Nam Việt (tiếng Quan Thoại: 南越 / Nányuè, tiếng Quảng Đông: 南粤 / Naam4 jyut6) là một quốc gia được lãnh đạo bởi nhà Triệu tồn tại trong giai đoạn 203 TCN – 111 TCN trước khi bị nhà Hán tiêu diệt. Cương vực tương ứng một phần lãnh thổ Trung Quốc và Việt Nam hiện nay.
Toàn bộ về lịch sử Nam Việt được chép đầu tiên bởi Sử ký nhà Hán. Được đề cập chủ yếu trong phần Liệt truyện, quyển 113: Biên niên sử Nam Việt (南越列傳). Nó lưu lại các thông tin về nước Nam Việt từ thời Triệu Đà cho đến khi cáo chung dưới thời Triệu Dương Vương. Nhà Triệu trải 5 đời vua và đều xưng đế. Các sử gia Trung Hoa vì chỉ muốn coi Nam Việt làm phiên thuộc nên chép các vua Nam Việt tước "vương", nhưng kết quả khai quật lăng mộ vua Triệu thứ hai cho thấy các ấn chương, văn bản và danh xưng đều là "đế" chứ không phải "vương". Điều đó gây bất ngờ với chính các sử gia Trung Hoa hiện đại. Giới sử học thống nhất rằng: tước "vương" của các vua Nam Việt chỉ là xưng hiệu trong quan hệ ngoại giao với nhà Hán, còn trong nội bộ nước Nam Việt, các vua Triệu đều xưng đế. Những người hoàng tộc Triệu do đó đều được phong "vương" và các thủ lĩnh người Việt ở đất Cổ Loa cũ (tự quản) cũng có tước "vương" như Tây Vu Vương. Sử sách còn ghi lại khi Nam Việt bị diệt, hoàng thân là "Thương Ngô vương Triệu Quang cùng huyện lệnh Yết Dương tên là Định đầu hàng"
Cương vực Nam Việt thời điểm rộng nhất.
Bắc thuộc là một vấn đề còn có hai quan điểm khác nhau từ xưa đến nay của lịch sử Việt Nam, phần lớn các quan điểm sử học thời phong kiến đều cho rằng nhà Triệu là một triều đại trong lịch sử Việt Nam (ví dụ trong Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi), vì vậy thời Bắc thuộc bắt đầu từ năm 111 TCN khi nhà Hán đánh chiếm nước Nam Việt. Quan điểm thứ hai được xuất hiện từ thế kỷ XVIII khi sử gia Ngô Thì Sĩ phủ nhận nhà Triệu là triều đại chính thống của Việt Nam vì Triệu Đà vốn là người Hoa ở phương Bắc, là tướng theo lệnh Tần Thủy Hoàng mà đánh xuống phương Nam. Quan điểm này được tiếp nối bởi sử gia Đào Duy Anh trong thế kỷ XX, các sách lịch sử trong nền giáo dục tại Việt Nam hiện nay đều theo quan điểm này. Theo quan điểm thứ hai này thì thời Bắc thuộc trong lịch sử Việt Nam bắt đầu từ năm 179 TCN khi nhà Triệu đánh chiếm nước Âu Lạc của An Dương Vương.
Cuối thời Tần, Triệu Đà (người nước Triệu thời Chiến Quốc, nay là tỉnh Hà Bắc của Trung Quốc) được nhà Tần bổ nhiệm là Huyện lệnh huyện Long Xuyên, sau được Nhâm Ngao tự ý bổ nhiệm làm Quận úy quận Nam Hải (thuộc tỉnh Quảng Đông ngày nay).
Nhân khi nhà Tần rối loạn sau cái chết của Tần Thủy Hoàng (210 TCN), Triệu Đà đã tách ra cát cứ quận Nam Hải, sau đó đem quân thôn tính sáp nhập vương quốc Âu Lạc và quận Quế Lâm lân cận rồi thành lập một nước riêng, quốc hiệu Nam Việt với kinh đô đặt tại Phiên Ngung (nay là thành phố Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông) vào năm 207 TCN.
Nước Nam Việt trong thời nhà Triệu bao gồm khu vực hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây của Trung Quốc và miền Bắc Việt Nam ngày nay. Nam Việt được chia thành 4 quận: Nam Hải, Quế Lâm, Giao Chỉ và Cửu Chân. Biên giới phía bắc là hệ thống dãy núi Ngũ Lĩnh, biên giới phía nam là dãy Hoành Sơn. Lãnh địa của Nam Việt ổn định cho tới khi nước này bị diệt cùng nhà Triệu.
Sau khi nhà Hán được thành lập và thống nhất toàn Trung Quốc, Triệu Đà xưng là Hoàng đế của nước Nam Việt để tỏ ý ngang hàng với nhà Tây Hán. Trong khoảng thời gian 68 năm (179 TCN – 111 TCN), miền Bắc Việt Nam hiện nay là một phần của nước Nam Việt, nước này có vua là người Trung Hoa và vị vua này không công nhận sự cai trị của nhà Hán.
Nhà Triệu tồn tại từ năm 207 TCN đến năm 111 TCN trải qua 5 đời vua:
207 TCN-137 TCN: Triệu Vũ Vương/Triệu Vũ Đế - Triệu Đà
137 TCN-124 TCN: Triệu Văn Vương/Triệu Văn Đế - Triệu Hồ
124 TCN-113 TCN: Triệu Minh Vương - Triệu Anh Tề
113 TCN-112 TCN: Triệu Ai Vương - Triệu Hưng
112 TCN-111 TCN: Triệu Thuật Dương Vương - Triệu Kiến Đức