng Liên.

Ta xa phố thị hoa đèn.

Tay ôm thép súng lên miền đảo hoang.

Ở đây gió núi trăng ngàn.

Đêm ru nổi nhớ, đốt vàng tuổi ta.

- Về Chợ Đồn yêu dấu.-

Em về ngủ giữa tay người.

Se sua màu áo cho đời lên cao.

Ta nghe hồn bổng xôn xao.

Ân tình xưa cũ tiêu dao tháng ngày.

Ta ôm mộng giữa tầm tay.

Mộng đời tan vỡ ta say say buồn.

Trời thu lá đổ muôn phương.

Đêm ta quét lá dọn đường em đi.

Bây giờ còn lại những gì.

Ngày mai em đã vu qui theo chồng.

Em vui bên xác pháo hồng.

Ta ôm nước mắt đi rong giữa đời.

Giờ xin trả lại cho người.

Bờ mi, ánh mắt, tiếng cười ngày xưa.

Ta đi giữa cuộc gió mưa.

Trong tay nổi nhớ, phân bua cuộc tình.

-Lục bát ca buồn.-

Ta bên một túi thơ đầy.

Nửa bi-đông rượu để say quên đời.

Trong ta máu đỏ ngừng trôi.

Rượu say, say tỉnh nghe đời ngã nghiêng.

Tay trăm nhánh mọc ưu phiền.

Đong đưa nổi nhớ lên triền lũng cao.

Bây giờ tình ái xanh xao.

Tay đan nước mắt, ta đào mộ ta.

-Thơ say.-

Những bài thơ lần lượt được em gái tôi cắt lại để vào hộc tủ. Tết năm sau, em đã ngồi tựa cửa ôm con. Rồi ngày 21/4/75, tôi lập gia đình. Rồi vào tù. Rồi ra trại. Em gái tôi trao lại cho tôi những bài thơ, giấy đã úa màu .

- Anh giữ làm kỷ niệm.

Tôi lựa ra 3 bài nói về em, cất trong ngăn bóp. Em đã tay mang tay dắt. Gặp tôi em hỏi chuyện. Tôi hỏi thăm về anh Nghĩa, anh trai của em, bạn chung thời tiểu học. Chào hỏi vài câu, tôi cáo từ. Tôi không muốn hạnh phúc gia đình em đổ vỡ. Tôi không muốn gia đình tôi bất hòa.

Có lần tôi đi Chợ Lớn lấy hàng hoá về bán, nhà hết cơm. Vợ tôi kêu con gái lại bảo.

- Con lấy tô, lên má Liên mua tô bánh canh. Nhớ nói là cho ổng ăn... nhe.... nhe ...

Tôi cười. Vợ tôi cười. Con tôi cũng cười. Cả nhà ta vui vẻ.

Rồi ngày tháng dần trôi, cháu ngoại em nay đã vào lớp 9. Cháu ngoại tôi cũng chuẩn bị vào lớp1. Gặp tôi, em nở nụ cười và gật đầu chào. Tôi đáp lại. Gặp nhau chẳng biết nói năng gì?. Tôi định chép lại những bài thơ để tặng em. Chắc ngày xưa em có đọc, nhưng bây giờ không còn nhớ. Nếu em có địa chỉ email thì hay quá.

Riêng tôi , tôi đã thuộc lòng từ 38 năm qua. Mỗi ngày qua là một kỷ niệm.

Kỷ niệm ơi! Mi mãi theo ta đến hết cuộc đời. Em bây giờ có còn ngồi tựa cửa ru con ?

BA NĂM QUA EM TRỞ THÀNH THIẾU PHỤ.

NGỒI RU CON NHƯ RU TÌNH SẦU.

XIN MỘT ĐỜI NGỦ YÊN DĨ VÃNG.

XIN MỘT ĐỜI TA MÃI YÊU NHAU.

XIN ĐỪNG BUỒN EM NỮA ANH ƠI !

(Ru con tình cũ)

Viết đến đây, xúc động quá, tôi không thể viết tiếp.

Máy hát nhà ai vang lên bài Giáng Sinh buồn.

