Nguyễn Phúc Tần (chữ Hán: 阮福瀕, 18 tháng 7 năm 1620 - 30 tháng 4 năm 1687), hay Nguyễn Thái Tông, tước hiệu Dũng Quận công (勇郡公), và được người trong lãnh thổ gọi là Chúa Hiền(主賢), là vị chúa Nguyễn thứ tư của chính quyền Đàng Trong trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi từ năm 1648 đến năm 1687, tổng cộng được 40 năm.
Nguyễn Phúc Tần sinh ngày 18 tháng 7 năm 1620, là con trai thứ hai của Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan và Đoàn Quý phi (người huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam).
Lúc đầu, Nguyễn Phúc Tần được phong làm Thái phó Dũng Lễ hầu, ông được đánh giá là một võ tướng có tài.
Tháng 6 năm 1644*, theo đề nghị của Chúa Trịnh, tàu chiến của Công ty Đông Ấn Hà Lan tiến đánh Chúa Nguyễn. Đoàn thuyền của họ được chia làm hai cánh; một cánh gồm ba chiến thuyền có tên là Wakende-bode; Kievit và Meerman do Isaac Davids chỉ huy, cánh này tiến thẳng ra Đàng Ngoài để cùng đi với chúa Trịnh. Cánh thứ hai gồm ba chiếc Wojdenes (De Wijdeness), Waterhond và Vos do Baek chỉ huy tiến vào cửa Thuận An. Ngày 3/6/1644* cả hai đoàn chiến thuyền rời Batavia , theo gió Nồm tiến đến bờ biển nước ta. Trịnh Tráng đem đại đội binh mã 100 000 người rước vua Lê đi cùng với Issac Davids vào. Cả hai đoàn quân giao ước hội quân ở sông Gianh.
Ngày 7 tháng 7 năm 1644*, Thế tử Nguyễn Phúc Tần đốc suất 50 chiến thuyền đột kích bất ngờ vào đội thuyền của Công ty Đông Ấn Hà Lan. Tàu đô đốc Wijdenes, là chiếc nặng nhất và chậm nhất trong số 3 tàu đó, bị bốn thuyền chèo tay đuổi kịp, đánh gãy mất bánh lái, đánh đổ cột buồm và bám vào hai bên mạn tàu; viên thuyền trưởng Pieter Baek không hy vọng chạy thoát được nữa, cho châm lửa vào kho thuốc súng và tự đốt cháy tàu, Pieter Baek và nhiều thủy thủ đã bị chết. Hai chiếc tàu kia, theo lời của Jean Gobyn, phải rất chật vật mới tìm được một chỗ trú ở đảo Ngọc (Ile de Perles).
Chúa Nguyễn Phúc Lan rất vui mừng và khen:
Trước kia tiên quân ta từng đánh phá giặc biển, nay con ta cũng lại như thế, ta không lo gì nữa.
* Về thời gian trận đánh, Đại Nam thực lục ghi là vào năm Giáp Thân (1644), còn Lê Quý Đôn trong Phủ Biên tạp lục và GS Dương Kỵ trong Việt Sử khảo luận thì ghi là năm Quý Mùi (1643). Cũng theo GS Dương Kỵ; năm trước đó (1642) quân Hà Lan đã một lần đem quân vào Nam đánh chúa Nguyễn, nhưng lần đó chúng thua to. Lần sau, mặc dù chuẩn bị kỹ hơn, nhưng kết quả lại còn tệ hơn năm trước!
Tháng 2 năm 1648, Chúa Trịnh Tráng sai Tiến Quận công Lê Văn Hiểu khởi binh Nam tiến lần thứ 4, dẫn bộ binh tiến lên đóng ở đất Nam Bố Chính, còn thủy quân đánh cửa Nhật Lệ. Nguyễn Phúc Tần được phong làm Tiết chế chủ quân và cùng vua cha ra Quảng Bình tiếp ứng, chia thủy quân phục sẵn ở sông Cẩm La, sai Nguyễn Hữu Tiến mang 100 con voi đánh úp quân Trịnh lúc nửa đêm, quân bộ tiếp sau vào đánh phá. Quân Trịnh thua lớn, bị thủy quân Nguyễn chặn đánh chạy đến tận sông Lam mới thôi.
