Trần Thị Dung vốn tên Trần Thị Ngừ, là con gái của Trần Lý, em gái của Trần Thừa và Trần Tự Khánh, tức cô ruột của vua Trần Thái Tông. Cuộc đời của bà gắn chặt với giai đoạn cuối của vương triều Lý và thời kỳ đầu của nhà Trần. Từ việc lấy Thái tử Sảm để dọn đường đưa họ Trần vào triều đình nhà Lý, cho đến khi bị giáng làm Thiên Cực công chúa và lấy Trần Thủ Độ, bà đã trải qua biết bao thăng trầm, vinh có, nhục có, vui cũng có và buồn cũng có… Bà tạ thế tháng giêng năm Thiệu Long thứ 2 (1259) đời vua Trần Thánh Tông
TỪ THƯỜNG DÂN TRỞ THÀNH HOÀNG HẬU
Linh Từ Quốc Mẫu Trần Thị Dung (?-1259) là người con gái, xuất thân bình dân, quê bà ở làng Phù Ngự (làng Ngừ), tỉnh Thái Bình. Bà Trần thị Dung có tên gọi là cô Ngừ, đặt tên theo một loại cá, để nhắc đến nguồn gốc của dòng họ nhà Trần từ nghề đánh cá.
Theo Đại Việt Sử Ký toàn thư, năm 1209 đời vua Lý Cao Tông, triều đình xảy ra binh biến, triều đình ly tán khắp nơi. Trong đó Hoàng tử Sảm (tức vua Lý Huệ Tông) chạy đến Hải Ấp. Ông được gia đình nhà Trần Lý bảo bọc và che chở, sau đó ông đã cưới Trần Thị Dung – con gái Trần Lý, một thiếu nữ có nhan sắc nhất vùng.
Nhờ gia đình Trần Lý bảo bọc và hết lòng giúp đỡ, Thái tử Lý Hạo Sảm đã mau chóng tập hợp được một lực lượng khá hùng mạnh tiến đánh Thăng Long, dẹp loạn kẻ thù.
Năm Tân Mùi (1210), vua cha là Lý Cao Tông qua đời, Thái tử Lý Hạo Sảm lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Lý Huệ Tông. Năm ấy, bà Trần Thị Dung được phong làm Nguyên phi (đứng đầu hàng thứ hai của vợ vua).
Nhưng, địa vị của Nguyên phi Trần Thị Dung trong hoàng gia kể cũng thuộc hàng ba chìm bảy nổi. Đầu năm 1213, do vua Lý Huệ Tông cùng mẹ là Thái hậu Đàm có chút nghi ngờ đối với anh trai của bà là Trần Tự Khánh, bà bị giáng xuống hàng Ngự nữ (thấp nhất trong các thê thiếp của vua). Năm Bính Tí (1216), bà được sách phong làm Thuận Trinh Phu nhân và đến cuối năm ấy lại được sách phong làm Hoàng hậu.
Mặc dù được vua tin yêu nhưng bà vẫn không thoát được giám sát gay gắt của Thái Hậu Đàm. Bà liên tục bị mắng là đồ phản trắc, làm tay trong, là bè đảng của giặc... thậm chí Thái Hậu còn đòi vua đuổi bà đi, bỏ thuốc vào đồ ăn của bà. Lúc này vua Huệ Tông chỉ biết âm thầm ngăn chặn. Mỗi bữa ăn, ông lại cho gọi hoàng hậu lại ăn cùng.
Sau nhiều lần căn ngăn, cuối cùng cuộc sống của bà mới tạm thời yên ổn. Hoàng hậu Trần Thị Dung sinh hạ hai Công chúa. Trưởng Công chúa là Thuận Thiên, sinh tháng 6 năm Bính Tí (1216), sau gả cho Trần Liễu (thân sinh của Trần Hưng Đạo) và Công chúa thứ hai là Chiêu Thánh, sinh vào tháng 9 năm Mậu Dần (1218), sau vì Lý Huệ Tông không có con trai lại mắc bệnh điên, Chiêu Thánh được truyền ngôi vào năm Giáp Thân (1224), niên hiệu là Lý Chiêu Hoàng (1224-1225), Hoàng đế cuối cùng của triều Lý.
