1. Các loại dụng cụ cần thiết
1. 1 Dụng cụ chuẩn bị vữa
Dụng cụ chuẩn bị vữa ngoài cuốc lưỡi tròn để trộn vữa và xẻng đầu vuông để xúc vữa còn có hộc đựng vữa cao không quá 20cm; xô, xe cút kít, xe cải tiến, rây để sàng xi măng, bột màu, sàng để lọc vôi.
Dụng cụ dùng để trát:
Bay
Có nhiều loại tùy theo công đụng
Bay xây trát thông dụng: Dùng để lên vữa và xây trát những bề mặt rộng.
Bay lá đề: Dùng để lên vữa trần tường ở nơi có nhiều đường cong, góc lượn.
Bay lá tre: Là loại bay nhỏ có lưỡi làm bằng thép mỏng. Bay lá tre dùng để đắp, kẻ vẽ hoa văn trang trí, trát ỏ nơi có diện tích thoát hẹp, trát cắt và hoàn thiện góc cạnh của các đai (chỉ) trang trí, bắt mạch...
Bay lá muống: Dùng trát vữa nơi có diện tích thoát hẹp, đánh màu và láng bể mặt.
Bay trát vẩy thình 1.4): Dùng trát vữa lên trần, tường nhà bằng phương pháp trát vẩy.
Bay cần có tính đàn hồi và nhẹ. Ngoài các chức năng nêu trên bay còn dùng để chất đống và định lượng gần đúng vật liệu, trộn hỗn hợp khô, nhào, san bằng, xoa nhẵn và cắt vữa, cạo sạch các dụng cụ khi bị vữa bám dính v.v.
Bàn xoa
Có nhiều loại:
Bàn lột vữa; Dùng để trát và san bằng vữa lên tường.
Bàn xoa phẳng: Dùng để xoa nhẵn bề mặt trát vữa
Thước
Thước có nhiều loại:
Thước tầm: Bằng gỗ hoặc nhôm dùng ctế sửa tính lớp vữa trái ở các góc trần, ở các cột. các đường chỉ trang trí; cán pháng vữa trên các bê mặt theo mốc, cùng với livô kiếm tra độ thẳng dứng, ngang bằng khi xây trát; làm cữ trát ở góc tường; san gạt cát, vữa khi láng và lát nền... Thước tầm tốt nhất nên làm bằng gỗ có kích thước thích hợp hảo đảm hớt vữa một cách chính xác. Cạnh của thước có thể phẳng đế tu sửa các đường nét trang trí kiến trúc có tiết diện chữ nhật, có thể cong để tu sửa các đường ncl trang trí cong lượn.
Thước trát hèm: để làm cữ trát hèm cửa.
Dụng cụ kiểm tra
Các loại dụng cụ dùng để chuẩn bị và kiểm tra bề mặt gồm có:
Búa
Tùy theo công dụng búa có nhiều loại:
Búa chữ y: Để băm xờm mặt bê tông trước khi trát.
Búa ốp lát: Dùng để gõ chỉnh phẳng mặt gạch khi ốp lát để kiểm tra độ bám dính của vữa trát, của gạch ốp lát vói bề mặt kết cấu. Búa bằng gỗ hoặc bằng cao su.
Thước góc (Thước vuông)
Dùng làm cữ để kiểm tra độ vuông góc của hai mặt phẳng khi xây trát, lát, láng.
Ngoài ra còn có thưóc livô, livô, dây dọi, ống thủy bình...
Pha trộn và sử dụng vữa trát
Vưa trát là hỗn hợp gồm chất kết dính (xi măng poóclăng,vôi), cốt liệu mịn (cát den, cát vàng) và nước. Cát phải sạch, không có vật liệu hữu cơ ( khoảng trên 5% sét bùn vô cơ. hoặc các tạp chất khác và không chứa muối hoặc kiềm. Tỷ lệ cát trong vữa trát có liên quan đặc biệt đến đặc tính sản phẩm. Tỷ lệ cát nhiều dẫn đến giảm đáng kể độ bền và độ cứng của vữa.
Nước phải sạch và không có các chất có thể ánh hưởng đến tốc độ đông cứng của vữa trát. Không nên dùng nước đã rửa công cụ của thợ trát vữa vi nó có thể làm thay đổi tốc độ đông cứng.
Trộn vữa trát
Máy trộn làm phân tán thành phần hỗn hợp đều hơn, năng suất trộn cao nên được sử đụng nhiểu trong xây đựng. Quy trình trộn như sau: ( 1 ) Đổ lượng nước theo yêu cầu đã dự tính vào trong máy trộn; (2) thêm khoảng nứa phán cát yêu cầu, (3) đổ toàn hộ xi măng: (4) đổ nốt phần cát còn lại; (5) trộn ít nhất 30 giây nhưng không quá 3 phút, thêm nước nếu cần thiết, để đạt khả năng làm việc thích hợp; (6) đổ toàn bộ mẻ trộn cùng một lúc.
Đối với trộn bằng tay. trước tiên trộn khô cát và vữa trát đạt tói một màu đồng nhất, thêm nước vào, ngay lập tức trộn cẩn thận vữa trát. Vữa trát trộn không đều thì rất khó lên vữa và sẽ tạo ra các vết dốm cứng và mềm trên bề mặt trát. Không trộn vữa xi măng trước khi sứ dụng 1 giờ đồng hồ, cũng không được trộn lẫn với vữa trát đã trộn trước, Và một khi vữa trát đã bắt đầu đông cứng thì không được trộn lại để dùng.
2.2 Làm khô vữa trát
Trong thời tiết nóng, cần phải có cách phòng ngừa, ngăn chặn nước bốc hơi trước khi vữa trát đông cứng, tránh luồng gió đổi với các bề mặt trát vữa hay che chắn hoặc đóng các cửa ra bên ngoài. Sau khi vữa trát đông cứng, độ ẩm quá nhiều trong vữa sẽ bốc hơi. Đổ đó phải thông gió đầy đủ cho cán phòng để hơi ấm thoát ra.
2.3 Yêu cầu kỹ thuật (TCVN 4459:1987-3)
Vữa hoàn thiện phải bảo đảm độ hám đính với bể mặt công trình, bền nước, bền ánh sáng và không khí.
Vữa trát thông thường (gọi tắt là vữa trát) dùng để Trát các mặt của các công trình dân đụng, cổng nghiệp khi không cổ các yêu cầu đặc biệt.
Vôi dùng cho trát phải đạt yêu cầu theo quy định:
Hồ vôi phải có khối lượng thể tích 1400kg/m3 hoặc độ lún sâu của côn tiêu chuẩn vào hồ vôi là 12cm.
Chuẩn bị bể mặt kết cấu
Một trong những yếu tố quan trọng quyết định chất lượng của lớp vữa trát là sự bám dính chắc chân của nó vào bê mặt kct cấu. Muôn vữa bám dính tốt vào kết cấu phải chuấn bị bê mặt trát thật tot.
Trát vữa là để chc bọc các mặt kết cấu đá, gạch, bê tông, gỗ, vôi rơm, thạch cao... Mỗi loại bề mặt đều có yêu cầu chuẩn bị riêng; chuẩn bị những bể mặt cứng và nhẵn như bể mặt bê tông tốn công và khó nhọc hữn cả.
Trước khi chuẩn bị bề mặt phải kiểm tra độ thẳng - đứng, ngang - bằng của kết cấu và tiến hành sứa. chữa theo các yêu cầu của biên bản nghiệm thu.
Nền, sàn nhà hay mặt sàn thao tác phải được làm vê sinh sạch sẽ để tản dụng vữa rơi.
3.1. Yêu cầu kỹ thuật (TCVN 5674:1992)
Trước khi trát, bề mặt kết cấu phải được làm sạch, cọ rửa hết bụi bẩn, rêu bám, các vết đầu mỡ và tưới ẩm: những vết lồi lõm và gồ ghề, vón cục -vôi, vữa dính trên mặt kết cấu phải được đắp íhêm hay đẽo tẩy cho phẳng.
Nếu bé mặt kết cấu không đủ độ nhám cho lớp vữa bám dính như bề mặt bê tông đúc trong ván khuôn thép, mặt kim loại, mặt gỗ dán, gỗ bào nhần... trước khi trát phải gia công tạo nhám bằng cách phun cát hay gia công vữa xi măng, vẩy cát lên mặt kết cấu, hoặc khía ô quả trám. Phải trát thử một vài chỗ để xác định độ dính kết cần thiết.
ở những vị trí tiếp giáp giữa hai kết cấu bằng vật liệu khác nhau, trước khi trát phải gắn trải một lớp lưới thép phủ kín chiều dày mạch ghép và trùm về hai bên ít nhất một đoạn từ 15 đến 20cm. Kích thước của ô lưới thép không lớn hơn từ 4 đến 5cm.
