Khiêm Vương Mạc Kính Điển (chữ Hán: 謙王 莫敬典; 1525? - 1580), tự Kinh Phủ, là đại công thần có công lớn trong việc gìn giữ cơ nghiệp nhà Mạc, được nhà Mạc phong tước Khiêm vương.
Mạc Kính Điển là người hương Cao Đôi, huyện Bình Hà, Dương Kinh (nay là thôn Long Động, xã Nam Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương). Ông là con thứ ba của Mạc Đăng Doanh (tức vua Mạc Thái Tông).
Mạc Kính Điển thuở nhỏ ốm yếu, dù vua Mạc cho đổi nhiều nhũ mẫu nhưng không kết quả. Gặp lúc vợ đại thần Phạm Quỳnh mới sinh, bèn gọi đến làm nhũ mẫu cho Kính Điển. Từ lúc có nhũ mẫu mới, Kính Điển mạnh khỏe khác hẳn trước. Bởi thế sau này Kính Điển rất sủng ái cha con Phạm Quỳnh và Phạm Dao.
Nói về, Mạc Kính Điển là trụ cột không thể thiếu, người đã cáng đáng toàn bộ sự nghiệp nhà Mạc vào giai đoạn cuối: từ dẹp loạn Phạm Tử Nghi, đối phó với binh biến của Thái Tể Lê Bá Ly. Phụ chính cho hai vua Mạc là Mạc Phúc Nguyên và Mạc Mậu Hợp, cho đến tổng chỉ huy quân đội Bắc Triều đánh cha con Trịnh Kiểm, Trịnh Tùng của Nam Triều. Đến mức mà người ta chỉ biết có Kính Điển mà ko biết có Mạc Mậu Hợp đang ở ngôi đế. Tuy là kẻ thù không đội chung bầu trời nhưng sử sách nhà Lê sau này vẫn đánh giá cao tài năng của Khiêm Vương.
Đại Việt Sử ký Toàn thư do các sử gia nhà Lê soạn phải thừa nhận: "Kính Điển là người nhân hậu, dũng lược, thông minh, tài trí, nhạy bén, hiểu đời, từng trải nhiều gian nan nguy hiểm, cần lao, trung thành"; sách Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn cũng ghi nhận: "Ông tiếp đãi quan liêu có lễ độ, đối với quân sĩ có ân nghĩa, từng trải qua biết bao sự gian hiểm, mà vẫn cần lao trung thành, thời bấy giờ tựa vào ông làm trọng. khi ông chết, lòng người trong nước đều dao động!". Mạc Kính Điển mất, Mạc Đôn Nhượng lên thay đã không thể cáng đáng công việc như anh. Khiến nhà Mạc xuống dần đều.
Năm 1546, trước lúc mất, Vua Mạc Hiến Tông (anh trai Kính Điển) đã chọn Kính Điển làm phụ chính cho con trai mình là Mạc Phúc Nguyên. Mạc Phúc Nguyên lên ngôi khi hãy còn nhỏ tuổi nên mọi việc trong ngoài đều phải trông cậy vào chú mình là Kính Điển.
Mạc Phúc Nguyên, tức Mạc Tuyên Tông, khi vừa lên ngôi, ngồi chưa nóng ngai vàng thì trong triều xảy ra biến loạn.
Dưới tình hình giao tranh căng thẳng giữa nhà Mạc và nhà Hậu Lê, Tứ Dương hầu Phạm Tử Nghi nghị bàn:
“Hiện nay trong nước đang lúc nhiều nạn, nên lập vua lớn tuổi. Hoằng vương Chính Trung đã nhiều phen cầm quân và thường thắng trận, vậy xin dựng lên ngôi”.
Hoằng vương Mạc Chính Trung là con thứ hai của Mạc Thái Tổ (chú của Kính Điển, ông chú của Phúc Nguyên).
Mạc Kính Điển kịch liệt phản đối. Ông nhất quyết phò Phúc Nguyên, là dòng đích tôn, lên ngôi. Tử Nghi bèn cùng Chính Trung khởi binh nổi loạn, tiến đánh Đông Kinh ( Thăng Long).
Mạc Kính Điển dẫn binh chống trả. Sau nhiều lần không hạ được Đông Kinh, hao binh tổn tướng, Tử Nghi đem Mạc Chính Trung chạy ra chiếm Yên Quảng ( Quảng Ninh) rồi đổ quân cướp phá các vùng xung quanh, về sau đánh cướp sang cả đất nhà Minh (Trung Quốc).
Năm 1551, Kính Điển đánh dẹp thành công quân Tử Nghi, Chính Trung. Tử Nghi bị bắt, đem ra chém, còn Mạc Chính Trung bỏ chạy và chết bên nhà Minh.
