Lý Triện (李篆, ?-1427) là công thần khai quốc nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam, người làng Bái Đô, huyện Lôi Dương,Thanh Hoá, Việt Nam. Ông tham gia nghĩa quân Lam Sơn dưới cờ Lê Lợi từ những ngày đầu, lập nhiều chiến thắng ở Thanh Hoá, Nghệ An và miền Bắc, tiêu biểu nhất là trận Tốt Động-Chúc Động khi ông và Đinh Lễ, Nguyễn Xí phá tan quân Minh do tổng binh Vương Thông chỉ huy. Sử gia Ngô Sĩ Liên cho rằng ông cùng với Đinh Lễ là những vị tướng giỏi nhất của nghĩa quân Lam Sơn
Lý Triện là người tham gia khởi nghĩa Lam Sơn từ ngày đầu, giúp Lê Lợi trong thời gian khó khăn nhất của cuộc khởi nghĩa. Năm 1418, tướng Minh là Lý Bân và Phương Chính mang quân qua Quỳ Châu vào Mường Thôi đánh quân Lam Sơn. Lý Triện cùng Lê Lý, Phạm Vấn mang quan ra chặn địch, phối hợp với quân chủ lực của Lê Lợi phục binh đánh bại quân Minh ở Bồ Mộng.
Năm 1422, quân Minh huy động thêm quân nước Ai Lao (Lào) hai đường đánh tới, Lê Lợi rút về Sách Khôi. Quân địch dồn đại binh kéo tới bao vây. Lý Triện được lệnh cùng Lê Lĩnh, Phạm Vấn mang quân ra tử chiến, chém được tướng địch là Phùng Quý và hơn 1000 quân, bắt được hơn 100 ngựa, Mã Kỳ và Trần Trí thua chạy về Đông Quan (Hà Nội), quân Ai Lao cũng bỏ chạy. Năm 1423, quân Lam Sơn bị địch vây tuyệt lương mấy tháng. Lý Triện vẫn theo sát Lê Lợi tuần tra vỗ về tướng sĩ không hề trễ nải.
Sau thời kỳ giảng hoà với quân Minh để củng cố thực lực, năm 1424, quân Lam Sơn và quân Minh khai chiến trở lại. Năm 1425, quân Lam Sơn vây đánh Nghệ An, Lê Triện làm hậu viện cho Đinh Lễ ra đánh úp Tây Đô (Thanh Hoá). Lê Triện đi đường tắt đánh bại quân Minh, địch phải rút vào cố thủ trong thành. Ông được phong làm Thiếu uý.
Tháng 8 năm 1426, Lê Lợi chia quân cho các tướng làm 3 cánh bắc tiến. Phạm Văn Xảo, Đỗ Bí, Trịnh Khả, Lê Triện mang 3000 quân, 1 thớt voi ra phía Tây bắc, Lưu Nhân Chú, Bùi Bị ra phía Đông bắc; Đinh Lễ, Nguyễn Xí ra đánh Đông Quan.
Tiến theo đường tắt đến gần Đông Quan, cánh quân của Lê Triện gặp tham tướng quân Minh là Trần Trí. Trí thấy quân Lam Sơn ít nên mang hết quân ra đánh. Ông cùng các tướng hợp sức đánh bại được Trí ở Chương Đức, tiến lên đắp luỹ ở phía tây Ninh Giang. Trần Trí bại trận liền cầu viện Lý An, Phương Chính ở Nghệ An. An và Chính đem quân vượt biển ra bắc tiếp viện cho Đông Quan.
Trước thế quân Minh mạnh, Lý Triện và Đỗ Bí quyết định chủ động đánh từng cánh quân. Ông đặt phục binh ở Cổ Lãm (thuộc huyện Thanh Oai) rồi mang quân khiêu chiến trại của Thọ và Kỳ trước rồi giả thua chạy. Thọ và Kỳ mang quân đuổi theo, đến vùng ruộng lầy, phục binh của Lý Triện đổ ra đánh, quân Minh thua to. Hai tướng Minh bỏ chạy về Cổ Sở. Lý Triện thừa thế đánh sang quân Phương Chính, Chính cũng bỏ chạy về với Vương Thông.
Lý Triện nhân đà thắng lợi, hôm sau tiến đánh Vương Thông ở Cổ Sở. Thông thấy quân bị thua đã phòng bị trước, quân Lý Triện bị đánh bại phải rút chạy. Ông phá huỷ trại cũ và sai người cầu cứu Đinh Lễ, Nguyễn Xí. Hai cánh quân họp nhau ở Cao Bộ. Nguyễn Xí bắt được thám tử của Vương Thông, biết Thông định chia đường đánh úp quân Lý Triện bèn tương kế tựu kế dụ Thông vào cánh đồng Tốt Động, Chúc Động.
Trận Tốt Động – Chúc Động kết thúc với thắng lợi giòn dã của nghĩa quân Lam Sơn do Lý Triện và các tướng khác chỉ huy. Bên phía Minh, Binh bộ thượng thư Trần Hiệp, Nội quan Lý Lượng và 5 vạn quân tử trận 1 vạn quân bị bắt sống. Số quân chết đuối ở sông Ninh Giang cũng rất nhiều, làm tắc nghẽn cả khúc sông. Ngoài ra ngựa, quân tư khí giới bị tịch thu nhiều không kể xiết. Vương Thông bị thương, cùng Phương Chính và Mã Kỳ về cố thủ ở Đông Quan.
Lê Lợi nghe tin thắng trận bèn tiến đại quân ra bắc vây hãm Đông Quan. Lý Triện cầm 2 vệ quân vây cửa bắc là cửa xung yếu nhất, có thể phải đối phó cả với quân trong thành và viện binh từ các thành phía bắc và từ Trung Quốc sang cứu Đông Quan.
Tháng 2 năm 1427, tướng Minh là Phương Chính kéo ra ngoài đánh úp động Quả ở Từ Liêm. Lý Triện và Đỗ Bí cố sức đánh nhưng bị thua trận. Ông bị tử trận còn Đỗ Bí bị bắt.
Thương Lý Triện nhiều lần phá được quân địch đông mạnh, Lê Lợi cho cha ông là Lý Ba Lao làm chức sát sứ, cấp 400 mẫu ruộng, con ông là Lý Lăng làm Phòng ngự sứ, tước Phục hầu, đều được đổi sang họ Lê. Sau Lê Lăng trở thành đại thần nhà Hậu Lê.
Năm 1428, ông được truy tặng chức Nhập nội tư mã. Năm 1460, ông lại được truy tặng làm hữu tướng quốc. Năm 1484, Lê Thánh Tông tặng ông tước thái bảo, Kỳ quận công và sau đó là Tây Kỳ vương.