Chuẩn bị bề mặt kết cấu
Chuẩn bị bê mặt gạch, đá, bê tông
Tường xây đá hộc: Mạch vữa xây phải lõm vào ít nhất 15mm để tạo chân bám dính cho vữa, nếu không đạt yêu cầu phải đục bới vữa; sau đó dùng bàn chải sắt chải sạch bé mặt đá.
Tường gạch: Mạch vữa xây phải lõm vào í( nhất lomm, nếu không phải đục moi. Trước khi trát dùng bàn chái sát chài sạch mặt gạch và tưới nước đủ ẩm.
Vách ngăn bằng các tấm thạch cao hoặc bê [óng thạch cao được chải sạch bằng bàn chải sắt. Vách ngăn để hơn 1 nám chưa trát thì trước khi trát phải làm nhám mặt, chải sạch bằng bàn chải sắt, quét sạch bụi và rửa sạch bằng nước. Để bề mặt lớp vữa trát khỏi bị hoen ố phải tây sạch vết đầu. sơn, hắc ín... trèn mặt tường nếu có.
Có thể dùng máy khoan diện có lấp đục răng đế dục sâu mạch vữa hoặc làm nhám bể mặt bê tông.
Tường trần bê tông: Người ta thường dùng vữa xi măng để tạo nhám cho bể mặt tường, trần bê tông. Trước khi gia công vữa xi măng (vữa liên kết), dùng bàn chai sắt để loại bỏ các hạt bụi và hạt xốp; cọ sạch đầu. mỡ hoặc nấm mốc bằng dung dịch gồm một phần axit clohydric với 4 phần nước, sau đó cọ sạch bể mặt một lẩn nữa bằng nước sạch. Vữa liên kết phải được trát cẩn thẫn vào mặt bê tông.
Chuẩn hị bề mặt gỗ
Tường gỗ có thể bằng gỗ cày, gỗ ván hoặc gỗ thanh, gỗ bìa. Khi chuẩn bị bề mặt làm bằng các tấm gỗ ván có chiều rộng từ 10cm trở lên, người ta băm chúng va đóng nêm vào các vết nứt để tạo thành các khe hở có chiều rộng khoảng .1 mm
Để tạo độ nhám cho bề mặt gỗ người ta đóng lên đó các thanh cốt vách
Muốn tăng độ cách nhiệt và cách âm của các vách ngăn của tường và trần gỗ trước khi đóng cởt vách người ta căng một lớp chiếu gai, vải đay thố hoặc phớt lên các bề mặt đó. Vữa sẽ dính rất chắc vào chúng nhờ đó ván sẽ đỡ bị ngấm nước, sẽ ít bị cong vênh và vừa trát cũng khó bị nứt nẻ.
Muốn bảo vệ lớp phớt thì trước khi đóng người ta tẩm cho nó dung dịch natri ílorua 3%; sau đó đem phơi khồ. Vật liệu cách âm, cách nhiệt sau khi xử lý xong sẽ được căng lên tường sao cho một đầu của nó vừa chạm sàn, rồi đóng đinh ở phía dưới, Tiếp theo dàn phẳng và kéo căng ở trên sao cho trên tấm cách ly không còn nếp nhăn, rồi đóng đinh dọc theo mcp tấm. Khi căng các tấm vật liệu mỏng (chiếu gai. vải đay thô), người ta đặt mép của chúng chồng lên nhau, còn khi căng các tấm vậi liệu dày thì các mép được đặt khít vào nhau rổi mới đóng đinh. Đinh đóng ngập một nửa còn một nứa được bẻ quặp.
Các tấm cốt làm từ ống sậy cũng được đóng cò định lên bề mặt bằng đinh dài 4cm, các đinh đóng cách nhau 140mm.
Đóng lưới kim loại
Khi cán trát một lớp vữa dày, người ta phải đóng thêm lên bể mặt một lưới kim loại, hoặc đóng đinh rồi căng dây thép lên đó. Lưới kim loại có mắt không lớn hơn 40.40mm; nên sử dụng lưới gia công sẵn như lưới dan. Lưới đan có ưu điểm là khi đóng nó lên bề mặt thì không phải tất cả các cạnh của nó đều áp sát vào bề mặt, đổ đó tạo nên một độ nhám cần thiết. Khi lớp vữa có chiều dày 20 - 25mm phải đóng các thanh gỗ đệm hoặc các thanh cốt có chiều dày tối thiểu 3mm; đóng cách nhau 40-50mm. Lưới được cắt ra thành từng mảnh có kích thước hợp lý. Trước tiên đóng ở một đầu, sau đó kéo căng tấm lưới ra và đóng đầu còn lại, cuối cùng mới đóng ở giữa. Đinh được bố trí theo kiểu hình vuông hoặc ô bàn cờ, cách nhau khoảng 100 mm; dùng định 5-7cm, định chỉ đóng ngập 3/4 chiều dài của nó, phần còn lại thì hé quập để ốp chặt lưới vào với bề mặt.
Cấu tạo của các kết cấu ô thép kiểu lưới có lớp trát mặt:
Kết cấu cốt thép kiểu lưới được sử dụng khi làm trần treo, làm các vách ngăn mòng bằng bê tông cốt thép, xây các dai, gờ mái, chân cột. Chúng khác nhau về hình dạng, rất nhẹ và không cần nhiều vật liệu.
Cấu tạo của kết cấu thép: gồm khung chịu lực, khung phân phối và lưới thép.
Khung chịu lực được làm theo hình dáng của kết cấu sẽ trát vữa và chịu toàn bộ tải trọng cửa kết cấu đó. Các đầu mút cửa khung chịu lực được chôn chặt vào trong tường hoặc trần nhà và được chốt bằng nêm thép hoặc Khung phân phối (2) chỉ đỡ lưới để lưới bám chắc và không bị võng, lưới bị võng hay khung chịu lực gia công thiếu chính xác thì lớp vữa trát sẽ bị dầy lên. Khi làm trần treo, khung phân phối sẽ được móc vào khung chịu lực và được hàn hay bước chặt lại.
Lưới thép có mắt không lớn hơn l0xl0mm để nhanh chóng tạo nên lớp vữa trát. Cách dính lưới vào khung như sau: cắt lưới thành từng dải, dùng dây thép bước chật một đầu của dải lưới rồi kéo cùng dải lưới và bước ở đầu kia, sau đó mới bước ở phần giữa, các nút bước bố trí theo kiểu ô bàn cờ và các nút cách nhau 100- 150mm.
Chuẩn bị các môi nối dầm thép và bản bê tông cốt thép
Căng lưới ở các mối nối giữa các bề mặt làm bằng những loại vật liệu khác nhau:
Độ hút nước của các loại vật liệu không giống nhau, đổ đó thời gian khô cứng của vữa trát trên các vật liệu đó cũng khác nhau. Để giữ cho các lớp vữa đó không bị nút tại mối nối giữa hai loại vật liệu khác nhau người ta căng lưới kim loại có mắt từ lo.lomm đến 30x30mm. Đinh được đóng cách mắt lưới khoảng 20-30mm và cách nhau 200-250mm.
Chuẩn bị bản bê tông cốt thép lắp ghép và dầm thép:
Bản bê tông cốt thép và dầm thép là hai vậi liệu khác nhau để lớp trát bám dính và không bị nứt. cần bọc lưới thép xung quanh dầm thép trước khi lắp đặt bản. Khoảng cách giữa các vòng dáv không được quá 50mm.
4. Kỹ thuật trát
Yêu cầu kỹ thuật (TCVN 5674:1992-2)
Chiều dày lớp vữa phụ thước vào chấi lượng mặt trát, loại kết cấu, loại vữa sử dụng và cách thi công trát.
Chiều dày lớp trát trần từ lo đến I5mm; nếu trát dày hơn phải có biện pháỊ) chống lở bằng cách trát lên lưới thép hay thực hiện trát nhiều lớp.
Chiều dày lớp trát phẳng đối với kết cấu tường thông thường không nên quá 12mm, khi trát chất lượng cao hơn - không quá 15mm và chất lượng đặc biệt cao - không quá 20mm.
Khi trát dày hơn 8mm, phải trát làm nhiều lớp, mỗi lớp không dày quá 8mm và không mỏng hơn 5mm (khi trát bằng vữa vòi).
Lấy mũi bay kẻ thành ô trám để tăng độ bám dính giữa các lớp.
Ô trám có cạnh khoảng 60mm, vạch sâu 2-3mm.
Lớp trát phải phẳng. Khi lớp trát trước se mặt mới trát tiếp lớp sau. Nêu lớp trước đã khô mặt thì phải tưới nước để trát tiếp.
Nếu trát bằng vữa xi măng, chiều dày mỗi lớp không được quá 5mm. Lớp trát tạo phẳng mặt, không dầy quá 2mm. Đối với trát trang trí (trát mài, trát rửa, trát băm,v.v.) cho phép lớp trát cuối cùng dày 5mm. Lớp trát ngoài cũng được thực hiện khi các lớp lót đã đóng rắn. Những phòng thường xuyên ẩm ướt như khu vệ sinh, phòng tấm rửa, lớp trát phải dùng vữa xi măng để chống thấm và tăng độ bám dính giữa các lớp trát.