Tháng 3 năm 1648, Thế tử Nguyễn Phúc Tần định cho quân vượt sông Gianh đánh ra Bắc Bố Chính thì nghe tin Chúa Thượng ngã bệnh chết trên thuyền trên đường về Thuận Hóa nên phải lui binh.
Nguyễn Phúc Tần lên ngôi ở tuổi 29, thường được gọi là chúa Hiền. Quần thần tôn ông làm Tiết chế Thủy bộ Chư dinh kiêm Tổng Nội ngoại Bình chương Quân quốc Trọng sự Thái bảo Dũng Quận công (勇郡公) . .
Năm 1653, chúa Hiền sai đắp đồn Sa Chùy (ở cửa biển Nhật Lệ, bấy giờ gọi là lũy Mũi Dùi).
Chúa rất trọng dụng hai tướng giỏi là Nguyễn Hữu Dật và Nguyễn Hữu Tiến, nhờ vậy quân Nguyễn nhiều lần vượt qua được sông Gianh tiến ra Đàng Ngoài. Năm 1656, sau hai năm tiến quân ra Bắc, quân Nguyễn đã chiếm được 7 huyện của Nghệ An. Sau đợt tấn công đó, quân Nguyễn còn chiếm đóng đất Nghệ An 5 năm. Sau đó bên Trịnh vốn có ưu thế hơn về quân đông tướng nhiều, các tướng Nguyễn dù giỏi nhưng quân Nguyễn đánh xa nhà lâu ngày không đủ lực lượng tiếp ứng, không thể chống đỡ hết lớp này tới lớp khác viện binh của quân Trịnh. Thêm vào đó, Nguyễn Phúc Tần lại tin yêu Nguyễn Hữu Dật hơn Nguyễn Hữu Tiến nên các tướng sinh ra ganh ghét bất hoà. Năm 1660, quân Nguyễn cuối cùng bại trận, bị đẩy lùi khỏi Nghệ An và Bắc Bố Chính, rút về bờ nam sông Gianh. Từ đó, Trịnh – Nguyễn cầm cự nhau trong nhiều năm và tới năm 1672 thì đình chiến.
Những năm sau đó, tướng Nguyễn Hữu Tiến mất năm 1666, tướng Nguyễn Hữu Dật mất năm 1681 đã làm phía chúa Nguyễn bị tổn thất lớn và nhân dân Đàng Trong cũng rất thương tiếc.
Hiền vương là người chăm lo chính sự, xa rời nữ sắc, biết trọng nhân tài.
Có người con gái quê Nghệ An rất xinh đẹp tên là Thị Thừa được lấy vào cung phục vụ chúa. Nguyễn Phúc Tần, nhân đọc sách Quốc ngữ, tới chuyện vua Ngô Phù Sai mất nước vì nàng Tây Thiliền tỉnh ngộ sai Thị Thừa mang ngự bào cho chưởng dinh Nguyễn Phúc Kiều, giấu thư trong dải áo ngầm sai Kiều bỏ độc giết Thị Thừa để trừ hậu họa.
Năm Kỉ Mùi (1679), chúa Nguyễn cho phép Dương Ngạn Địch, một tướng cũ của triều Minh cùng với Trần Thượng Xuyên đem gia thuộc 3000 người và 50 chiến thuyền vào khai phá vùng Gia Định, Mỹ Tho, lập nên các phố xá đông đúc ở vùng đất mới, giao lưu thương mại với thuyền buôn của nhà Mãn Thanh, Tây phương, Nhật Bản.
Chúa Hiền là một vị chúa có tài, đức độ, vì thế trong thời gian ông này trị vì, nhiều vùng đất mới được mở mang, các kênh Trung Đan, Mai Xá được khơi đào, bờ cõi vô sự, thóc lùa được mùa, bớt lao dịch thuế má, nhân dân ngợi khen là thời thái bình.