Lê Thánh Tông (chữ Hán: 黎聖宗 25/8/1442 – 3/3/1497) tên là Lê Tư Thành, con trai thứ 4 của vua Lê Thái Tông, ông là vị Hoàng đế thứ tư trên danh nghĩa và thứ năm trên thực tế của nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam (Lê Nghi Dân tạo phản cướp ngôi nên các sử gia thời đó không công nhận là Hoàng đế chính thống), trị vì từ năm 1460 đến khi băng hà vào năm 1497, là vị vua tại vị lâu nhất thời Lê Sơ và lâu thứ hai thời Hậu Lê [sau Lê Hiển Tông với 46 năm (1740 - 1786)]. Thời kỳ của ông đã đánh dấu sự hưng thịnh của triều Hậu Lê nói riêng và chế độ phong kiến Việt Nam nói chung với tên gọi Hồng Đức thịnh trị (洪德盛治).
Trong 37 năm trị quốc, Lê Thánh Tông đã ban bố nhiều chính sách hoàn thiện bộ máy quan chế, hành chính, kinh tế, giáo dục - khoa cử, luật pháp và tôn giáo, đưa Đại Việt trở thành một cường quốc tại Đông Nam Á. Đại Việt sử ký toàn thư có lời bình của sử quan Nho thần đời sau về ông: "Vua lập chế độ văn vật khả quan, mở mang đất đai, thực là anh hùng tài lược, Vũ Đế nhà Hán (Hán Vũ thời đại - tức Lưu Triệt), Thái Tông nhà Đường (Trinh Quán chi trị - tức Lý Thế Dân) cũng không hơn được".
Trong quá trình làm vua, ông đã có nhiều công trong việc cải cách, trong hệ thống quân sự, kinh tế, chính trị, hành chính, pháp luật, văn hóa, giáo dục.
Bên cạnh đó, vua Lê Thánh Tông có công trong việc Nam tiến để mở rộng bờ cõi của Đại Việt với cách đánh chiếm kinh đô của Chiêm Thành vương quốc vào năm 1471, để sáp nhập vào Đại Việt. Năm 1479 có thêm cuộc hành quân về phía Tây thành công. Qua đó có thể thấy rằng, vua Lê Thánh Tông là người có tài chỉnh đốn quân sự, đôn đốc và phát triển, tăng cường các chiến lược quân sự.
Ông đã luôn động viên, thúc đẩy quan lại, binh sĩ coi việc trấn giữ biên cương quốc gia quan trọng. Đề phòng các trường hợp xấu xảy ra, nhằm xử lý kịp thời và bảo vệ non sông đất nước. Đi đôi với đó, vua Lê Thánh Tông rất coi trọng việc lưu trữ các nguồn lương thực, lương thảo khi cần thiết.
Đặc biệt ở thời vua Lê Thánh Tông cũng đã chế biến ra một nghệ thuật làm lương khô, đây là một trong một kỹ thuật đặc biệt của Đại Việt ngày xưa, cách chế biến này vô cùng sáng tạo và quan trọng, nó giúp lưu trữ được nguồn lương khô lâu dài và tiện dụng.
Ngoài ra, ông còn áp dụng cải tổ thiên hạ mạnh mẽ, tập trung vào quân sự về cơ cấu tổ chức, giáo huấn. Lúc này, quân chia làm 5 đạo vệ quân, nay là 5 phủ đô đốc, trong mỗi phủ đều có vệ, sở nghiêm ngặt và cẩn thận. Đồng thời, còn có cả 2 đạo nội và ngoại gồm có nhiều ti, vệ.
Vua Lê Thánh Tông coi trọng việc đoàn kết và gắn bó, chấm dứt nhiều tình trạng chia rẽ nội bộ trong triều đình và nhân dân. Ông luôn luôn một lòng tổ chức, củng cố và xây dựng một triều đại, đất nước và đời sống an lạc, thái bình. Điển hình với kinh tế trong thời kì này cũng được phát triển mạnh mẽ, các ngành nghề thủ công nghiệp, in ấn làm giấy viết cũng đạt hiệu quả và phát triển rất thành công, rực rỡ.
Số lượng sách được in, công ngệ chế tạo vũ khí, sắt, đồ gốm sứ cũng phát triển vượt bậc và phát triển ở mức điêu luyện, tinh xảo và hoa văn, công nghệ tỉ mỉ, đẹp mắt. Cách dịch vụ buôn bán, thương mại cũng phát triển mạnh mẽ.
Bên cạnh đó, vua Lê Thánh Tông còn chú trọng đến giáo dục, coi trọng văn hóa, tín ngưỡng, tạo điều kiện phát triển, xâm nhập và phát huy tối đa.
Có thể nói, với nhiều đóng góp to lớn về tất cả các lĩnh vực từ đời sống, chính trị, văn hóa, giáo dục, kinh tế cho đến chính trị… Vua Lê Thánh Tông là một vị vua anh minh vĩ đại, tài ba và kiệt suất trong lịch sử của dân tộc Việt Nam.
Đời vua Lê Thái Tổ, Đại Việt được chia làm 5 đạo, các đơn vị hành chính dưới đạo là phủ, lộ, trấn, châu, huyện, xã. Quan cai trị đạo là Hành khiển, Tuyên phủ chánh phó sứ; cai trị phủ là Tri phủ; cai trị lộ là An phủ sứ; cai trị trấn là Trấn phủ sứ; cai trị huyện là Chuyển vận sứ, Tuần sát sứ; cai trị xã là Xã quan.