Viết cho mùa noel kỷ niệm 1972.

Biên Hòa, tháng 12/2010.

Đỗ công Luận, CHS K.08.NQ.

TẢN MẠN CHUYỆN THẦY CÔ, TRƯỜNG LỚP CŨ

Sáng nay, ngồi trước gương lược, mình cảm thấy mái tóc ngày xưa đã điểm thêm một chút màu trắng nữa. Khóe mắt ngày nào hằn thêm những vết chân chim. Nhìn ra đầu ngõ, những đứa bé hàng xóm đang lao xao rủ nhau đi học hè. Ngẫm nghĩ lại, điển tích "thời gian, bóng câu qua cửa sổ" mà mình được học trong môn việt văn ngày nào, bây giờ đúng quá. 48 năm qua rồi nhỉ!

Hè năm 1962, tôi tạm biệt tiểu học trường làng, trường tiểu học Bửu Hòa, để lên cấp trung học, chuẩn bị thi vào đệ thất trung học công lập Ngô Quyền. Tôi cùng các bạn học cùng làng, cùng lớp: Đoàn hữu Hiệp, Lâm văn Năm, Bùi hiếu Thuận... đến học luyện thi ở nhà cô giáo Thôi. Nhà cô giáo ở cạnh đường rầy, cách ga xe lửa Biên hòa khoảng 400 mét. Chúng tôi lội bộ dọc theo đường rầy, từ ngã tư Chợ đồn để đến nhà cô, khoảng 2 cây số. Lần đầu tiên đi bộ qua cầu Gành, cầu Rạch cát, tôi cảm thấy run run. Những tấm ván lót sàn cầu kêu kèn kẹt, tôi phải vịn tay vào thành cầu, mắt không dám nhìn xuống mặt sông. Tiếc thay, năm đó chúng tôi bị rớt. Tôi phải tạm cư một năm ở đệ thất Minh Tân. Lớp học có gần 100 học sinh, học phí mỗi tháng là 100 vnd. Năm sau, tôi quyết tâm thi lại. Bảy năm học trường công lập. Khoản miễn học phí mười mấy ngàn đồng cũng nhẹ được phần nào gánh nặng cho gia đình.

Qua Tết năm 1963, tôi đã tự ôn tập để chuẩn bị thi lại. Có công mài sắt, có ngày nên kim. Kết quả thi tuyển năm đó tôi có thứ hạng cao. Trường lấy 5 lớp đệ thất. Số danh bạ của tôi là 216/63 (số 63 là năm 1963). Tôi được xếp vào học lớp thất 3, lớp học toàn là bạn trai. Không như cấp tiểu học, ở cấp trung học mỗi môn học do một giáo sư phụ trách. Ở lớp thất 3 năm đó, thầy cô tôi ấn tượng nhất là thầy Đinh văn Sái, dạy môn Pháp văn và cô Khương thị Bàn, dạy môn toán. Khi đến trường Ngô Quyền để nộp đơn thi vào đệ thất, tôi đã gặp thầy Sái đang hướng dẫn các anh chị lớp trên chơi môn bóng rỗ ở sân tập cạnh hàng rào trường. Dáng người cao to, trán hói, lưng hơi khòm, gọng kính đen cáng nhựa luôn trên mắt. Bây giờ,tôi lại được thầy giảng dạy môn Pháp văn ở năm đầu trung học đệ nhất cấp, sách học là quyển Elementaire. Thầy có giọng nói từ tốn, sang sảng, hai tay ưa xoa xoa đáy quần. Một buổi học, tôi không nhớ là bài lecon thứ mấy, có hình con chó đang ngồi nhìn cục xương. Thầy bảo đặt một câu văn bằng tiếng Pháp tả cảnh ấy. Thầy đưa ngón tay trỏ xoay xoay một vòng rồi chỉ bạn Nguyễn Khắc Dũng, dáng công tử, da trắng trẻo, ngồi đầu bàn. Bạn Dũng đứng lên trả lời ấp úng:

_ Dạ, le chien regarde..., regarde.., regarde..

Thầy gằn giọng:

_ Regarde-quoi?