Các lớp vữa trát và phương pháp trát
Các lớp vữa trát
Có hai loại lớp vữa trát: lớp trái nền và lớp trát hoàn chinh. Nếu chiều dày của lớp vữa trát lớn, vữa nền có thể được Trát làm hai lớp: lớp lót cào và lớp trát san bằng. Như vậy có thể trát làm hai hoặc ba lớp.
Trát vữa ba lớp bao gồm: (1) lớp lót cào trát trực tiếp trên nền vữa trát, cào ngang sau khi đã hút nước. Khi trát vữa lên bể mặt gỗ bằng máy bơm vữa, lớp vữa lót không được dày quá 9mm, còn lên bé mặt dá, bê tông và gạch thì không được quá 5mm. Để trát lớp lót người ta dùng vữa có độ sựt lớn 8 - 12cm để vữa chảy ngấm vào tất cả các lỗ và những chỗ gồ ghề trên bê mặt trát, lớp vữa lót phải bám dính chặt vào bề mặt và giữ chắc các lớp vữa sau. Pha trộn và trái lớp lót càng tốt thì độ bám dính của nó càng tốt dẫn đến toàn bộ vữa trát sẽ càng bền. (2) Lớp trát san bằng (lớp dệm) tạo bề mặt nền, nối các mốc thích hợp; (5) lớp trát hoàn chỉnh (lớp mặt) là lớp vữa thứ ba. Lớp này phải dày 2mm. Vữa dùng cho lớp mặt được trộn bằng cát nhỏ đã qua sàng có mắt 1,5x1,5mm. Lớp này mòng và mềm rất dễ xoa hoặc miết phẳng.
Trát vữa hai lớp, lớp trát san bằng được trát ngay trong một vài phút khi lớp lót chưa đồng cứng.
Trát ba lớp thình 1.13) sẽ bền và cứng hơn. Trát lớp lót nên dùng phương pháp vẩy để vữa ăn sâu vào các chỗ gồ ghề. Khi trát lớp thứ hai và thứ ba thì có thể dùng phương pháp trát.
Phương pháp trát
Có thể lên vữa bằng những phương pháp khác nhau.
Lên vữa bằng phưong pháp vẩy:
Vẩy vữa bằng bay:
Cần thùng để pha trộn và bảo quản vữa. bàn lột đựng vữa và bay. Thùng vữa được đặt sát gần bề mặt trát. Dùng bay xúc vữa ten bàn lột thình 1. 14): đưa bàn lột đến gần bề mặt trát, dùng bay lấy một lượng vữa vừa phái, rồi vảy lên bề mặt cán trát. Vữa được đập mạnh đều dặn lên bề mặt trát sẽ lấp kín các lỗ hổng, các chỗ gồ ghề và sau khi được làm chật sẽ tạo nên một lớp vữa khồng có lỏ rỗng và không bị rỗ.
Khi trát tường, người ta vẩy vữa ở tầm ngang đầu, hoặc cao hơn một chút, ở tầm ngang thắt lưng, ngang với sàn thao tác hoặc giá đỡ.
Khi trát trần, người ta cũng vẩy vữa lên trần theo nhiều kiểu khác nhau: qua đầu, qua vai, thẳng lên và xiên lên.
Vấy vữa bằng môi:
Vữa còn được vẩy lên các bề mặt thẳng đứng hay nằm ngang, cũng như lên các bộ phận khác bằng môi, Không nên-dùng môi để vẩy hắt vữa vôi - thạch cao vì loại vữa này chóng khô cứng, hay dính bám vào môi, nên làm cho môi nặng hơn.
Lên vữa bằng phương pháp trát.
Để trát vữa người ta dùng bay, bàn xoa và bàn lột. Vừa trát phải đủ dẻo, đặc quá hay loãng quá đều khó trát,
Trát vữa bằng bay:
Vữa được trát lên các bề mặt có lưới chủ yếu bằng bay. Trước khi trát người ta vẩy trước lên mặt lưới một lớp vữa. Sau khi khô cứng, lớp vữa đó sẽ giữ cho lưới không bị rung. Sau đó người ta mới bắt đầu trát. Vữa được lấy lên
bàn lột hoặc bàn xoa. rồi sau đó được trát lên bề mặt bằng mặt sau cửa bay. Khi trát vữa lên trần nên xê dịch bàn tà lột hay bàn xoa theo sát bay để hứng lấy số vữa rơi. Trát lớp vữa lót nên dùng phương pháp trát vữa bằng bay, khi cần làm cho bể mặt lớp vữa trái có một độ nhám nhất định để nó có thể giữ chắc các lớp vữa sau.
Trát vữa bằng bàn xoa:
Dùng bay gạt vữa lèn bàn xoa, sau đó dùng cả hai tay đế lột vữa lên bé mặt cần trái. Nếu trát tường thì miết từ dưới lên trên, còn nếu trát trần thì miết về phía mình. Như vậy trên bề mặt trát sẽ hình thành những đá i vữa. có chiều dày bằng nhau.
Cán phẳng:
Cán phẳng bằng bàn lột :
Bàn lột được đặt sát vào bề mặt đã được trát vữa hơi cách khỏi mặt tường, sau đó vừa ép bàn tà lột vào tường vừa đẩy từ dưới lên trên. Nếu san bằng vữa trên trần thì kéo bàn tà lột về phía mình. Để san vữa một cách chính xác hơn nên làm như sau: đối với tường, đầu tiên dẩy bàn tà lột theo hướng thẳng đứng, sau đó lại theo hướng nầm ngang; còn đối với trần thì đầu tiên san theo chiều dọc, sau đó lại san theo chiều ngang. Trong quá trình san, vữa thừa được gạt bớt đi, chồ thiếu được bù thêm. San vữa để làm phẳng bé mặt trát đồng thời để đặt được chiều dày cơ bản của lớp vữa nền, nên khi san cần một lực ép thích hợp lên bàn sàn.
Cán phẳng bằng thước tầm:
Thước tầm được đặt theo mọi hướng để kiểm tra mặt san bằng bàn lột. Trường hợp tường có yêu cẩu trát kỹ, trước khi trái người ta thường làm mốc. Khí san vữa thước tầm được đặt trên thanh vữa mốc, đưa từ dưới lên, vữa thừa bị cán bằng, chỗ thiếu vẩy vữa, cán lại cho đến khi đạt độ phẳng theo mốc trát.
Xoa nhẵn :
Trát lớp mặt và xoa nhẵn là những công đoạn kết thúc quá trình
Cán phẳng bằng thước tầm trát.
Vữa được trát trên mặt tường hoặc trẩn thành một lớp mỏng và được san bằng một cách cẩn thận bằng bàn xoa, mặt san càng phẳng càng dễ xoa nhẵn. Độ nhẵn và độ liền khối của bề mặt lớp vữa phụ thước rất nhiều vào chất lượng và đô ẩm của vữa dùng để trát lớp mặt.
Vữa được trộn cẩn thận bằng cái nhỏ hạt với độ béo tiêu chuẩn thì khi xoa nhẵn và miết phẳng sẽ rất nhanh chóng và dẻ dàng. Nếu vữa trộn không đều thì sau khi xoa xong độ nhẵn trên toàn bộ bề mặt sẽ khác nhau. Vữa béo làm cho mặt vữa bị thô, để lại nhiểu dải vết trát, còn vữa gầy thì không đủ bền và khó xoa nhẵn.
Trước khi trát khoảng 12-20 phút, người ta tưới nước lên bề mặt lớp vữa đã trát trước đó để sau khi trát xong lớp trát mặt sẽ có được lớp vỏ liền mộí khối.
Lớp vữa trát có thể được xoa nhẵn theo đường tròn hoặc theo đường thẳng. Xoa nhẵn theo đường thẳng dùng cho mặt trát có yêu cắu chất lượng bề mặt cao.
Xoa nhẵn theo đường tròn thình :
Áp bàn xoa lên bể mặt iớp trát hoàn chinh và tiến hành xoa theo chiều ngược với chiều kim đổng hồ. Chỗ nào lồi lên thì ép mạnh, chỗ nào phẳng thì ép nhẹ hơn, chỗ nào còn lõm thì vẩy bù vữa rồi mới xoa. Xoa từ trên xuống, từ các góc ra, trong quá trình xoa nếu vữa khô phải dùng chổi đót thấm nước chỗ khô rồi mới xoa, để tránh hiện tượng nổi cát. Xoa nhắn theo đường tròn dễ để lại vết xoa hình tròn. Sau khi trát xong vết xoa còn lại có kích thước đều nhau, không còn chỗ rỗ, chỗ lồi lõm và các khuyết tật khác.
