Trần Trọng Khiêm sinh năm Tân Tỵ (1821-1866), tức năm Minh Mạng thứ 2, sau đổi tên là Lê Kim, là một chỉ huy trong công cuộc chống Pháp do Võ Duy Dương lãnh đạo tại Đồng Tháp (Việt Nam) ở giữa thế kỷ 19. Con của một gia đình thế gia vọng tộc ở phủ Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ nhưng trong người lúc nào cũng sẵn máu phiêu lưu. Năm ông 21 tuổi, vợ ông bị một viên chánh tổng âm mưu làm nhục rồi giết hại. Sau khi giết tên chánh tổng báo thù cho vợ, ông xuống Phố Hiến (Hưng Yên), xin làm việc trong một tàu buôn ngoại quốc và bắt đầu bôn ba khắp năm châu bốn bể. Ông cũng được xem là người Việt đầu tiên đến Hoa Kỳ. Sau khi từ bỏ việc đi tìm vàng, ông trở thành nhà báo Việt đầu tiên ở đây.
Suốt từ năm 1842 đến 1854, Trần Trọng Khiêm đã đi qua nhiều vùng đất từ Hương Cảng đến Anh Cát Lợi, Hoà Lan, Pháp Lan Tây. Do trí tuệ sắc sảo, đến đâu ông cũng học được ngoại ngữ của các nước đó. Năm 1849, ông đặt chân đến thành phố New Orleans (Hoa Kỳ), bắt đầu chặng đường 4 năm phiêu bạt ở Mỹ cho đến khi tìm đường về cố hương.
Sau khi đến Mỹ, ông cải trang thành một người Trung Hoa tên là Lê Kim rồi gia nhập đoàn người đi tìm vàng ở miền Tây Hoa Kỳ. Sau đó, ông trở về thành phố Xanh–Phát–Lan–Xích–Cố (phiên âm của San Francisco) và làm kí giả cho tờ Daily News 2 năm. Cuộc phiêu lưu của Trần Trọng Khiêm (tức Lê Kim) trên đất Mỹ đã được nhiều tài liệu ghi lại.
Trong cuốn sách La Ruée Vers L’or của tác giả Rene Lefebre (NXB Dumas, Lyon, 1937) có kể về con đường tìm vàng của Lê Kim và những người đa quốc tịch Gia Nã Đại, Anh, Pháp, Hòa Lan, Mễ Tây Cơ… Họ gặp nhau ở thành phố New Orleans thuộc tiểu bang Louisiana vào giữa thế kỷ 19 rồi cùng hợp thành một đoàn đi sang miền Viễn Tây tìm vàng.
Thời đó, “Wild West” (miền Tây hoang dã) là từ ngữ người Mỹ dùng để chỉ bang California, nơi mà cuộc sống luôn bị rình rập bởi thú dữ, núi lửa và động đất. Trong gần 2 năm, Lê Kim đã sống cuộc đời của một cao bồi miền Tây thực thụ. Ông đã tham gia đoàn đào vàng do một người ưa mạo hiểm người Canada tên là Mark lập nên.
Để tham gia đoàn người này, tất cả các thành viên phải góp công của và tiền bạc. Lê Kim đã góp 200 Mỹ kim vào năm 1849 để mua lương thực và chuẩn bị lên đường. Đoàn có 60 người nhưng Lê Kim đặc biệt được thủ lĩnh Mark yêu quý và tin tưởng. Do biết rất nhiều ngoại ngữ, ông được ủy nhiệm làm liên lạc viên cho thủ lĩnh Mark và thông ngôn các thứ tiếng trong đoàn gồm tiếng Hòa Lan, tiếng Trung, tiếng Pháp. Ông cũng thường xuyên nói với mọi người rằng ông biết một thứ tiếng nữa là tiếng Việt Nam nhưng không cần dùng đến. Lê Kim nói ông không phải người Hoa nhưng đất nước nằm ngay cạnh nước Tàu.