_ Dạ,regade..., regarde... cục xương ạ!

Cả lớp cười ồ như vỡ chợ. Từ đó, bạn Dũng bị đặt biệt danh là Dũng cục xương. Sau nầy khi hỏi thăm về Dũng, Hoàng Minh Chiếu nói:

_ Đậu xong tú tài 2, ra trường, Dũng đi du học ở Nhật bản. Sau nầy, nghe nói bạn ấy đang định cư ở Úc hay Mỹ gì đó.

Bây giờ, Dũng cục xương ơi!bạn đang ở nơi mô?

Cô Khương thị Bàn phụ trách môn toán học ở lớp thất 3. Hồi đó, cô dạy hình học lẫn đại số. Hình học thì học cơ bản về hình học phẳng như hình tròn, tam giác... Đại số thì làm quen với những con chữ a,b,c.., rồi bình phương, đẳng thức. Ở cấp tiểu học, học về số học thì đơn giản hơn. Có một lần, bài tập về đẳng thức tôi không giải được, cô bắt tôi chép phạt bài đó 100 lần. Suốt một đêm ngồi chép phạt khoảng 5,6 trang vở, vừa mỏi tay, vừa buồn ngủ, tôi thầm oán trách cô. Tuy nhiên, tôi vẫn phải chấp hành hình phạt. Sáng hôm sau, tôi vẫn nộp đủ 100 câu chép phạt đó. Đến năm lớp đệ nhất (lúc đó đã gọi là lớp 12), tôi xin chuyển sang ban A vì nghĩ, nếu chịu khó gạo bài thì vẫn được vượt qua cửa ải vũ môn. Đến mùa hè năm 1972, vận may không đến nữa, tôi bị động viên vào quân đội, một môi trường học tập lớn hơn, có cả máu và nước mắt.

Đối với cô, suốt mấy mươi năm cô vẫn sống nơi chôn nhau cắt rún của mình. Sau biến cố đổi thay của đất nước, cô nghỉ dạy ở trung học Ngô Quyền từ năm 1977. Lại bị thêm cú sốc của cuộc sống gia đình, cô hầu như ngã quị. Nhưng nghị lực đã giúp cô vượt qua gian khó để sống vui khỏe đến hôm nay. Với tuổi ngoài 70, mỗi sáng tôi vẫn gặp cô đi chợ mua thực phẩm tươi sống ở Chợ đồn. Với cơ thể mãnh mai, ốm yếu, cô vẫn đạp xe qua cầu Gành hàng ngày.

Cách nay khoảng 5 năm, lúc bác Ba gái, thân mẫu của cô quá vãng, thượng thọ 102 tuổi. Gia đình của cô sống lâu đời trên vùng đất cù lao Phố, có uy tín, nhiều người biết đến. Anh Khương văn Mười, em ruột của cô là một kiến trúc sư có tiếng tăm ở Sài gòn, có vai vế trong xã hội, nên đám tang tổ chức long trọng, nhiều quan chức, đoàn thể đến phúng viếng. Buổi sáng, khi đến viếng tang, tôi phải ngồi chờ hơn 2 giờ đồng hồ vì các hội đoàn, quan chức đến phúng viếng đông quá. Thấy cô từ nhà sau bước lên, tôi đứng lên thưa trình:

_ Xin phép cô, em đến thắp nhang cho bác Ba nhưng chưa làm thủ tục được. Em xin có lời chia buồn cùng cô và tang quyến.

Sau đó,tôi xin phép cáo từ.