Là ép thân bàn xoa vào bề mặt lớp vữa trát rồi miết đi miết lại theo chiều thẳng đứng. Tốt nhất là xoa nhẵn theo đường tròn trước trong phạm vi một tầm tay khoảng 0,5-Im2 thì xoa tiếp ngay bằng cách xoa theo đường thẳng; nếu vữa đã hơi khô thì phải thấm nước trước khi xoa. Sau khi xoa theo đường thẳng trên bề mặt lớp vữa sẽ không còn vết xoa, chỗ rỗ, chỗ lồi lõm cũng như các khuyết tạt khác.
Bề mặt lớp vữa trát sẽ đạt được độ nhẵn và độ mịn cao nhất nếu trước tiên nó được xoa bằng bàn xoa gỗ và sau đó được xoa lại bằng bàn xoa có bọc phớt.
Miết phẳng bằng bàn xoa miết:
Để tránh sạn cát và dễ quét màu hoặc lăn sơn lên bề mặt lớp vữa ưát người ta dùng vữa không có cát để trát lớp trát mặt. Vữa không cát thường là vữa vôi và thạch cao lên vữa và san bằng bằng bàn xoa sắt, miết phẳng bằng bàn xoa sắt hoặc bàn miết bọc cao su.
Miết phẳng góc nhau. Với tường thì đầu tiên miết theo phương ngang sau đó mới miết theo phương đứng. Với trần đầu tiên miết xoa nhần bằng bàn xoa theo phương thẳng góc với hướng ánh sáng vào từ cửa, sau đó miết phẳng dọc theo hướng tia sáng đó. Miết phẳng bằng bàn xoa có thêm bọc cao su bề mặt sẽ mịn và nhẫn. Với bề mặt này thì tốt nhất nên quét sơn dính. Miết phẳng bằng bàn xoa sắt thì lớp vữa sẽ như được láng bóng, phù hợp với sơn đầu.
Làm mốc trát
Mốc trát vữa có tác dụng điều chỉnh chiều dày của vữa trát, bảo đảm mặt trát phẳng, thẳng đứng, các góc vuông. Mốc trát được làm trên tất cả các loại bề mặt: tường, cột, bổ trụ, trần, dầm; có thê bằng kim loại hoặc gỗ đặt xung quanh tất cả các khoảng trống cần trát hay các dải vữa trát liên tục dọc theo tường hoặc trần để làm thanh vữa mốc (với các mặt tường rộng). Khoảng cách giữa các thanh vữa mốc phải nhỏ hơn chiều dài thước tầm.
Làm mốc trát tường:
Để làm các đường gờ mốc trước tiên phải quan sát, thả dọi hoặc đạt thước tầm kiểm tra mặt phẳng của kết cấu và phạt bằng những chỗ lồi, đắp thêm những chỗ lõm. Cũng có thổ đóng đinh tạo đường gờ mốc ngoài cùng rồi mới thả dọi kiểm tra. Sau đó làm phằng bề mặt cần trát bằng cách điều chỉnh các đỉnh mốc, đỉnh nhô ra bằng chiều dày lớp vữa nền.
Bề mặt của bức tường được cán phẳng là trình tự đóng các đinh mốc. Căng dây ngang dọc và theo hai đường chéo để kiểm tra mặt phẳng, độ thẳng đứng của mặt đinh.
Ngoài các đường gờ mốc bằng vữa hoặc thạch cao còn có các đường gờ mốc bằng gỗ hoặc kim loại, chúng chủ yếu được dùng khi trát các bề mặt gỗ, gạch cũng như các bề mặt khác có thể đóng đinh được. Dưới các đường gờ mốc bằng gỗ có gắn các mốc chuẩn bằng kim loại. Gờ mốc bằng gỗ hoặc kim ioại được dùng khi trát vữa bằng máy.
Đường gờ mốc bằng vữa có độ bền kém, khi dùng xong cạo đi một lớp dày khoảng 5-lomm hay băm khía.
Trước khi trát nối các đường gờ mốc nên trát vữa vào các mũ đinh, cách làm như sau: trát miếng vữa hay thạch cao có .kích thước khoảng 50-70mm và cao hơn đầu mũ đinh 3-5mm. Khi vữa khô thì cãi bò một ít vữa trên đầu miếng vữa sao cho bé mặt cửa nó ngang bằng với đầu mũ dinh, thành bên của miếng vữa mốc cũng cắt vuông kích thước 60x60 hoặc 80x80mm. Cuối cùng trát nối các miếng vữa mốc thành đường gờ mốc.
Làm mốc trát trần:
Dùng ống thủy bình vạch đường ngang bằng xung quanh tường cách trần 20-50cm sau đó dùng bay đắp mốc tại 4 góc trần; dùng đây càng qua các mốc ở góc trần làm các mốc trung gian. Nối các mốc thành các đường mốc.
Làm mốc trát Mốc trát dầm được đặt cách tường hoặc cột 50-100cm, nếu dầm dài phải làm các mốc trung gian. Dùng thước nivỏ, Ống thủy bình, thước góc và thước tầm để kiểm tra các mốc.
4.3- Trát góc lồi, lõm
Trát mép vát và mép trôn
Góc lồi, lõm là góc giữa 2 bức tường, giữa trần và tường hoặc góc các cột vuông và cột chữ nhật... Vì mép tường chỗ góc nhị diên lồi hay bị sứt mẻ nên người ta hay mài mép này thành mép vát hay mép tròn.
Những góc và mép nói trên đòi hỏi nhiều thời gian và sự khéo tay nhưng nó sẽ tăng thêm vẻ đẹp cho công trình.
Dụng cụ cần thiết là bàn xoa, thước tầm, bàn xoa góc trong, bàn xoa góc ngoài. Vữa trộn bằng cát mịn đã qua sàng lọc. Khi trát góc lồi, lõm để xoa nhán người ta dùng bàn xoa góc ngoài, bàn xoa góc trong, vừa tì vừa miết thân bàn xoa lên trên và xuống dưới cho tới khi tạo được mép góc nhẵn, thẳng đứng hoặc nằm ngang. Nhũng chỗ chưa đạt yêu cầu xoa lại bằng bàn xoa, xoa theo đường thẳng thẳng đúng hoặc nằm ngang.
Người ta còn sử dụng thước tầm và bàn xoa xoa nhẵn các góc lồi. lõm; dùng cách này thợ phải có tay nghề cao, nếu không các góc sẽ không được thẳng, mịn và sắc cạnh.
Sau khi trát và xoa góc, người ta có thể làm mép vát hoặc mép tròn: dùng nước thấm ướt mặt vữa, dùng bàn xoa để sửa thành mép vát hay mép tròn. Với mặt vát rộng dùng bay lá tre cắt hớt bớt vữa ở mép góc đi, tưới nước lên chỗ đó rồi mới dùng bàn xoa tạo mép vát hoặc vê tròn. Nếu là mép vát thì phải có chiều rộng như nhau, còn nếu là mép tròn thì phải có mặt cắt như nhau trên toàn bộ chiều dài. Khi cần tu sửa mép vát hay mép tròn dùng bàn xoa là thẳng.
Trát cột
Các cột chịu lực và trang trí trong các công trình dân dụng thường có tiết diện vuông, chữ nhật, đa giác và tròn.
* Gióng thẳng từng các cột:
Nếu có một số cột cùng nắm trên một đường thẳng, đầu tiên người ta gióng thẳng tim các cột ngoài cùng. Sau đó căng dây lên các định móc trên các cột này để gióng nốt các cột còn lại. Nếu trên các cột có những phần nhố ra phải đẽo bỏ nếu không chiều dày lớp vữa trát sẽ lớn.
Trình tự gióng các cột thẳng như sau: Trước tiên đóng một cái định vào tim ở phía trên của cột ngoài cùng, rồi thả dọi xuống phía chàn cột, theo dọi đóng 1 định nữa gần chân cột, sau đó căng mội sợi dây giữd hai đầu mũ đinh đã đóng. Dựa vào tim các cột ngoài cùng, căng dây để gióng thẳng tim các cột giữa.
Cách lấy mốc trên các cột vuông, chữ nhật giống như lấy mốc trát các góc lồi. Trát các cột tròn, và bán. nguyệt người ta dùng các đường gờ mốc. Các đường gờ mốc này bao quanh cột như một cái đai.
Để trát các đường gờ mốc được chính xác người ta phải tạo khuôn vành tròn; khuỏn vành tròn là một tấm ván dày 20- 30mm; chiều dày đai vữa bằng chiều dày lớp trát; dùng bay lá tre cắt gọn các mép đai mốc. Dọc theo chiều cao cột làm nhiều đai mốc như vậy sao cho khoảng cách giữa các đai nhỏ hơn chiều dài thước tầm .
Đai mốc trên các cột bán nguyệt cũng làm tương tự như trên nhưng dùng khuôn bán nguyệt. Với cột có nhiều cạnh thì chế tạo khuôn theo hình dáng của cột. Khuôn càng chính xác thì đường gờ mốc sẽ chính xác.
