Chúa Nguyễn (chữ Nôm: 主阮; chữ Hán: 阮王 / Nguyễn vương) (1558-1777, 1780-1802) là tên gọi dùng để chỉ người đứng đầu xứ Đàng Trong tức dải đất từ Thuận Hóa (phía nam đèo Ngang hiện nay) trở vào miền Nam của Việt Nam, đối lập với xứ Đàng Ngoài của các Chúa Trịnh trong thời kỳ Trịnh-Nguyễn phân tranh của lịch sử Việt Nam. Các Chúa Nguyễn bắt đầu từ đầu giai đoạn Lê Trung hưng của Nhà Hậu Lê, hay giữa thế kỷ XVI, cho đến khi bị Nhà Tây Sơn tiêu diệt vào năm 1777, tuy nhiên Nguyễn Phúc Ánh. một hậu duệ của Chúa Nguyễn đã xưng vương và đến năm 1802 thì tiêu diệt Tây Sơn và lập ra triều đại mới thông qua việc xưng đế. Các Chúa Nguyễn chính là tổ tiên của các Hoàng đế Nhà Nguyễn (1802-1945).
Năm 1527, Mạc Đăng Dung soán ngôi Nhà Lê và lập ra Nhà Mạc. Nguyễn Kim (1468–1545), vốn là một tướng giỏi của Nhà Hậu Lê, nhờ có công giúp vua Lê chống lại Nhà Mạc nên được phong chức Thái sư Hưng Quốc công (sau này khi Nhà Nguyễn thành lập đã truy tôn ông là Triệu tổ Tĩnh hoàng đế). Nguyễn Kim có ba người con. Con gái đầu tên Ngọc Bảo, lấy Trịnh Kiểm, người sau này trở thành người mở đầu cho sự nghiệp của các Chúa Trịnh ở Đàng Ngoài; hai người con trai kế của Nguyễn Kim cũng là tướng giỏi và được phong chức Quận công. Sau khi người con trai lớn là Nguyễn Uông bị anh rể là Trịnh Kiểm giết, người con trai còn lại là Nguyễn Hoàng đã xin vua Lê cho vào cai trị vùng đất Thuận Hóa để rời xa sự kiểm soát của anh rể mà nhằm mưu đồ tạo dựng 1 cơ nghiệp riêng cho dòng họ Nguyễn, việc này dẫn đến sự chia cắt với Chúa Trịnh ở miền Bắc vào năm 1627 và hai miền chỉ được thống nhất khi quân Tây Sơn lúc đấy đang đi theo chúa Trịnh tạm thời tiêu diệt chúa Nguyễn vào năm 1777. Năm 1744, Chúa Nguyễn Phúc Khoát tự xưng tước vị "vương" để chứng tỏ hoàn toàn quyền lực ngang hàng với Chúa Trịnh và chỉ đứng dưới Hoàng đế Đại Việt (tức vua Nhà Lê Trung hưng).
Các Chúa Nguyễn về danh nghĩa là quan lại của Nhà Lê Trung hưng. Họ vẫn nhận sắc phong và dùng niên hiệu của vua Lê, vẫn tuyên bố mình là bề tôi trung thành của Nhà Lê, có nhiệm vụ giúp vua Lê cai quản vùng lãnh thổ phía Nam của nước Đại Việt, dù trên thực tế họ cai trị lãnh thổ Đàng Trong một cách tương đối độc lập, ít khi nhận mệnh lệnh từ vua Lê. Tổng cộng có 9 chúa Nguyễn cai quản xứ Đàng Trong trong hơn 2 thế kỷ cho tới khi bị lật đổ vào năm 1777. Tình trạng chia cắt Việt Nam thành Đàng Trong (của Chúa Nguyễn) với Đàng Ngoài (của các Chúa Trịnh) kéo dài suốt khoảng thời gian đó. Đến khoảng cuối thế kỷ XVIII, Chúa Nguyễn Phúc Khoát bỏ bê chính sự, triều chính rối ren khiến lòng dân chán ghét, việc này đã tạo ra điều kiện cho quân Tây Sơn nổi dậy và đánh đổ Chúa Nguyễn.
Ấn khắc chữ "Đại Việt quốc
Nguyễn chúa Vĩnh trấn Chi bảo"
Xứ Đàng Trong (Cochinchine) với quần đảo Hoàng Sa (Isles Pracel (Baixos de Chapar de Pullo Scir)), trong bản đồ của Joachim Ottens, năm 1710
Đàng Trong và Đàng Ngoài (1757)
Người Đàng Trong kỵ húy các Chúa Nguyễn nên đọc biến âm một số từ ngữ:
Tên Chúa Tiên là Hoàng nên đổi họ Hoàng thành Huỳnh, chữ "hoàng" cũng đọc là "huỳnh" (lưu huỳnh).
Nguyễn Phúc Khoát là "Vũ vương", nên người họ Vũ ở Đàng Trong đổi thành họ Võ.
Chữ "Phúc" đọc thành "Phước" để tránh chữ "Phúc" trong họ Nguyễn Phúc của vua Chúa nhà Nguyễn.
Chữ "Cảnh" là tên Nguyễn Phúc Cảnh (con cả Nguyễn Ánh, người được Ánh đưa sang Pháp làm con tin để đổi lấy sự giúp đỡ đánh Tây Sơn) đọc là "kiểng", nên "cây cảnh" gọi là "cây kiểng".
Chữ "Kính" là tên Nguyễn Hữu Kính, người khai lập Sài Gòn phải đọc chệch là "kiếng" nên "tấm kính" gọi là "tấm kiếng".
Chữ "Tông" là tên Nguyễn Phúc Miên Tông, tức vua Thiệu Trị (cháu nội Nguyễn Ánh), phải đọc là "tôn". Do đó một loạt sử sách chép miếu hiệu các vua như Lý Thánh Tông, Lê Thánh Tông, Trần Thái Tông, v.v... đều ghi là Lý Thánh Tôn, Lê Thánh Tôn, Trần Thái Tôn, v.v... Đến tận sau này một số sách sử thời hiện đại vẫn bị ảnh hưởng này và chép miếu hiệu các vua từ "Tông" thành "Tôn". Các tên đường phố tại miền nam Việt Nam, mà tên gọi là miếu hiệu các vị vua, hiện nay cũng đa phần ghi Tông thành Tôn. Chẳng những thế, một dòng họ hoàng tộc, cũng vốn phải đọc là "Tông Thất", nhưng vì kiêng húy chữ Tông này nên phải đọc thành "Tôn Thất".
Chữ "Thì" là tên thời nhỏ Nguyễn Phúc Thì của vua Tự Đức nên đọc thành Thời.
Chữ "Nhậm" là tên chữ Nguyễn Phúc Hồng Nhậm của vua Tự Đức nên đọc thành Nhiệm.
Ngoài ra còn nhiều chữ kiêng húy nữa nhưng ít ảnh hưởng đến đời sống xã hội hơn.
Các đời chúa Nguyễn tồn tại 177 năm (1600-1777), trải qua 9 đời chúa, bao gồm:
Tiên Vương Nguyễn Hoàng (1600-1613):
Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635):
Thượng Vương Nguyễn Phúc Lan (1635-1648):
Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần (1648-1687):
Nghĩa Vương Nguyễn Phúc Thái (1687-1691):
Minh Vương Nguyễn Phúc Chu (1691-1725):
Ninh Vương Nguyễn Phúc Chú (1725-1738):
Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765):
Định Vương Nguyễn Phúc Thuần (1765-1777)
Xứ Đàng Trong năm 1621