Lê Thái Tông (chữ Hán: 黎太宗 22 tháng 12 năm 1423 – 7 tháng 9 năm 1442), tên húy Lê Nguyên Long (黎元龍), là vị hoàng đế thứ hai của hoàng triều Lê nước Đại Việt. Thái Tông trị vì từ ngày 20 tháng 10 năm 1433 cho tới khi mất năm 1442, tổng cộng 9 năm.
Triều đại của Lê Thái Tông đánh dấu một thời kì thịnh trị trong lịch sử Việt Nam, tiếp nối thành tựu của thời đại Lê Thái Tổ. Thái Tông lên ngôi lúc mới 11 tuổi, nhưng là vị vua thông minh, lại được sự giúp đỡ của các đại thần võ tướng như Lê Sát, Lê Ngân, Trịnh Khả, Đinh Liệt... cùng các văn thần, ngôn quan chịu khó can gián như Phan Thiên Tước, Bùi Cầm Hổ, Nguyễn Thiên Tích,... Nhà vua và các đại thần ổn định xã hội, nghiêm trị tham ô, hoàn thiện hệ thống nghi thức, lễ nhạc của triều đình, tăng cường chỉnh đốn quân đội, chấn hưng giáo dục và đặt lệ 3 năm mở 1 khoa thi lớn trên toàn quốc để tìm ra Nho sĩ có tài, có thể giúp vua cai quản dân sự.
Về đối ngoại, nhà vua giữ quan hệ hòa hiếu với đế quốc Minh-Trung Quốc, mặc dù thời gian cuối triều Thái Tông đã xảy ra một số vụ xung đột, lấn chiếm giữa các thổ quan vùng biên ải hai nước. Cũng trong thời kỳ này, ở phía Tây, một số thổ tù miền biên viễn có Ai Lao chống lưng đã nổi dậy chống hoàng gia. Lê Thái Tông 3 lần đích thân cầm quân đi đánh dẹp mạn tây, bình định châu Phục Lễ, giết được thổ tù Hà Tông Lai, đánh bại Ai Lao và bức hàng thổ tù Nghiễm. Phía Nam, Chiêm Thành từng lăm le xâm lấn Đại Việt khi Thái Tông mới lên ngôi, nhưng sau đó bỏ ý đồ và giữ lễ phiên thần với Đại Việt.
Năm 1432, Lê Thái Tổ nhiều bệnh, chính sự nhà nước đều giao cho thân vương Quận Ai Vương Lê Tư Tề nhưng thân vương mắc chứng điên cuồng, giết bừa các tì thiếp, dần dần không hợp ý Lê Thái Tổ.
Năm 1433, vua Lê Thái Tổ vời người cháu ruột là Nhập nội Tư mã, Kì Lân Hổ Vệ tướng quân Lê Khôi lúc ấy đang trấn thủ Hóa châu về triều để bàn lập thái tử. Lê Khôi bàn với vua nên lập Hoàng tử Nguyên Long, vua Thái Tổ nghe lời và quyết định lập Lê Nguyên Long làm thái tử nối ngôi. Đến năm 1438, vua Thái Tông phế truất anh mình làm dân thường.
Theo lệ vua Lê Thái Tổ, trong cung không lập hoàng hậu, khi con của bà phi nào lên làm vua thì vị vua đó mới dâng tôn hiệu cho mẹ. Việc kén chọn vợ cho vua, thường lấy con em các dòng họ công thần lớn và con nhà tử tế.
Người vợ thứ nhất của vua Lê Thái Tông là con gái Đại Tư đồ Lê Sát, Lê Thị Ngọc Dao. Ngọc Dao được phong làm Nguyên phi vào năm 1434. Năm 1437, Lê Sát bị xử tội, bà bị phế làm dân thường. Người vợ thứ hai là con gái Lê Ngân, tên Lê Lệ, lúc đầu được phong làm Chiêu nghi. Khi Lê Sát bị bãi chức, Đại Đô đốc Lê Ngân lên thay, Lê Lệ được phong làm Huệ phi, đến năm 1437, Lê Ngân bị xử tội, bà bị phế làm Tu dung. Người vợ thứ là bà Nguyễn Thị Anh, tính hiền dịu sáng suốt, được phong làm Thần phi, sinh ra vua Lê Nhân Tông, vua Nhân Tông lên ngôi lúc mới 3 tuổi, bà nhiếp chính trong 10 năm, thiên hạ thịnh trị. Bà vợ thứ 4 là Chiêu nghi Dương Thị Bí, sinh ra Lạng Sơn vương Lê Nghi Dân, ban đầu phong làm Phi (妃), sau tính kiêu ngạo bị giáng làm Chiêu nghi. Về sau Dương thị tiếp tục bị giáng làm thứ nhân, giam vào lãnh cung.
Ngày 27 tháng 7 âm lịch năm 1442, Lê Thái Tông đi tuần về miền Đông, duyệt quân ở thành Chí Linh. Nguyễn Trãi mời hoàng đế ngự chùa Côn Sơn, ở hương của Nguyễn Trãi. Đến ngày 4 tháng 8 âm lịch (7 tháng 9 dương lịch), Lê Thái Tông đi chơi ở vườn Vải, xã Đại Lại ven sông Thiên Đức. Tại đây hoàng đế thức suốt đêm với vợ Nguyễn Trãi là Lễ nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ rồi qua đời. Các quan bí mật đưa thi hài về kinh sư rồi mới phát tang. Trong kinh, mọi người đều cho là Thị Lộ giết hoàng đế.
Ngày 12 tháng 8 âm lịch năm 1442, các đại thần là Trịnh Khả, Nguyễn Xí, Lê Thụ, Đinh Liệt, Lê Bôi nhận di mệnh tôn Hoàng thái tử Bang Cơ (2 tuổi) lên ngôi Hoàng đế, sử gọi là Lê Nhân Tông. Ngày 16 tháng 8, triều đình hành quyết Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ, bắt tội đến ba họ (tru di tam tộc).
Ngày 16 tháng 9 âm lịch năm 1442, triều đình an táng Lê Thái Tông ở Hựu Lăng (祐陵), bên tả Vĩnh Lăng (永陵) của Lê Thái Tổ. Hàn Lâm viện thị độc học sĩ kiêm Tri ngự tiền học sinh Cục Cận thị chi hậu Nguyễn Thiên Tích phụng mệnh soạn văn bia Hựu Lăng ca ngợi công đức của tiên đế. Các quan dâng miếu hiệu Thái Tông (太 宗), thụy hiệu Kế Thiên Thể Đạo Hiển Đức Thánh Công Khâm Minh Văn Tư Anh Duệ NhânTriết Chiêu Hiến Kiến Trung Văn Hoàng Đế (繼天體道顯德功欽明文思英睿仁哲昭憲建中文皇帝).