Hình 98
Trái cột, thường trát làm hai lớp: lớp nền và lớp mặt. Lên vữa bằng cách vẩy bay, cán phấng bằng thước tầm. Trát côt vuông xem hình 1.29: trát cột tròn xem hình 1.30.
Trát má cửa, hèm cửa
Dụng cự trát có thêm thước hèm. tiết diên rộng 40mm. dài 600-100mm.
Với cửa không khuôn cần trát hèm và má cửa với cửa có khuỗn dơn phải trát má cửa. Hèm và má cứíi phải dùng kích thước, thẳng và sắc cạnh. Má cửa phải phẳng nhẵn, song song và vuông góc với nhau và vuông góc với hai mặt tường trát.
Trường hợp cửa không khuôn: trước tiên trát lớp nền; bề dày mỗi lớp trát từ 8-l0mm sau đó đặt thước để trát hèm .
Trường hợp cửa có khuôn đơn: trát má cửa lanh tô giống như trát góc lồi ngang, trát hai má cửa thẳng dứng giống trát góc lồi đứng thình 1.32). Kích thước chiều rộng má cửa trên các mặt cắt ngang phải bằng nhau.
Chú ý: Trước khi trát những bức tường ngoài có cửa cần lấp kín các khoảng trống xung quanh cửa để khuôn gỗ co đãn được dễ dàng, bảo đảm chống thấm, chống gió lùa và cách àm... Hiện nay trên thị trường có nhiều loại vật liệu chống thấm mối nối hiệu quả như chất chống thấm có polisuníat, chất chống thấm có cao su silic dùng kết hợp với súng bơm v.v.
Trát gờ, chỉ, phào
Gờ, chỉ. phào là những dảy vữa định hình, chúng có tác dụng trang trí nội thất và ngoại thất ngôi nhà. làm cho những mặl pháng, những bệ cửa, gờ mái v.v. trở nên sình động, có hình khối và mềm mai hơn...
Gờ, chỉ, phào được làm hàng các loại vữa khác nhau: vữa vôi, vữa vôi-thạch cao, vữa xi măng, vữa tam hợp và vữa trang trí, trong đó cốt liệu là những hạt đá cỡ to. Trát gờ, chí bằng vữa xi măng và vữa trang trí là khó hơn cả vì các loại vữa này rất cứng mà lại cần trát thành những lớp mỏng. Hình II. 1 là mặt cắt của các gờ, chỉ trang trí. Gờ, chỉ có thể thẳng, cong hoặc hỗn hợp. Mỏi một chi tiết trang trí gồm một hoặc một số gờ, chỉ tạo ra các dải ngấn kiến trúc như phào trần, đai cột,,,.
Dụng cụ trát gờ
1.2 Yêu cầu kỹ thuật
Bảo đảm vị trí, hình dáng, kích thước thiết kế.
Bê mặt phẳng, nhẵn.
Cạnh gờ thẳng, sắc, các góc vuông.
Trát gờ thẳng
Trước khi trát gờ, dùng dây và livô kiểm tra độ íhẳng, phẳng, ngang bằng của gờ, dùng thước góc kiểm tra các góc vuồng, dựa trên các số liệu kiểm tra điều chỉnh lớp vữa trát. Làm mốc trát cả ba mặt dạ, thành, mặt gờ rồi trát lót. Trát lớp mặt: trát dạ gờ - thành gờ - mặt gờ - chỉ. Nếu cửa có khuôn thì vữa trát mặt bệ phải ăn sâu vào dưối khung ít nhất lcm. Khi trát nhiều chỉ phức tạp phải dùng khuôn mẫu. Trát gờ giông trát cột vuông, chữ nhật.
Trát chỉ
Trát chi tiết diện vuông, chữ nhật trát như trát gờ sau đó đặt thước và dùng bay lá tre hoặc dao cất tạo hình, trát chỉ có tiết diện cong dùng thước cữ làm mốc thình II.3) và dùng thước cán tựa lên mốc tạo chí. Với chỉ tiết diện nhỏ cong lồi có thể lấy yữa vào bàn xoa cong dựa vào thước thẳng làm cữ gắn liêntiếp các đoạn chỉ sau đó .dùng thước trát chỉ nhúng nước sửa lại cho thẳng và bóng. Chỉ phức tạp gồm nhiểu chỉ đơn, trát theo thứ tự 1, 2, 3; trát chỉ sau khi chỉ trước đã khô
Trát chỉ cong tiết diện vuông chữ nhật
Chỉ trang trí có hình cong tròn, hình vòm, hình ô van. Sạu khi trát tạo bê dày chỉ thì tiến hành vẽ tạo hình chỉ trên mặt trát, sau đó có thể dùng dao cắt tạo chỉ, dơn giản hơn là dùng khuôn mẫu; khuồn mẫu được làm bằng gỗ, nhựa... Do hoàn thiện chỉ có hình cong tròn dùng thước bán kính, một đầu thước gắn với khuồn mẫu một đầu gắn với tâm của hình cong tròn. Đầu khuôn mầu có đóng một đoạn gỗ làm tấm trượtế Các đầu của tấm trượt được cắt vát đổ khi trượt chúng không cắt vào bể mặt lớp vữa nền; chiều dài của tấm trượt từ 100-400mm tùy theo bán kính cong của đai trang trí. Tấm trượt được đóng vào đầu ván tạo hình ở một độ cao nào đó để bảo đảm các chỉ có chiều dày cần thiết.
Các chi tiết trang trí trên vòm càng có hình dạng phức tạp càng khó trát. Hình dạng của chỉ được tạo bởi số diểm hoặc tâm mà từ đó tạo chỉ, các điểm này phải được xác dịnh thật chính xác để bảo đảm hình dáng của vòm không bị biến dạng.
Tâm vòm được xác định bằng cách dò chọn. Cung vòm càng cong thì báh kính càng nhỏ. Sau khi đã chọn được tàm, ta gắn một tấm ván vào giữa hai bức tường đỡ vòm và tiến hành đo vạch chính xác tâm 0, đóng thước bán kính vào tâm này rồi tiến hành tạo chỉ, trước tiên tạo chỉ ở phần cong của vòm sau đó mới tạo ở phần thẳng từ dưới lên.
Vòm hộp là kiểu vòm ba tâm. Phải xác định tâm của từng đoạn cung vòm. VỊ trí các tâm này phải thật chính xác, nếu không các đoạn chỉ sẽ không gặp nhau.
Đầu tiên xác định sơ bộ vị trí các tâm bằng cách tính toán hoặc dò chọn. Sau đó cố định ván ngay, vạch chính xác vị trí các tâm vòm. gắn thước bán kính từ tâm Oj tạo chỉ trên đoạn cung AB trước, sau đó từ các tàm O1 và .Oi tạo cung AC và BD. Vòm mũi tên dơn giản thình II.9) được tạo chỉ từ hai tâm. Tìiv theo độ dốc của vòm, các tâm có thế nằm ở những độ cao khác nhau, gần hoặc xa diêm giữa của vòm.
Trát phào
Phào là loại chi tiết Trang trí tạo sự chuyến tiếp mềm mại giữa hai bức tường, giữa tường với trần...
Có nhiều, tùy theo số lớp chỉ vuông mà có phào đơn (a), phào kép (b) hay phào phức tạp (c).
Trình tự trát phào:
1) Trước khi trát phào phải trát xong trần còn tường chi trát tới lớp nền.
Đo và kẻ vạch hai đường chân phào lên hai mặt trát thình II. 11).
Trát gờ chỉ theo trình tự 1, 2 có thể dùng phương pháp cắt hoặc dùng thước trát cạnh phào (5) .
Hình 106
Trát lòng phào, lên vữa thành nhiều lớp cong mỏng để vữa không bị chảy sệ, tạo -hình bằng bàn lột có thân hẹp, sửa lại bằng bàn xoa hoặc bằng thước phào đê mặt cong có hình dạng thật chính xác, có thể đặt thước có chiều rộng lo-15cm để tựa thưóc phào. Khi trát phào có hình thù phức tạp người ta dùng khuồn mẫu. Khuôn mẫu được kéo trượt trên thước 2, 3. Thước phía trên ngắn hơn thước phía dưới một đoạn bằng chiều dài tấm trượt để tháo tấm trượt được dễ dàng.
Trát trang trí cột
Trát tạo máng lõm, tạo chân và mũ cho cột tròn
Tạo máng lõm trên cột 4 cạnh
Máng lõm là những rãnh hình máng thẳng đứng trên cột và phân cách nhau bởi các chỉ tròn hẹp. Trên cột 4 cạnh, các máng lõm được tạo bời một khuồn đơn giản, ván tạo được bọc thép và ở hai đầu có đóng hai tấm trượt (3), thước (1) được treo trên cột để làm thanh ưượt. Các khuôn được kéo từ trên xuống và đẩy từ dưới để tạo máng lõm. Xử lý các đầu phía trên của máng lõm ngoài thước và dao cắt ra người ta còn sử dụng thước cán làm bằng gỗ ván hay gỗ dán.