Thầy Khương văn Biền, giáo chức biệt phái về trường Ngô Quyền dạy môn Pháp văn từ năm 1971. Tôi ra trường năm 1970. Tôi vẫn thường gọi với cái tên thân thương: Anh Hai Biền. Cô Bàn và thầy Biền là chị em chú bác ruột. Sau khi không còn dạy ở trường Ngô Quyền từ năm 1977, thầy Biền mở lớp kèm học sinh ở nhà. Nhưng thầy lại dạy môn toán. Các em học sinh yếu toán rất thích học ở thầy để lấy lại căn bản. Đồng thời vừa dạy học ở nhà, thầy vừa tận tình săn sóc người vợ chẳng may bị ốm đau, bệnh tật, khi các con đã trưởng thành ra riêng. Ở đây,tôi phải dùng cụm từ "tình nghĩa phu thê" cho đúng với chuẩn mực đạo lý con người Việt nam. Anh hai săn sóc chị hai tận tình cho đến ngày chị hai rủ áo ra đi. Năm 2001, cuối năm lớp 6, con trai tôi được tuyển vào đội chuyên toán của trường cấp hai Nguyễn Bỉnh Khiêm(Biên Hòa), tôi phải đến nhờ thầy dạy kèm cháu môn toán nâng cao. Sau một tháng dạy kèm riêng, thầy nói với tôi:

-Từ hồi tôi dạy kèm về môn toán đến nay, cháu Lý con anh, và cách đây 4 năm là cháu Triết cùng xóm, cũng học ở trường Nguyễn Bỉnh Khiêm là thật sự giỏi về môn toán.

Vinh hạnh quá. Con hơn cha là nhà có phước.

Năm 1995, con gái út tôi thi đậu vào trường trung học Ngô Quyền. Đầu năm học lớp 10, nhà trường mời phụ huynh họp mặt đầu năm. Đó là lần đầu tiên tôi trở lại ngôi trường thân yêu mà tôi đã học ở đó 7 năm, sau 25 năm ra trường. Dù khoảng cách từ nhà đến trường chỉ khoảng 3 cây số, nhưng vì bộn bề cuộc sống, 25 năm sau tôi mới có dịp trở lại. Lần ấy, tôi lại gặp thầy Bùi Hiếu Nghĩa, anh cả của bạn Bùi Hiếu Thuận, là thầy chủ nhiệm của lớp con gái tôi. Thầy Nghĩa cũng là cựu học sinh Ngô Quyền, tốt nghiệp đại học sư phạm Huế. Trong thời kỳ bao cấp, tủi thân cho nghề giáo chức, thầy cô phải làm thêm nghề tay trái để tăng thêm thu nhập. Đôi khi phải bán thêm bánh kẹo cho học sinh trong lớp. Các thầy cô dạy môn toán và ngoại ngữ (Anh văn)có thu nhập cao hơn. Năm đó, tôi gặp lại bạn Lý văn Giỏi, cùng học chung thất 3, khi hai đứa con gái của hai người, vừa là bạn học, cùng học chung lớp.

Khi trái đất vẫn quay quanh mặt trời, thời gian vẫn miệt mài trôi chảy. Trong mỗi con người, thời gian chỉ dừng lại khi trái tim ta không còn nhịp đập, hơi thở không còn dâng trào. Khi đã leo lên hết con dốc cưộc đời, đó là lúc ta ngồi lại để hoài niệm về quá khứ. Ai cũng có niềm vui, ai cũng có nỗi buồn. Tương lai trước mặt, quá khứ sau lưng. Khi hội ái hữu cựu học sinh Ngô Quyền tổ chức họp mặt 55 năm ngày thành lập trường là dịp để quý thầy cô, bằng hữu, đồng môn ngồi lại bên nhau để ôn lại quá khứ, hoài niệm về một thời dĩ vãng xa xưa. Từ quê nhà, cách nửa vòng trái đất xa xăm, tôi xin kính lời chúc đại hội thành công viên mãn, mọi người gặp nhau vui vẻ. Rồi kỷ niệm 60 năm, ai còn ai mất? Xin hãy trọn cuộc vui. Thời gian ơi! xin chậm lại.

Biên Hòa, 1 giờ sáng, ngày 25/6/2011

Đỗ công Luận, chs k.08 NQ.

Email luando@yahoo.com.vn

Cell phone 0913108875

NGÀY ĐẠI HỶ

Còn hai hôm nữa là ngày 21/4/2011. Cách nay 36 năm, ngày ấy là ngày đại hỷ trong đời của tôi, ngày 21/4/1975, ngày tôi bắt đầu vào cuộc sống lứa đôi. Có người nói đó là ngày tra còng vào cổ, không biết có đúng hay không?