Đến thời Lê Thánh Tông, năm 1466, nhà vua chia nước thành 13 đạo thừa tuyên và Trung đô phủ, lại đặt các ty Đô, Thừa để cai quản. Thánh Tông đổi lộ thành phủ, trấn thành châu, đổi chức An phủ thành Tri phủ, Trấn phủ thành Đồng tri phủ, Chuyển vận sứ thành Tri huyện, Tuần sát sứ thành Huyện thừa, Xã quan thành Xã trưởng
Năm 1469, Lê Thánh Tông đổi phủ Trung đô làm phủ Phụng Thiên, quản lĩnh 2 huyện Quảng Đức, Thọ Xương.
Năm 1471, sau khi chinh phục Chiêm Thành, Lê Thánh Tông lập đạo thừa tuyên Quảng Nam, nâng số thừa tuyên của Đại Việt lên 13. Ông còn lập thêm ty Hiến, chia nhau cùng các ty Đô, Thừa cai quản thừa tuyên. Ty Đô do chánh phó Đô tổng binh đứng đầu, nắm việc quân sự; ty Thừa do Thừa chính chánh phó sứ đứng đầu, nắm việc hành chính; còn ty Hiến do Hiến sát chánh phó sứ đứng đầu, coi việc luật pháp. 13 thừa tuyên thời Lê Thánh Tông (năm 1490 đổi làm xứ) bao gồm:
Nam Sách gồm Hải Dương, Hải Phòng ngày nay, quản lĩnh 4 phủ, 18 huyện;
Thiên Trường (Sơn Nam) gồm Thái Bình, Nam Định, Hưng Yên, Hà Nam và phần phía nam Hà Nội ngày nay, quản lĩnh 11 phủ, 42 huyện;
Quốc Oai (Sơn Tây) gồm thị xã Sơn Tây và phần tây bắc Hà Nội, Vĩnh Phúc ngày nay, quản lĩnh 6 phủ, 24 huyện;
Bắc Giang (Kinh Bắc) gồm Bắc Giang, Bắc Ninh ngày nay, quản lĩnh 4 phủ, 19 huyện;
An Bang là Quảng Ninh ngày nay, quản lĩnh 1 phủ, 3 huyện, 4 châu;
Tuyên Quang gồm Tuyên Quang, Hà Giang ngày nay, quản lĩnh 1 phủ, 2 huyện, 5 châu;
Hưng Hóa gồm Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La và Hòa Bình ngày nay, quản lĩnh 3 phủ, 4 huyện, 17 châu;
Lạng Sơn gồm Lạng Sơn ngày nay, quản lĩnh 1 phủ, 7 châu;
Thái Nguyên (Ninh Sóc) gồm Thái Nguyên, Bắc Kạn và Cao Bằng ngày nay, quản lĩnh 3 phủ, 8 huyện, 7 châu;
Thanh Hóa gồm Thanh Hóa, Ninh Bình ngày nay, quản lĩnh 4 phủ, 16 huyện, 4 châu;
Nghệ An gồm Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay, quản lĩnh 8 phủ, 18 huyện, 2 châu;
Thuận Hóa gồm Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế ngày nay, quản lĩnh 2 phủ, 7 huyện, 4 châu;
Quảng Nam gồm Bình Định, Quảng Ngãi và Quảng Nam ngày nay;
Tháng 6 âm lịch năm 1467, vua Lê Thánh Tông dụ các thừa tuyên xem xét, tìm hiểu địa thế núi, sông và các sự tích trong địa phương mình, để vẽ địa đồ nơi đó, rồi trình lên cho Hộ bộ tổng hợp thành bản đồ hoàn chỉnh của Đại Việt. Ngày 5 tháng 4 âm lịch năm 1490 (tức ngày 24 tháng 4 dương lịch), bộ bản đồ Đại Việt được hoàn tất, gọi là bản đồ Hồng Đức (Hồng Đức bản đồ sách,). Bản đồ ghi nhận nước Việt có 13 thừa tuyên, 52 phủ, 178 huyện, 50 châu, 20 hương, 36 phường, 6851 xã, 322 thôn, 637 trang, 40 sách, 40 động, 30 nguồn, 30 trường.
Tháng 9 âm lịch năm 1471, Lê Thánh Tông đặt chức Giám sát ngự sử 13 đạo chuyên làm nhiệm vụ giám sát công việc của quan lại các đạo, ngăn không cho họ nhũng lạm.
Cương thổ nước Việt Nam và các vùng ảnh hưởng, các tiểu quốc chư hầu thời nhà Lê sơ (1428-1527), được hình thành chủ yếu trong các thời trị vì của các vua từ Lê Thái Tổ đến Lê Thánh Tông
An Nam quốc đồ thời Hồng Đức (1490). Các xứ (13 xứ)ːQuảng Nam (廣南), Thuận Hóa (順化), Nghệ An (乂安), Thanh Hoa (清華), Sơn Nam (山南), Hải Dương (海陽), An Bang (安邦), Lạng Sơn (諒山), Thái Nguyên (太原), Tuyên Quang (宣光), Hưng Hóa (興化), Sơn Tây (山西), Kinh Bắc (京北), và phủ Trung Đô (中都府).
Bản đồ kinh thành Thăng Long (kèm chú thích) theo Hồng Đức bản đồ sách (洪德版圖冊), ban hành vào đời vua Lê Thánh Tông, năm Hồng Đức thứ 21 (tức năm 1490).