Căn cứ vào kích thước mặt cắt ngang thực tế của cột mà tính toán, phân chia chu vi mặt cắt ngang thành các đoạn phù hợp với sò máng lõm chân. Khuôn phải được chế tạo sao cho các tấm trượt chạy dọc theo các thước treo nằm chính giữa các máng ìồm để công tác hoàn thiện lõng máng được dễ dàng. Cột tròn thường có thể tạo hình làm hai lần, cột tròn thuôn phải tạo hình làm sáu lần.
Hình 107
Sau khi đã đặt và điều chỉnh khuôn một cách chính xác, trát vữa lên cột, cán bằng mặt thước, sau đó ép đấy khuôn lên và tiến hành trượt tạo lòng máng. Khi tạo các máng lõm trên cột. một đầu khuôn phải luôn luôn vượt lên trước. Chân và mũ cột tròn cũng được tạo bởi khuôn trát phào chỉ. Tại đai trang trí có lớp phủ mặt. Để làm mốc vữa trên và dưới, người ta quấn dây to (5) rồi trát vữa lên đó. Tạo mũ cột cũng giống như tạo các chỉ thẳng. Ngoài các loại vữa thông thường, khi tạo các chỉ người ta còn dùng cả vữa trang trí để trái iớp (rái mặt thình l1.20); người ta dùng khuôn có lá tôn tạo hình được ốp nhố ra khỏi ván lạo hình bằng gồ một khoảng bằng chiều dày của lớp phủ (lo'15mm). Đầu úên dùng khuôn có lá tôn để tạo đai trên lớp nền. Sau dó, gỡ bỏ tấm tõn ra, rồi lại đặt khuôn áp lên thước. Khi đó giữa ván tạo hình và lớp nền sẽ có một khoảng trống cần thiết để trát lớp phủ. Tiếp theo làm nhám bể mặt Ịớp nén và sau khi nó khó cứng thì trái 2-3 lượt vữa phủ, rồi dùng khuôn để đẩy trượt cho tới khi tạo được chi tiết hoàn chỉnh.
Tạo hình chữ cột nhiều cạnh
Trước tiên phải tạo mốc và các đường gờ mốc, sau đó treo thước rồi tạo hình theo phương pháp thông thường. Với cột bằng tùy theo chiều dày lớp vữa trát có thế tạo hình làm hai lần. Thước được treo đọc theo trục cột trên hai mặt đối diện. Khuôn được làm để tạo hình cho nửa vòng cột. Nếu cần tạo máng lõm thì ván tạo hình phải được làm theo dạng máng lõm cho từng cạnh cột .Kéo vân, vẩy hạt, xoa nhám, quét giả đá
Vữa xi măng, vữa vôi còn có thể tạo ra bể mặt trang trí bằng một số thao tác và dụng cụ thích hợp.
Kéo vân
Kéo vân là sử dụng bay hoặc bàn chải gai để kéo thành vân sóng hoặc nổi hạt nhỏ trên lớp mặt. Trang trí kéo vãn dùng thích hợp để trang trí các bức tường bên trong có yêu cầu vé chất lượng âm như trong rạp chiếu bórìg, rạp hất, v.v. cũng có thể dùng cho tường bao, lan can.
Kéo vân có nhiểu kiểu: kéo vân dài, vân ngắn, kéo vân thô, vân mịn, vân sợi v.v. Khi mặt phẳng và độ thẳng đứng của lớp vữa nén đã đạt yêu cẩu thì có thể làm lớp mật.
Trước tiên cấn trộn và thử mẫu. Sau đó vẩy nước lên bé mặt lớp vữa trát nền đã khô 6-7 phần; độ âm vừa phải, sau đó trát lớp vữa hoàn chỉnh và kéo vân cùng lúc, làm từ trên xuống dưới cùng một lượt, yêu cầu hoa vân phải đều, đổng màu không để lại vệt nối, Cách làm xem bảng III.2.
Vẩy vữa
Vẩy vữa là dùng chổi sể tre nhúng vào vữa rổi vẩy đều lên lớp nền, dùng bay sắt ấn phẳng tạo nên những cụm mây nhẹ nhàng, thanh thoát như đang vần vũ trên bầu trời, thích hợp với bề mặt các công trình công cộng ở nơi yên t1nh, ít bụi. Lớp nền dày 15mm được trát làm hai lớp bằng vữa xi măng 1:3, nếu lớp nền là bê tông bọt thì trước đó phải quét một.lượt vữa nước keo (trộn 3-5% keo lót theo trọng lượng xi măng) đê nâng cao độ mẻm mại, độ kết dính, độ cứng của lớp nền, dễ dàng cho thao tác và tưới nước bao dưỡng. Dùng chổi tre nhúng vào vữa tam hợp 1:0,5:0,5 hoặc vữa xi măng cát 1:1 vẩy đều những cục vữa có kích thước 10-20mm lên lớp nền. Khi lớp vữa mặt hơi se khô, dùng bay sắt nhấn bằng những chỗ quá nhọn. Khi lớp mặt rán kết tiến hành chia ô và quét nước xi măng vào đường rãnh làm nổi rõ ô. Nếu dùng nước xi măng trắng có pha màu thích hợp để kẻ vẽ sẽ có hiệu quả trang trí cao hơn.
Xoa nhám
Yêu cầu và các thao tác xoa nhám tương đối đơn giản nhưng hiệu quả trang trí không được như kéo vân, vẩy vữa, phù hợp với những bức tường không có yêu cầu cao về trang trí. Vữa sử dụng là vữa lam hợp 1:1:6 cho lớp nền và lớp xoa nhám.
Khi xoa, nếu lớp vữa quá khô, cần phải vừa rảy nước vừa xoa, dùng bàn xoa gỗ để màu sắc lên đều. Khi thao tác, nấm chặt bàn xoa, đặt bằng lên mặt tường, xoa lừ trên xuống dưới thẳng đều, tự nhiên. Làm khéo léo, cẩn thận hiệu quả trang trí sẽ cao.
Quét giả đá
Quét giả đá là dùng chổi sể quét lên lớp vữa mặt chưa khô cứng hẳn, tạo bề mặt tựa như đá hoa cương, đá cưới; thích hợp cho trang tri tường trong, tường ngoài các cống trình như: khách sạn, nhà hát. Nên phủ thêm lớp sơn nhũ màu để tăng thêm hiệu quả.
Lớp nền dày I5mm được trát làm hai lớp. Cấp phối vữa trát lớp nền: nội thất dùng vữa xi măng vôi cát 1:1:6. ngoại thất dùng vữa xi măng 1:3, lớp mặt dùng vữa xi măng vôi cát 1:0,3:4 dầy lomm. Đặt nẹp tạo ô, trát lớp mặt, khi lớp mặt se khô dùng chổi sê’ kéo tạo vân theo thiết kế.
Đường vân dọc thì quét theo hướng từ trên xuống, đường vân ngang thì quét từ trái qua phải. Dùng thước ngắn đưa đỡ chổi. Một ố chiều ngang, một ô chiều dọc dan xen nhau, đường ván của hai ô cạnh nhau trái chiều nhau, khi chiều ngang dọc mâu thuẫn nhau thì dùng bàn xoa xoa bằng, không quét đường vân nữa. Tháo nẹp chia ô ngay khi có thể, dùng nước xi măng hoặc nước xi măng có pha màu tạo mạch.
Phun, lăn, bắn bằng vữa xi măng polyme
Vữa xi măng polyme là vữa thông thường có trộn một lượng polyme hữu cơ thích hợp để tăng độ dẻo của hỗn hợp vữa, làm chậm quá trình đông cứng của vữa, cải thiện chất lượng chống thấm và chống ô nhiễm của vữa.
4.1. Phun
Phun vữa xi măng polyme là dùng ham phun trát vữa tạo hình trên bề mặt vật kiến trúc.
Theo hình dạng có: phun tạo bề mặt có dạng vẳn sóng và phun tạo bề mặt chứa dầy các diểm hạt. Có thể dùng xi măng trắng hoặc xi măng thường có pha vòi.
Tỉ lệ cấp phối vật liệu thường có hai loại: loại xi măng trắng: chất liệu khác = 1:2, trộn thèm keo lót với ỉ lệ 10% trọng lượng xi-măng, sulfonat canxi chất gỗ với tỉ lệ 0,2-0,3% trọng lượng xi măng; loại xi măng thường: cao vôi: cốt liệu = 1:1:4 có trộn thêm keo lót với tỉ lệ 20% trọng lượng xi măng và sulfonat canxi chất gỗ với ti ỉệ 0,2-0,3% trọng lượng xi măng. Nếu sử dụng thêm phương pháp chất làm loãng thì phải trộn thêm meryl silicolnatri với tỉ lệ 4-6% trọng lượng xi măng. Yêu cầu tỉ lệ phối trộn phải chính xác, khuấy trộn phải đồng đều.