Sau một năm ở đơn vị chiến đấu và có nộp đơn cứu xét, tháng 10/1974 tôi được rút về ngành Hành Chánh Tài Chánh, bỏ cái huy hiệu 4.16 để thay vào huy hiệu ngành HCTC. Tháng 11/1974, tôi nhập học khóa 48.HCTC ở Huấn khu Thủ Đức. Khoảng cách từ nhà đến quân trường khoảng 10 cây số. Việc hôn nhân của tôi, gia đình hai bên đã đồng ý sau một thời gian tìm hiểu. Giữa năm 1974, đơn vị đưa tôi đi học khóa Truyền Tin ở Vũng Tàu. Lúc đó, chủ nhật mỗi tuần tôi đều dù về nhà để tìm hiểu nàng kỷ hơn. Tình yêu đôi lứa đã bắt đầu nẩy nở. Là sĩ quan quân đội, tôi phải chờ quyết định của phòng 1 Bộ Tổng Tham Mưu thì mới tiến hành lễ cưới được. Khoảng đầu năm 1975, phòng Văn Thư của quân trường trao giấy cho phép kết hôn cho tôi. Ôi! không còn gì sung sướng cho bằng. Thời gian học ở quân trường, mỗi chiều tối tôi được phép về nhà, sáng vào lên lớp học. Nhờ vậy, tình yêu ngày càng sâu đậm thêm, bỏ đi ngày tháng gian lao ở chiến trường máu lửa. Gia đình hai bên thỏa thuận đầu tháng 4/1975, hôn lễ sẽ được tiến hành, thời gian chuẩn bị cũng phải mất một tháng. Ngày11/3 ta mất Ban-mê-thuột. Gần cuối tháng 3, Vùng 1 bị xóa sổ. Sao tình hình diễn biến nhanh quá vậy? Đầu tháng Tư, Đà Lạt mất, Qui nhơn, Phú yên bỏ ngỏ. Lúc đó xe tải của ba vợ tôi đi giao gạch ngói cho khách hàng ở Phan Thiết, lượt về chở nước mắm về Biên Hòa. Ba vợ tôi kiêm luôn tài xế. Xe tải không thể quay về Biên Hòa được vì quốc lộ 1 đã bị cắt ở rừng Lá, căn cứ 4. Thôi thì chủ tớ, là ba vợ tôi và mấy người bốc xếp ,đành phải nằm chờ ở Phan Thiết.Tin xấu đưa về, ông sui gái bị "kẹt đạn" thì làm sao tổ chức lể cưới được. Hai gia đình đồng ý "hoản binh". Tờ đơn xin nghỉ phép của tôi đã gửi lên Chỉ huy trưởng rồi, làm sao rút lại? Tôi đành ngồi chơi xơi nước, hủ hỉ 3 ngày cùng em. Sau đó, gia đình 2 bên bàn thảo lại, đồng ý chọn lại ngày 21/4/1975, tính theo Âm lịch là ngày 10/3, ngày giổ tổ vua Hùng, tổ chức lể cưới cho hai chúng tôi. Lúc đó ba vợ tôi sẽ gửi xe tải cho người quen ở Phan Thiết, theo thuyền đánh cá về Long Hải, rồi đón xe đò về nhà.

