Trần Thủ Độ (chữ Hán: 陳守度, 1194 – 1264), cũng gọi Trung Vũ đại vương (忠武大王), là một nhà chính trị Đại Việt, sống vào thời cuối triều Lý đầu triều Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông đóng vai trò quan trọng trong các sự kiện lật đổ nhà Lý, lập nên nhà Trần, thu phục các thế lực người Man làm phản loạn và trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông Cổ lần thứ nhất
Năm 1209, trong nước có loạn Quách Bốc, Lý Cao Tông phải chạy ra khỏi kinh sư, Lý Huệ Tông Lý Hạo Sảm – khi ấy đang là Thái tử phải chạy đến nương nhờ Trần Lý. Họ Trần dẫn quân về triều dẹp loạn, rước vua về kinh sư, nhân đó mà khuynh loát triều đình. Với chức vụ Điện tiền chỉ huy sứ, Trần Thủ Độ đã sắp xếp cho người cháu họ của mình lấy Lý Chiêu Hoàng, sau đó Nữ hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Thái Tông (Trần Cảnh), lập ra triều Trần.
Trần Thủ Độ một tay cáng đáng trọng sự, giúp Trần Thái Tông bình phục được giặc giã trong nước và chỉnh đốn lại mọi việc, làm cho nước Đại Việt bấy giờ được cường thịnh, có thể chống cự với Mông Cổ.
Nguồn gốc của Trần Thủ Độ không được các sách chính sử như Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, An Nam chí lược, Lịch triều hiến chương loại chí chép rõ. Sử chỉ chép rằng, Trần Lý ở Tức Mặc (Nam Định) sinh ra Trần Tự Khánh, Trần Thừa và con gái Trần Thị Dung. Trần Thủ Độ là em họ của ba người con của Trần Lý. Trần Thừa sinh ra Trần Thái Tông Trần Cảnh, Trần Thủ Độ là chú họ của Thái Tông
Khu di tích lăng mộ Trần Thủ Độ, xã Liên Hiệp, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình
Những năm đầu triều Trần, Thái sư Trần Thủ Độ đã triển khai hàng loạt giải pháp để chấn hưng đất nước như: xây dựng bộ máy trung ương tập quyền vững mạnh, thống nhất từ triều đình đến làng xã; thiết định kỷ cương, đề cao pháp chế, định ra luật lệ, điển chương, đặt lệ thi cử kén chọn người tài giỏi...
Cùng với đẩy mạnh công cuộc trị thủy, khẩn hoang, khuyến khích phát triển nông nghiệp, triều Trần đã sớm chăm lo xây dựng quân đội, dự trữ lương thảo, sẵn sàng đối phó khi giang sơn có biến.
Khi giặc Nguyên tràn sang xâm lược, bằng thiên tài quân sự của mình, với trọng trách là Thống quốc Thái sư, Trần Thủ Độ đã chủ động sắp đặt để nhà Trần triển khai kế sách “vườn không nhà trống”, “ngụ nông ư binh”. Vùng đất Long Hưng là nơi tựa dựa để triển khai kháng chiến. Triều đình đã giao cho Trần Thị Dung đưa hoàng thân, quốc thích về sơ tán tại quê cha, đất tổ. Nơi đây cũng là địa bàn chiến lược mà nhà Trần đã chăm lo xây dựng thành một phòng tuyến hiểm yếu để triển khai thế trận thủy chiến và cũng là một hậu phương vững chắc để huy động binh lương phục vụ cho kháng chiến.
Giặc Nguyên hung hãn, thế như chẻ tre tiến thẳng vào kinh thành Thăng Long, Trần Thái Tông phải cùng các quần thần xuôi thuyền lánh tạm xuống vùng hạ lưu. Trong tình thế hiểm nghèo, quan trong triều đã có người nao núng, Thái Tông hỏi Thái sư Trần Thủ Độ, ông đã đáp lời vua: “Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo”. Câu nói bất hủ này có sức mạnh hơn cả vạn binh, góp thêm phần làm bừng lên hào khí Đông A, củng cố ý chí của quân dân Đại Việt quyết đánh, quyết thắng giặc Nguyên và Trần Thủ Độ đã trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến.
Cuộc đời Trần Thủ Độ là cuộc đời của một con người tài ba, thao lược cả về chính trị, quân sự và kinh tế, có bản lĩnh chính trị và cá tính khác thường. Ông xử lý việc gì cũng thẳng thắn, quả quyết theo ý chí của mình, ít khi để cho tình cảm sai khiến nhằm cai trị đất nước một cách nghiêm minh nhất.
Gần 800 năm qua, nhiều nhà sử học ở các thời đại đã thừa nhận và đánh giá cao về tài năng và tâm đức của Trần Thủ Độ. Sử thần Ngô Sĩ Liên đã có nhiều trang dòng luận bình về Trần Thủ Độ trong bộ sử Đại Việt sử ký toàn thư: “Thủ Độ tuy không có học vấn nhưng tài lược hơn người, làm quan triều Lý được mọi người suy tôn. Thái Tông lấy được thiên hạ đều là mưu sức của Thủ Độ cả, cho nên nhà nước phải nhờ cậy, quyền hơn cả vua”; “Thủ Độ tuy làm tể tướng mà phàm công việc không việc gì là không để ý. Vì thế mà giúp nên nghiệp vương, giữ được tiếng tốt cho đến chết”...
Sau khi Thống quốc Thái sư Trần Thủ Độ qua đời, triều đình truy tặng Thượng phụ Thái sư Trung Vũ Đại Vương. Lăng mộ đặt tại xã Phù Ngự, nay thuộc xã Liên Hiệp, huyện Hưng Hà, cận kề với lăng mộ Linh Từ Quốc Mẫu. Nhiều làng quê khác trong nước cũng đã tôn thờ ông làm Thành hoàng tại đình làng hoặc lập đền miếu thờ ông. Cho đến nay, những nơi thờ ông trên các miền đất nước đều đã được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa quốc gia. Tại ngôi đền thờ ông trên đồi Lim (Bắc Ninh) có đôi câu đối:
Công đáo vu kim bất đãn Trần gia nhị bách tải,
Luận định thiên cổ kỳ tại Nam thiên đệ nhất lưu.
Nghĩa là:
Công đức để lại đến nay không chỉ bó hẹp trong hai trăm năm nhà Trần,
Sau nghìn đời công luận đã định ông đáng liệt vào bậc nhất dưới trời Nam.