Phun tạo hạt, độ dẻo của vữa là 10-1 lcm, thường phun hai lượt, độ dày khoảng 3mm. Phun tạo vân sóng và diểm hoa, độ dẻo của vữa là 13-14cm, thuờng phun ba lượt, độ dày 3-4mm, phun tô diểm hoa phải thêm khâu điểm hoa.
Để phun phủ vôi có mặt gân, vữa vôi nhám đá, phun hạt với độ thố mịn khác nhau, phun vữa xi măng keo tổng hợp hai mặt lượn sóng... Nên sử dụng bơm vữa kiểu dừn ép có áp suất 0,l-0,15Mp, là loại bơm kiểu mới, ngoài ra có thể sử dụng bơm vữa không khí nén có áp suất phun 0,4-0,6Mp. Khi phun đầu súng phun phải thẳng góc vói mặt tường, phun tô dạng hạt cách mặt tường 15-30cm; phun tồ dạng sóng, cách mặt tường 40-60cm.
Trước khi phun phải che chấn những bộ phận xung quanh chỗ cần phun như khe thi công, khe chia ỏ, chỗ đã phun rồi... Phun xong phải làm sạch vữa rơi rớt. Sau 24 giờ phun một lớp thuốc chồng nước (thủy tính lỏng:nưóc =1:9) để duy trì độ sáng của màu.
4.2 Lăn
Lăn vữa xi măng polyme là dùng con lăn để lăn ra hoa văn trang trí trên lớp vữa mặt rồi phun chụp lên đó metyl silicolnatri.
Tỉ lệ phối trộn vật liệu: xi măng:vật liệu độn = trộn thêm keo lót
với ti lệ 20% trọng lượng xi măng, rổi trộn thcm sulfonat canxi chất gỗ với tỉ lê
3% trọng lượng xi măng. Độ sụt của vữa là I ]-l2cm, yêu cầu tỉ lệ phối trộn chính xác, khuấy trộn đều thành dạng sệtnhuyễn như cháo mới đem sử dụng.
Dụng cụ ỉãn thường dùng là con lăn in đầu cao su, con lăn polyưethane foam có bọc lớp mặt như vợt bóng bàn, rulô xốp có bọc màng mỏng bên ngoài... Rulô dài chừng l5-25cm.
Khi lăn bố trí hai thợ, một thợ dùng bàn lột lên vữa lớp mặt rồi dùng bay làm phẳng, một thợ dùng con lăn lăn ra hoa vãn. Nếu không nhanh tay, vữa khô, sẽ không lăn ra hoa văn.
Yêu cầu của cách lăn khô là từ trên xuống, đi lại chỉ một số lần lăn, không nên quá nhiều sao cho hoa vãn đồng đều là được. Cách lăn ướt yêu cầu vừa lăn vừa thấm nước lên tường, lượng nước cần vừa đủ không đế vữa chảy tướt. Lăn con lăn theo chiều từ trên xuống đưới để hoa văn hướng xuống một cách tự nhiên, không dùng cách lăn kéo ngang, tránh đóng hụi làm bẩn tường, làm gọn từng ô theo nẹp, không lăn tùy tiện lung tung. Để tăng độ bền sau 24 giờ phun một lớp chất chống nước để tăng độ bền.
Bắn
Bắn vữa xi măng polyme, trước tiên xoa quét một lượt vữa xi măng polyme lên mặt tường rồi dùng bộ bấn để bắn vài lượt vữa xi măng polyme cò các màu sắc khác nhau lên đó tạo thành những điểm màu to nhỏ khác nhau, rổi phun trùm lên một lớp metyl silicomatri, tạo nên một lớp màu trang trí.
Tỉ lệ cấp phối của vữa màu: xi măng, xi măng trắng:nước:keo lót = 1:0,8:0,13. Dựa vào màu mẫu, cho chất màu vô cơ để tạo ra màu cần thiết, rây sàng qua loại sàng 80 lỗ mất. dùng hết mỗi mẻ trong vòng 2 giờ. Tô vữa màu, cần tô từ trên xuống dưới, từ trái qua phải. Cần phải xoa tô đều, màu sắc như nhất, không sót lỗ chỗ.
Bộ tô bắn có hai loại, loại bằng tay và loại chạy điện. Cấp phối loại vữa màu điểm như sau: xi măng:nước:keo lót = 1:0,4:0,1; tùy theo nhu cầu cho thêm chất màu. Cách trộn: (rộn đều xi măng và chất màu, trộn keo lót với nước thành dạng keo loãng sau đó mới khuấy trộn cả hai với nhau rây qua sàng có 60 mắt, dùng hết mỏi mẻ trong 4 giờ. Cho vữa màu vừa đủ vào trong bộ tô bắn, nếu quá nhiều sẽ dễ chảy dẫn đến điếm màu không đều, vữa màu cũng cần hiệu chỉnh tùy theo nhiệt độ cao thấp của mòi trường. Sau khi tô bắn 24 giờ cần phun một lượt chất chống nước.
Đắp nổi trên lớp vữa trát
Lớp trát có nhiều màu sắc với hình đắp nổi được tạo nên bằng cách trát từng lớp mỏng vữa màu chồng lên nhau, sau đó khắc, chạm trổ hình trang trí lên đó. Kiểu lớp trát này rất khó sửa chữa mỗi khi hư hỏng.
Yêu cầu kỹ thuật (TCVN 5674:1992-5)
Những sản phẩm và chi tiết chế tạo hình đắp nổi được đưa đến hiện trường để gắn vào công trình phải ở trạng thái hoàn chỉnh, không phải gia công lại.
Trên bể mặt các sản phấm và chi tiết tạo hình không được có khuyết tật, nếp gẫy, vết nứt và vón cục vữa, sần sùi. Hình dáng và đường nét phải sắc gọn.
Trước khi gắn các chi tiết đắp nổi phải hoàn thành thi công bộ đế và nền gắn. VỊ trí của các chi tiết đắp nổi phải được kiểm tra theo thiết kế và đánh đấu trên bề mặt gắn của công trình hoặc gia công sẵn các chi tiết gá ghép các sản phẩm tạo hình.
Chất lượng bề mặt gắn của các sản phẩm tạo hình phải thỏa mãn những yêu cầu giống như đối với công tác trát.
Việc gắn các chi tiết đắp nổi phải thực hiện theo đúng thiết kế và đáp ứng những nhu cầu sau:
Chi tiết bằng vữa bột giấy được gắn mới.
Những chi tiết hay đường nét nhỏ nhẹ, trọng lượng dưới 1 kg chế tạo từ vữa thạch cao và có chiều cao dưới locm được gắn bằng vữa xi măng, nếu chiều cao dưới 5cm thì được gắn bằng vữa thạch cao hay vữa xi măng.
Những chi tiết có khối lượng trung bình từ lkg đến 5kg chế tạo từ thạch cao có chiều cao không quá locm được gắn bằng vữa xi măng, nếu chiều cao dưới 5cm thì được gắn bằng vữa xi măng hay thạch cao két hợp với đinh móc, bu lông gá định vị.
Những chi tiết có khối lượng trên 5kg, chế tạo có cốt thép thì khi gắn sản phẩm với công trình phải thực hiện gia công cốt thép của chi tiết với kết cấu chịu lực của công trình.
Những chi tiết liên kết bằng thép cần phải được bảo vệ bằng sơn chống rỉ hoặc mạ kẽm.
Những hình trang trí đắp nổi của mặt chính công trình xây bằng gạch cần gắn vào công trình đồng .thời với việc xây tường.
Không cho phép gắn các chi tiết chê tạo lù thạch cao bằng maớit vào bề mặt công trình mà lớp nền là vữa xi măng.
Khí nghiệm thu công tác đắp nổi phải thỏa mãn những yêu cầu sau:
Độ sai lệch vị trí của các chi tiết so với.thiết kế không được quá lmm trên chiều dài lm tường hay cạnh dắp nổi.
Độ sai lệch của trục các chi tiết đứng riêng biệt so với vị trí thiết kế không quá 10mm.
Những chi tiết của một hình phải nằm trong cùng một mặt phẳng được xác định theo vị trí thiết kế.
Những mạch ghép các chi tiết không duợc làm ảnh hưởng đến đường nét liên tục và tạo được hình nổi trên mặt công trình.
Các loại vữa thường dùng đẻ đắp nổi
Để trang trí bề mặt hên ngoài công trình thường dùng vữa xi măng. Trường hợp đặc biệt có thể chế tạo từ thạch cao, khi đó phải có biện pháp che chắn và bảo vệ để tránh tác dụng cửa nước mưa.