Chiều thứ bảy 19/4, trước khi về nhà, tôi đã nói trước với anh bạn trưởng lớp là sẽ dù ở nhà ngày 21/4, đến sáng thứ ba 22/4, tôi mới vào trường để thi mãn khóa. Cũng may, lúc đó, các bạn cùng khóa, nhà ở Sài gòn, mỗi sáng lên lớp chúng đều báo tin sôi động, đã có di tản ở Sài gòn, sân bay Tân Sơn Nhất bắt đầu nhộn nhịp. Mặc, tôi chỉ lo cho đám cưới quan trọng của đời mình. Vì chỉ có 2 ngày chuẩn bị, tôi cũng không thể báo tin mời bạn bè. Lúc đó, bạn bè cũng đã vào quân đội hết rồi, chẳng còn mấy đứa. Hôm rước dâu, tôi mượn chiếc Toyota của Tâm “nhủi” làm xe hoa, nó kiêm luôn tài xế. Võ Hà Mỹ lúc đó đang ở Tân Sơn Nhất, về làm phù rể cho tôi. Cuối năm 1978, Mỹ vượt biên. Đầu năm 2009, ba anh em chúng tôi lại ngồi quanh bàn cà phê ở phố Lê Lợi để ngẩm nghĩ sự đời. Tiệc cưới chỉ đãi một lượt vào buổi trưa, khoảng 10 bàn tiệc. Quan khách chỉ là bà con hai họ, nội ngoại. Cô dâu, chú rể mặc quốc phục áo dài khăn đóng. Lúc đó đã có ảnh màu, do hiệu ảnh Phạm Lung chụp. Bác ba Phạm Lung thân quen với gia đình phía chồng của chị ba tôi.Sau khi quan khách ra về, gia đình bắt đầu hạ trại, dọn dẹp. Hồi đó, thực đơn thường do gia đình nấu, ít đãi ở nhà hàng hoặc những đám tiệc nấu ăn như bây giờ. Chiều tối, gia đình bật tivi lên xem. Long Khánh đã thất thủ . Ông Thiệu đang đọc diễn văn, khóc lóc, rồi xin từ chức. Tôi cũng không nghĩ tình hình diễn biến xấu nhanh như vậy. Sáng sớm ngày 22/4, tôi vào quân trường. rồi mỗi chiều tôi lại về với em. Chiều thứ bảy 26/4, như thường lệ, tôi về nhà. Chiến dịch đánh chiếm Sài gòn bắt đầu. Long Thành bị tấn công. Khuya tối 27/4 ,cầu Ghềnh bị đánh, đầu cầu hướng cù lao Hiệp Hòa bị chiếm.Trưa ngày 28/4, bạn U, bạn niên thiếu với tôi, con nuôi chú năm Sấm, hành nghề mổ heo, định qua Biên Hòa trình diện đơn vị, bị VC xả súng bắn chết giữa cầu. Bạn bè phải bò lên kéo xác về. Lính kiểng cũng chết. Sáng sớm ngày 30/4, cậu tôi từ Long Thành về Chợ Đồn để xem tình hình gia đình thế nào. Cậu nói với ba tôi, bộ đội CS/BV di chuyển đầy ngoài xa lộ, đang tiến về Sài gòn. Tôi cũng chưa tin. 10 giờ 30 Đài phát thanh Sài gòn đưa tin lệnh đầu hàng, Sài gòn bỏ ngỏ. Lịch sử sang trang. Xế chiều ngày 30/4, xe tải của ba vợ tôi về đến nhà, người và xe bình an vô sự. Gia đình mừng rở. Khoảng 10 ngày sau, gia đình cúng heo quay, làm lễ đáp tạ ơn trên giúp tai qua nạn khỏi,có mời bà con, hàng xóm đến dự. Đến tối, bà ngoại vợ bị trúng thực, ói mửa, phải đưa cấp cứu ở bệnh viện, qua ngày sau thì mất. Niềm vui chưa trọn vẹn lại có nổi buồn.

Tôi có 60 ngày đêm bên em. Không biết cuộc đời sẽ rẽ lối nào. Tháng 5/1975, Tâm “nhủi” cũng bắt chước tôi lên xe hoa, tra còng vào cổ. Đám cưới nó cũng chỉ có tôi và Mỹ đi rước dâu.

Thắm thoát nay đã 36 năm, ba đứa con gái tôi nay đã khôn lớn. Cháu gái đầu lòng đến thăm tôi khi còn ở trong bụng mẹ. Khi tôi vào trại Phú Lợi được ba, bốn tháng, em đến tìm tôi, đứng ngoài cổng nhìn vào trại. Tôi xin phép quản giáo dẫn tôi ra gặp em. Nhìn bụng lúp xúp của em, tôi hiểu. Khi tôi ở Trảng Lớn, ông bà ngoại, ông bà nội, đưa cháu gặp tôi khi vài tháng tuổi.Tôi ra trại, về với gia đình, cháu đã 13 tháng tuổi. Bây giờ 3 đứa con gái tôi đã có gia đình, mỗi cháu có một đứa con. Tôi đã có 3 cháu ngoại. Thời gian trôi qua nhanh quá. Quá khứ, kỷ niệm vẫn đeo đuổi tôi như hình với bóng. Quá khứ sẽ tan biến đi khi tôi không còn hiện diện trên cỏi đời nầy nữa. Buồn ơi! chào mi. Niềm vui ở lại.