Ông và những người tìm vàng đã vượt sông Nebraska, qua núi Rocky, đi về Laramie, Salt Lake City, vừa đi vừa hát bài ca rất nổi tiếng thời đó là “Oh! Suzannah” (Oh! My Suzannah! Đừng khóc nữa em! Anh đi Cali đào vàng. Đợi anh hai năm, anh sẽ trở về. Mình cùng nhau cất ngôi nhà hạnh phúc). Họ thường xuyên đối mặt với hiểm họa đói khát và sự tấn công của người da đỏ để đến California tìm vàng. Sốt rét và rắn độc đã cướp đi mất quá nửa số thành viên trong đoàn.
Trong đoàn, Lê Kim nổi tiếng là người lịch thiệp, cư xử đàng hoàng, tử tế nên rất được kính trọng nhưng đó đúng là một chuyến đi mạo hiểm, khiến già nửa thành viên trong đoàn chết vì vất vả, đói khát và nguy hiểm dọc đường đi.
Sau khi tích trữ được một chút vàng làm vốn liếng, Lê Kim quay trở lại San Francisco. Vào giữa thế kỷ 19, nơi đây còn là một thị trấn đầy bụi bặm, trộm cướp. Là người học rộng, hiểu nhiều, lại thông thạo nhiều ngoại ngữ, Lê Kim nhanh chóng xin được công việc chạy tin tự do cho nhiều tờ báo như tờ Alta California, Morning Post rồi làm biên tập cho tờ nhật báo Daily Evening.
Đề tài mà Lê Kim thường viết là về cuộc sống đầy hiểm họa và cay đắng của những người khai hoang ở bắc California và quanh khu vực San Francisco, trong đó ông hướng sự thương cảm sâu sắc đến những người da vàng mà thời đó vẫn là nạn nhân của sự phân biệt chủng tộc. Lê Kim cho rằng các mỏ vàng đã khiến cuộc sống ở đây trở nên méo mó và sa đọa không gì cứu vãn được.
Nhiều bài báo của ông đăng trên tờ Daily Evening hiện vẫn còn lưu giữ ở thư viện Đại học California. Đặc biệt, trong số báo ra ngày 8.11.1853, có một bài báo đã kể chi tiết về cuộc gặp giữa Lê Kim và vị tướng Mỹ John A. Sutter. Tướng Sutter vốn trước là người có công khai phá thị trấn San Francisco. Khi Lê Kim mới đến đây, ông đã được tướng Sutter giúp đỡ rất nhiều. Sau khi bị lật đổ, Sutter đã bị tâm thần và sống lang thang ở khắp các bến tàu để xin ăn, bạn bè thân thiết đều không đoái hoài đến.
Khi tình cờ gặp lại, Lê Kim đã cho vị tướng bất hạnh 200 Mỹ kim. Ông đã chê trách thái độ hững hờ, ghẻ lạnh của người dân San Francisco và nước Mỹ đối với tướng Sutter, điều mà theo ông là đi ngược với đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ông.
Sang năm 1854, khi đã quá mệt mỏi với cuộc sống hỗn loạn và nhiễu nhương ở Mỹ, cộng thêm nỗi nhớ quê hương ngày đêm thúc giục, Lê Kim đã tìm đường trở lại Việt Nam. Nhưng ông cũng đã kịp để lại nước Mỹ dấu ấn của mình, trở thành người Việt Nam đầu tiên cưỡi ngựa, bắn súng như một cao bồi và cũng là người Việt đầu tiên làm ký giả cho báo chí Mỹ.
Về tới đất nước, ông viết một bức thư nhờ một Hoa kiều về Hải Phòng thuê tiền một ông khách trú đóng vai thầy lang mang thư của ông lên Phú Thọ tìm gặp và trao thư cho người anh Trần Mạnh Trí đang làm thầy đồ dạy chữ cho trẻ nhỏ ở trong vùng.
Trong thư gửi anh, ông Khiêm không đề tên thật mà vẫn ghi là Lee Kim, nhưng khi xem thư, ông anh Trần Mạnh Trí nhận biết qua nét chữ và qua ý từ ngầm trong thư. Lúc này, Tự Đức đã lên ngôi vua, vừa mới bức tử anh ruột là Hồng Bảo để yên vị. Ngoài Bắc Hà các đảng cướp Quảng Nghĩa Đường, Lực Thăng Đường và Đức Thắng Đường từ bên Trung Quốc tràn sang đánh phá nhiều tỉnh miền núi và vùng trung du. Sau đó Cao Bá Quát, Lê Duy Cư, Tạ Văn Phụng… nổi lên.
