Xác định thành phần cấp phối
+ Dựa vào mác bê tông mà thiết kế qui định tiến hành thí nghiệm đối với vật liệu ngoài hiện trường (mà ta sử dụng để thi công) để tìm ra khối lượng xi măng, cát, đá (hay sỏi) và thể tích nước trong 1 m3 bê tông.
+ Tuỳ theo công suất của thiết bị trộn bê tông mà ta xác định thành phần cấp phối cho một mẻ trộn.
+ Thông thường ngoài hiện trường xi măng được tính bằng Kg (theo từng bao 50
Kg), cát, đá, (sỏi) được đo bằng các hộc tiêu chuẩn hay xe rùa (thường có thể tích 40 lít), nước được tính theo lít và đong bằng xô.
+ Việc xác định thành phần cấp phối phải được cơ quan chuyên ngành có pháp nhân đảm nhiệm.
+ Trước khi trộn bê tông phải xác định độ ẩm của cốt liệu và so sánh với độ ẩm khi thí nghiệm thành phần cấp phối để hiệu chỉnh lượng nước cho thích hợp.
Các yêu cầu đối với vữa bê tông
+ Vữa bê tông Phải bảo đảm đủ, đúng và đồng nhất về thành phần, đúng mác theo thiết kế.
+ Phải đảm bảo được việc trộn, vận chuyển, đổ và đầm trong thời gian ngắn nhất và nhỏ hơn thời gian ninh kết của xi măng ( khoảng 2 đến 3 giờ ). Nếu kéo dài thời gian này sẽ ảnh hưởng đến chất lượng bê tông. Trong trường hợp để đảm bảo chất lượng bê tông như thiết kế thì ta phải trộn lại và tăng thêm lượng xi măng khoảng 15÷20 % lượng xi măng theo cấp phối.
+ Vữa bê tông sau khi trộn xong phải đảm bảo được những yêu cầu của thi công (tính công tác) như độ sụt... Ví dụ vữa bê tông phải có độ sụt thích hợp đối với tưng phương pháp đổ bê tông, ( đổ theo phương pháp bình thường thì độ sụt DS = 2÷8cm; đổ bằng máy bơm bê tông thì DS = 15 ÷ 18 cm) cấu kiện được đổ (bê tông khối lớn ít cốt thép DS = 2÷4 cm; bê tông cột, dầm, sàn DS = 4 ÷ 6 cm). Khi tăng độ sụt của vữa bê tông thì ta phải tăng lượng xi măng để đảm bảo tỉ lệ N/X là không đổi.