BIÊN-HÒA, ngày 19/4/2011

ĐỖ CÔNG LUẬN chs.k08.NQ

BAY CAO, DIỀU ƠI!

Khi những cơn gió bấc lạnh lùng thổi xuống phương Nam. Khi những cơn gió nồm không còn từ biển thổi vào. Dấu hiệu của sự chuyển mùa. Miền Nam chỉ có 2 mùa: mưa, nắng. Những ngày đầu mùa nắng, ảnh hưởng của cái lạnh phương Bắc, từ tháng 12 dương lịch đến tết âm lịch, không khí hơi se lạnh hoặc mát dịu. Sau những ngày tết ta, tiết trời bắt đầu oi bức. Sự thay đổi áp suất giữa tầng thấp, gần mặt đất, và tầng cao, tạo ra những cơn gió mạnh vào buổi xế chiều, từ khoảng 15h trở đi. Đối với trẻ thơ, đó là bắt đầu vào hội của ngày mùa: mùa thả diều.

Nhớ lại thời gian cách đây gần 50 năm, gần trường tiểu học Bửu Hòa, có cánh đồng rộng khoảng 2-3 hecta, nằm cạnh tỉnh lộ 16. Xa xa, ở trong là xóm đạo Cao Đài, gọi là xóm Một Hòa, với chừng hơn chục nóc nhà. Cạnh bên là lò gạch Hồng Tâm, với rạch Thủ Huồng ở phía sau. Cánh đồng này chỉ trồng một vụ lúa vào mùa mưa. Mùa nắng thì đồng trơ gốc rạ. Bọn trẻ chúng mình thường đến đó để thả diều. Tôi là con trai lớn, không có anh trai, ba lại đi làm ở trường Bá Nghệ, không có ai làm diều cho, nên tôi chỉ đến đây để xem chúng bạn thả diều. Những con diều giấy tự làm hoặc người lớn làm hộ. Khung diều được làm bằng những thanh tre chẻ nhỏ, vuốt bỏ ruột. Tre có độ đàn hồi, không gãy, dễ uốn cong. Thân diều được phết bằng những tờ giấy học trò hoặc giấy thủ công nhiều màu. Đuôi diều được kết nối bằng những tờ báo cắt dài hoặc nối lại bằng vòng giấy cuốn tròn. Dây buột diều được nối lại bằng nhiều đoạn chỉ may bao bố , quấn quanh lon sữa bò hoặc lon guigôz. Từ 15h trở đi, trời dịu mát, gió mạnh, bọn trẻ chúng mình tập họp về đây để thả diều. Cánh đồng dài hơn trăm mét, đủ dài để lấy trớn cho diều bay lên. Lúc đó nhà cửa còn thưa thớt, xã Bửu Hoà năm 1961 mới có điện. Không gian thoáng đảng như vậy thích hợp cho việc thả diều. Khi những cánh diều đã bay cao, chúng mình nằm trên mặt ruộng, ngửa mặt nhìn trời, tay gối đầu, chân gác chữ ngũ, mắt ngước nhìn những cánh diều bay lượn. Thong dong cuộc đời. Tuổi thơ trong trắng và hồn nhiên quá!

Chiều nay, khi đi đến cửa hàng của con gái ở khu vực chợ Tân Mai, ngang qua cánh đồng Gò Me, trên đoạn đường 5 mới mở của thành phố Biên Hòa, hơn 20 cánh diều đang bay lượn trên không. Đoạn đường này dù thuộc phạm vi đô thị, nhưng ít nhà cửa, đồng trống nên thích hợp thả diều.