Để trang trí bể mặt bên trong công trình dùng vữa xi măng, thạch cao, vữa vôi hay bột giấy nghiền. Nếu độ ẩm không khí bên trong công trình vượt quá 60% thì không được dùng các chi tiết đắp nổi bằng thạch cao.
Các loại vữa dùng cho lớp trát có hình đắp nổi: Đối với lớp trát kiểu này, người ta dùng vữa loãng để trát. Màu sắc và thành phần vữa có thể khác nhau. Tỉ lệ pha trộn các loại vữa dùng cho lớp trát nhiểu màu như sau (tính theo phần thể tích):
Trắng - Nước vôi đặc xát trắng =1:3
Vàng - Nước vôi đặc:cát trắng:Oớơ = 1:3,5:0,2
Đỏ - Nước vói đặc xát trắng: Mốni = 1:3:0.4
Xanh nước biển - Nước vôi đặc cát trắng Umramarin = 1:3:0,3
Nâu - Nước vôi đặc:xi măng pooclăng-.cát trắng-.Ố vàng:thuốc nhưộm Umbra = 1:3:3,5:0,3:0,1
Hồng - Nước vôi đặc cát trắng:gạch nghiền vụn = 1:2,5:0,3
Trong các loại vữa nêu trên, số lượng bột màu được xác định bởi màu sắc và độ đầm nhạt của vữa.
Trát các lớp vữa màu
5.3.1 Chuẩn bị bé mặt và trát lớp vữa nền
Làm sạch, khía nhám, sửa mạch xây và rửa bể mặt. Sau đó cân phẳng bề mặt, làm các mốc và đường gờ mốc, trár các lớp vữa nén, khía hình ô trám, bảo dưỡng và để khô.
Trát các lớp vữa màu
Sau khi đã tưới ẩm lớp nền, tiến hành trát lớp vữa màu. Trát xong lớp nào thì cán phẳng và dùng bàn xoa hoặc thước cán miết chặt lớp dó, không để lại những lỗ rỗng bên trong lớp trát sẽ làm cho hình đắp nổi bị biến dạng.
Chiều dày các lớp trát hoàn chinh từ 6-25mm tùy theo cỡ hạt cốt liệu và có thể mỏng hơn. Lớp đầu tiẽn không được mỏng hơn 5mm nếu không sẽ làm lộ lớp nền. Các lớp sau dầy từ ]-2mm. Đôi khi người ta dùng chổi quét vữa loãng hoặc vôi để lên lớp thứ ba, thứ tư... Thường trát 3-4 lớp vữa, sau đó quét vài lớp vôi lên trên bề mặt lớp vữa còn ẩm. Chiều dày của các lớp vôi này 0,5-lmm.
Trình tự trát lớp trát nhiều màu gồm 3 lớp như sau: đầu tiên trát lớp vữa (màu đến chảng hạn) và cán phẳng bằng bàn xoa, Khi lớp này đã khô (15-30 phút) trát tiếp lớp thứ hai (màu đỏ chẳng hạn) và khi nó khô thì trát nốt thứ ba màu vàng bằng bay và xoa nhẵn. Đa số trường hợp từ lớp thứ tư đến lớp trên cùng quét bằng chổi và được miết phẳng lại bằng bay là tốt nhất. Nếu lớp mặt ưát trước đã quá khô phải dùng nước thấm thật ướt rồi mới trát lớp tiếp theo.
Tạo hình đắp nổi theo khuôn đổ hình bằng phương pháp cạo cât
5.4*1. Dụng cụ :
Dùng để cắt, cây, cạp vữa, v.v.
Chuẩn bị khuôn đồ hình và vẽ hình
Để làm khuôn đồ hình người ta dùng cáctông hoặc giấy cứng. Có thể dùng giấy than để in hình lên trèn foocmica hoặc vẽ hình trực tiếp. Vẽ xong dùng kim hay một dụng cụ thích hợp để đầm thùng đường viền của hình vừa vẽ. Khoảng cách giữa các lỗ đục thúng không quá 5mm, còn khoảng cách giữa các lỗ trên đường viền cong thì nhỏ hơn.
Gặp đôi miếng vải màn hoặc lưới ni lông để làm túi lọc bột màu, đổ bột phấn hoặc bột màu khô đã lọc qua sàng vào túi rồi túm bước đầu túi lại.
Đạt khuôn đổ hình lên bé mặt lớp trát, lấv một tay ấn mạnh nó xuống còn một tay cầm túi bọc bột màu và đập theo đường viền của hìnb vẽ trên khuôn đổ hình, bột màu qua lỗ thủng của khuôn đồ in hình vẽ lên mặt trát dưới dạng các chấm điểm. Đi chuyển khuôn đồ hình sang vị trí khác và làm tương tự.
Cạo cắt tạo hình
Sau khi trát 5-6 giờ (không
được để mướn hơn) thì tiến hành tạo hình trên lớp trát còn mềm và ẩm để dễ cắt. Đo dó, phải tính toán diện tích trát lớp mặt đủ để gia công trong khoảng thời gian đã định.
Đặt lưỡi cắt vào đường viền của hình vẽ rồi cất một rãnh hẹp dọc theo đường viền đó. Cắt xong dùng một cái nạo để nạo bỏ số vữa còn lại giữa các đường viền.
Độ sâu, nông của các lớp cắt phải phù hợp với độ đậm nhạt của các gam màu. Chẳng hạn tạo một hình vẽ trang trí gồm có lá và quả sồi: lá sồi màu xanh ỉá cây sẫm, quả sổi màu vàng, cốc đựng quả màu xanh lá cây nhạt, nền màu xanh nước biển. Như vậy để tạo hình trang trí cần phải có 4 lớp: lớp dưới cùng màu xanh lá cây sẫm dùng cho lá, lớp thứ hai màu vàng dùng cho quả, lớp thứ ba màu xanh lá cây nhạt dùng cho cốc và lớp thứ tư màu xanh nước biển dùng cho nền. Nét cắt sâu nhất là khi tạo hình lá, khi tạo hình cốc nét cắt chỉ cần sâu bằng chiều dày lớp vữa trên cùng. Sau khi cạo cắt xong dùng chổi đót mềm quét sạch toàn bộ bề mặt.
hình một ngôi sao năm cánh nổi hoặc chừn. Trước tiên người ta vẽ hình ngôi sao năm cánh. Sau đó dùng cưa dây để cưa đứt ngôi sao. Mảnh gố dán có hình ngôi sao khuyết sẽ là khuôn bọc dùng để tạo hình nổi thình II.24a), còn hình ngôi sao khoét ra là khuôn lõi Hình III.24b) dùng để tạo hình chừn. Với bộ khuôn như thế chí tạo được hình trang trí một lớp. Nếu muốn tạo lớp thứ hai phải làm một bỏ khuôn nữa có kích thước lớn hơn hoặc nhỏ hơn khuôn bọc và khuôn lõi dùng để tạo nền có dạng hình 5 cạnh thình 11.25). Để dễ dàng nhấc khuôn ra khỏi lớp vữa và không làm sứt mẻ các mép cạnh của hình trang trí, các mép cạnh của khuôn phải được,cắt vát và bào nhẵn, làm tay cầm cho khuôn.
Để tạo hình trang trí người ta chuẩn bị hỗn hợp khô 2 màu: xanh da trời, đỏ. Trước tiên đặt khuôn bọc hình năm cạnh lên trên lớp mặt (để các cạnh vát quay xuống dưới áp vào bề mặt). Có thể dùng đinh, dùng thạch cao hoặc dùng tay để giữ khuôn bọc trên bề mặt lớp trát.
Sau đó trát vữa màu xanh da trời vào khoảng trống của khuôn bọc, rồi san bằng và xoa nhẵn. Sau khi nhấc khuôn ra, trên bề mặt lớp trát sẽ còn lại một hình năm cạnh màu xanh . Tiếp theo đật khuôn bọc hình sao lên trên- hình năm cạnh vừa hoàn thành sao cho ngôi sao nằm chính giữa, rồi trát vữa màu đỏ vào khoáng trống của khuôn bọc này, san bằng và xoa nhẵn. Khi vữa đã khô cứng, nhấc khuôn ra; trên bề mặt hình năm cạnh màu xanh da trời sẽ có một ngôi sao năm cánh màu đỏ.
Để tạo hình ngôi sao chừn người ta dùng khuôn lõi: trát, san bằng và xoa nhẵn một lớp vữa màu vàng. Sau đó đặt khuôn lõi hình ngôi sao năm cánh lên trên bề mặt lớp vữa vừa trát rồi trát vữa màu dỏ xung quanh khuôn lõi này, xoa nhẵn ngang bằng mặt khuôn lõi. Khi vữa đã khô cứng thì nhấc khuôn trước ra, đạt khuôn lõi hình năm cạnh lên trên hình ngôi sao, tiến hành trát, san bằng và xoa nhẵn. Khi vữa khô nhấc khuôn lõi hình năm cạnh ra sẽ được một hình trang trí chừn có ba màu.