Ông Trần Mạnh Trí không tin ông thầy Tàu, nên khéo léo từ chối viết thư trả lời em, mà chỉ nhắn miệng rằng: Gia đình ở nhà bình yên, nhưng người đi xa chưa nên về lúc này. Ông Trần Trọng Khiêm nhận được tin nhắn cũng hiểu được thời cuộc, bèn đóng vai người Minh Hương (gốc Hoa) đáp tàu biển về Bến Nghé – Sài Gòn rồi chuyển sang ghe nhỏ, lên tận miền Tân Thành, tỉnh Định Tường khai hoang lập ấp.
Từ đấy ông Khiêm chiêu mộ thêm người đến mở rộng việc khai hoang, dựng thành Hòa An (nay là vùng Thanh Hưng – Đồng Tháp). Dân ấp càng ngày càng đông. Họ suy tôn ông Khiêm làm Hương cả, sống thì chỉ huy mọi người bàn việc làm, cư trú, bảo vệ, chết thì làm thành hoàng. Tại vùng quê này, ông Khiêm lập gia đình với một cô gái thông thạo nghề ruộng đồng, đồng thời rất giỏi nghề sông nước. Ông bà có với nhau 5 người con trai, lấy họ Lê theo như giấy tờ, nhưng đều đệm chữ Xuân ở giữa để ghi nhớ quê gốc của mình là làng Xuân Lũng, gốc tổ Phú Thọ, Bắc Kỳ.
Năm 1859, Pháp đánh Gia Định rồi chiếm Biên Hòa, Định Tường buộc Tự Đức phải ký Hòa ước Nhâm Tuất (1862), nhượng đất miền Đông Nam Bộ cho thực dân Pháp. Trương Định (1820 – 1864) hô hào nhân dân tham gia nghĩa quân đánh Pháp. Vùng Đồng Tháp có ông Võ Duy Dương giàu lòng thương người được tặng mỹ từ Thiên hộ, lại giỏi võ nghệ, giỏi dùng 5 quả linh bằng sắt, nên nhân dân thường gọi là ông ngũ linh Thiên hộ Dương.
Nghe lời Trương Định ông Võ Duy Dương lập nhiều đoàn quân đi đánh Pháp, liên tục chiến đấu mặc dù Trương Định đã hy sinh. Trần Trọng Khiêm cũng đưa cả làng ấp Hòa An vào tham gia chiến đấu chống Pháp. Dựa theo mô hình chiến lũy của tướng Mỹ Suter đã dựng ở phòng tuyến California, ông Kim cũng cho đắp các đồn để bảo vệ Đồng Tháp Mười. Đội quân Hòa An do ông Khiêm chỉ huy đã đánh thắng Pháp nhiều trận ở vùng Cai Lậy, Mỹ Tho, Cao Lãnh, My Trà… Cuối năm 1868, trong một trận quyết chiến ở Đồng Tháp Mười, ông Khiêm bị trúng đạn địch và hy sinh.
Trước khi trút hơi thở cuối cùng, ông dặn anh em nghĩa quân hãy tiếp tục bền gan chiến đấu tới cùng. Ông cũng dặn vợ đem đàn con nhỏ lánh qua vùng Rạch Giá, nhắc con cháu đừng bao giờ cúi đầu làm nô lệ. Sau này các con trai ông lớn lên chia nhau đi lập nghiệp ở các vùng đất thuộc các tỉnh Tây Ninh, Phước Long, An Giang, Kiên Giang, Cà Mau… đến nay đã sáu bảy đời những vẫn giữ đúng họ Lê có lót chữ Xuân để luôn ghi nhớ quê tổ xưa là vùng đất Xuân Lũng, tỉnh Phú Thọ.
Mộ ông tại làng Hòa An có câu đối: Lòng trời không tựa, tấm gương tiết nghĩa vì nước quyên sinh
Chính khí nêu cao, tinh thần Hùng Nhị còn truyền hậu thế.