Trong thành phố bon chen, nhà cao san sát, dây điện giăng giăng, có địa điểm rộng rãi thế này thật lý tưởng để thả diều. Tham gia cuộc vui có nhiều thành phần. Có những người lớn tuổi như tôi, đang hướng dẫn cho cháu trai cách chạy cho diều bay lên. Có những người trung niên, quần áo tươm tất, có lẽ là công nhân viên chức đang chỉ cho cháu trai, còn mặc quần áo học sinh, cách từ từ thả dây cho diều lấy độ cao. Có nhhững thanh niên trên dưới 30 tuổi ngồi dưới gốc cây, tay cầm cuộn chỉ, ngồi ngắm nhìn những cánh diều bay lượn trên không. Đây là lớp thanh niên hiếm hoi của xã hội ngày nay, thích thư giãn bằng trò chơi dân dã. Tiến bộ khoa học đã nâng cao đời sống xã hội, nhưng lại làm cho văn hoá xã hội ngày càng đi xuống. Lớp thanh niên lên yên xe là tỏ ra yên hùng lạng lách. Va chạm nhau là xô xát, giải quyết bằng bạo lực. Lứa tuổi học trò cấp 3 cũng vậy, không nề nếp qui cũ như bọn mình ngày xưa. Những con diều ngày nay cũng đã được hiện đại hoá, sản xuất đại trà. Khung diều được làm bằng kẽm, thân diều được làm bằng vải polymer không ướt, in cắt rất thẩm mỹ . Có nhiều kích cỡ, hình dáng. Thông thường có hình diều, hình phượng, hình bướm... Uy vũ hơn có hình ó, đại bàng, batman. Bỏ ra vài chục ngàn đồng là đã sở hữu cánh diều sặc sỡ. Dọc đường đi có những điểm bán diều lưu động, trưng bày trên những chiếc xe hai bánh. Một nghề mua bán mới, theo thời vụ. Đa số người bán là dân nhập cư. Phương Nam là mảnh đất màu mở, dễ sống. Họ Nam tiến giống như chúng ta Tây tiến.

Ngồi trước cửa hàng của con gái, nhìn hàng chục cánh diều bay lượn xa xa, hướng sông Cái, nhánh sông chảy quanh Cù Lao Phố, nối sông Đồng Nai, ở hướng bến đò kho, mình cảm thấy nuối tiếc lại thời trẻ con. Những trò chơi dân gian: cút bắt, trốn tìm, đánh đáo, bắn đạn culi... bây giờ trẻ con không ưa thích. Hai đứa cháu ngoại trai của mình, đứa lên 4, đứa lên 5, chơi trò chơi điện tử trên computer rất sành điệu. Chúng cầm điện thoại, nói chuyện như người lớn. Khoa học càng tiên bộ, đời sống xã hội càng nâng cao. Sau khi người Mỹ bước chân vào Miền Nam , năm 1966, Sài Gòn bắt đầu có đài truyền hình. Hàng đêm từ 19h đến 22h, chiếc C130 bay lượn vòng quanh thành phố để phát hình. Năm 1968, chúng ta theo dõi chiến trận Mậu Thân qua ti vi. Đánh ờ Hàng Xanh, Xóm Gà, Chợ Lớn, thành phố Huế ... Cô ca sĩ Hương Lan khi đó được phát thanh viên giới thiệu:

- Đây em bé Hương Lan trình bày bản tân cổ Ai ra xứ Huế .

Tháng 7 -1969, chúng ta theo dõi phi thuyền Appollo đổ bộ mặt trăng được ghi hình trực tiếp. Rồi có thêm đài Cần Thơ, đài Huế... Bây giờ, mỗi tỉnh thành đều có đài truyền hình. Mỗi đài lại có nhiều kênh: kênh giải trí, kênh thể thao, kênh thời sự .... Rồi có truyền hình cáp xem đài nước ngoài, xem phim . Chương trình 24/24 giờ.

Cuộc sống ngày được nâng cao. Bay cao, bay cao, diều ơi!

Đỗ Công Luận CHS-Khoá 08 NQ