DỆT LÊN TRIỀU ĐẠI MỚI
Sau khi nhường ngôi cho con gái, vua Huệ Tông gác chuyện triều chính sang bên chỉ lo tu tập, không vướng bận sự đời. Lúc này Chiêu Thánh lên ngôi Nữ Hoàng, gọi là Chiêu Hoàng. Còn bà Trần Thị Dung có thể đã được tôn lên làm Hoàng Thái Hậu (nhưng sử sách không ghi chép bất kì sắc phong chính thức nào), buông rèm nhiếp chính trong triều.
Cuối năm Ất Dậu (1225), Lý Chiêu Hoàng kết hôn với Trần Cảnh (em ruột của Trần Liễu) dưới mưu lược của Trần Thủ Độ và sự sắp xếp của Trần Thị Dung. Ngay sau đó Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh (tức vua Trần Thái Tông). Nhà Trần được thành lập, Lý Chiêu Hoàng sắc phong làm Hoàng Hậu. Lúc này bà Trần Thị Dung bị giáng làm Thiên Cực Công Chúa.
Không lâu sau Thiên cực công chúa đã kết hôn với Trần Thủ Độ. Theo một số tài liệu, từ nhỏ Trần Thủ Độ thường ghé nhà Trần Lý để gần gũi bà, nhưng không được chấp thuận. Khi Trần Thủ Độ được phong làm Điện Tiền chỉ huy sứ, ông càng có điều kiện lộng hành, ra vào chốn thâm cung để tính chuyện “tằng tịu” với Trần Thị Dung. Lúc đó, Trần Thủ Độ đang tuổi trai tráng, mạnh mẽ, đầy nam tính, trong khi Trần Thị Dung lại “phòng the” lạnh lẽo. Vì vậy, Trần Thủ Độ bỗng dưng trở nên “quý giá” vô cùng. Trần Thị Dung và Trần Thủ Độ đã làm chuyện “cắm sừng” vua Lý Huệ Tông, sống giả nhân giả ngãi, non vợ chồng với nhau để vừa thỏa mãn dục vọng vừa tính chuyện chuyển giao quyền lực từ nhà Lý sang nhà Trần.
Chưa kể từ ngày có mặt trong hoàng cung, Trần Thị Dung đã luôn tìm cách tạo điều kiện cho họ Trần phát triển thế lực, ấy cũng là sự khôn khéo phòng thân. Khi triều Trần được thiết lập, bà một lòng giúp họ Trần.
Tuy không được sử sách nói nhiều, nhưng Trần Thị Dung đã sống cùng Thái sư Trần, theo chồng lo việc triều đình, lo việc chăm dạy các cháu. Bà cũng đã có những nổi buồn khi Thuận Thiên qua đời, có niềm vui khi Chiêu Thánh lấy Lê Phụ Trần...
Hai năm cuối đời 1258, 1259, bà Trần Thị Dung đã tham gia vào cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông xâm lược lần thứ 2. Đây là quãng đời vất vả, gian truân và cũng vẻ vang nhất của bà. Rất nhiều danh tướng yên tâm lo việc đánh giặc vì bà đảm đương việc sơ tán của Hoàng tộc, bảo vệ tính mệnh, tài sản của vương triều với rất nhiều hoàng hậu, cung phi, thái tử, hoàng tử, công chúa…
Tháng 1 năm Kỉ Mùi (1259) bà mất vì bệnh tại Thăng Long. Bởi nguyên trước đó bà là Hoàng hậu, lại cũng bởi bà là mẹ của Lý Chiêu Hoàng và của Thuận Thiên Hoàng hậu, nên triều Trần đã truy tặng bà tước hiệu Linh Từ Quốc Mẫu (người mẹ hiền từ và hiển linh của đất nước).
Từ Phụ Ngự (Ngự Thiên – Long Hưng) Trần Thị Dung ra đi mở nghiệp cho nhà Trần, với 50 năm, không mệt mỏi, vượt lên mọi hy sinh, gian khổ, đem lại vinh quang cho họ Trần, những buổi đầu dựng nghiệp.