Một năm trước đó, tức năm 1550, Thái Tể Lê Bá Ly ỷ quyền thế quá lớn nên hống hách. Khi các đại thần cùng Vua Mạc Tuyên Tông muốn vây bắt, thì y liền cùng thông gia là Nguyễn Thiến mang theo gia quyến, gồm các tướng Nguyễn Quyện, Nguyễn Khải Khang, Lê Khắc Thận chạy vào Thanh Hóa, theo hàng nhà Lê (Trung Hưng).
Nhà Mạc bị tổn thất nặng về nhân sự, nhân tâm dao động, thái sư nhà Lê lúc này là Trịnh Kiểm thừa cơ hợp binh với tướng cát cứ ở Tuyên Quang là Vũ Văn Mật tiến đánh Đông Kinh.
Khi đó bá quan nhà Mạc rụng rời chân tay, nhân tâm hoảng loạn. Riêng chỉ có mỗi Mạc Kính Điển là tận tụy, trung thành phò tá vua Mạc. Ông giúp Vua mang xa giá rời kinh thành sang sông, chạy đến Kim Thành (Hải Dương).
Vua chạy nhưng Kính Điển thì ở lại. Ông đích thân đốc suất quan binh chống cự. Sĩ khí quân Mạc tăng cao, ra sức chiến đấu, khiến quân Lê công thành nhiều lần mà không qua được. Trịnh Kiểm thấy thực lực nhà Mạc hãy còn mạnh, nhân tâm chưa hẳn hướng về nhà Lê, bèn lui quân về.
Sau khi con Nguyễn Thiến là Nguyễn Quyện quay về, đầu quân lại cho nhà Mạc, thì tình thế quân Mạc đã phấn chấn hơn, liên tiếp đánh lui được các đợt tấn công của quân Lê.
Năm 1562, sau khi ở ngôi mười lăm năm Mạc Tuyên Tông bị bệnh đậu mùa rồi mất, con ông là Mạc Mậu Hợp lên nối ngôi khi mới hai tuổi. Vua còn quá nhỏ, Khiêm Vương Mạc Kính Điển lần thứ hai ra làm phụ chính giúp Vua. Ông cử người em út là Mạc Đôn Nhượng (mất năm 1593) làm nội phụ chính để lo đỡ việc bên trong. Còn ông tập trung lo việc quân cơ bên ngoài. Xong, quyền quyết định các sự vụ thực chất đều do Khiêm Vương quyết.
Năm 1570, thái sư nhà Lê là Trịnh Kiểm chết, hai con là Trịnh Cối và Trịnh Tùng đánh nhau tranh ngôi. Mạc Kính Điển thừa cơ mang đại quân vào đánh Thanh Hoá.
Trịnh Cối bị kẹp giữa hai bên địch quân nên phải hàng nhà Mạc. Kính Điển tiếp tục thúc quân đánh nhiều tháng, nhưng cuối cùng vẫn không thắng được quân Trịnh Tùng.
Trịnh Tùng là nhân tài xuất chúng, xứng đáng thay thế Trịnh Kiểm. Ông đã giúp nhà Lê duy trì được thế cân bằng với nhà Mạc, tiếp tục đưa cuộc chiến vào thế giằng co.
Nhà Lê tuy đứng vững nhưng chỉ chủ yếu trên địa bàn Thanh Hóa. Mạc Kính Điển nhiều lần đánh Thanh Hóa không thắng. Nhưng khi đốc suất thủy quân vào đánh Nghệ An, nhờ sức tướng Nguyễn Quyện và Hoàng Quận công Mạc Đăng Lượng, lần nào cũng thắng, nên vùng đất từ sông Lam vào tới Bình Định lại theo hàng nhà Mạc.
Nhưng vì xa cách không thể ứng cứu, nên các vùng đất phía Nam của nhà Mạc bị mất dần. Đỉnh điểm là tướng Mạc Lập Bạo gặp phải địch thủ lớn là Nguyễn Hoàng bị thua trận chết. Mặc dù Nguyễn Quyện và Hoàng quận công Mạc Đăng Lượng đánh thắng quân Lê nhiều lần ở Nghệ An nhưng vì địa thế cách trở, xa Đông Kinh ở Bắc Bộ, không tiếp ứng được nên cuối cùng quân chủ lực của nhà Mạc buộc phải rút đi. Từ đây nhà Mạc mất hẳn phía nam và chỉ còn kiểm soát Bắc Hà.
Những năm sau đó Mạc Kính Điển tiếp tục vào đánh Thanh Hóa vài lần nhưng vẫn không đánh bại được quân Lê-Trịnh.
Tháng 10 năm 1580, Khiêm Vương Mạc Kính Điển qua đời sau ba mươi bốn năm phụ chính cho các ấu chúa nhà Mạc.
Kính Điển mất, không ai thay thế được ông để giúp chống đỡ nhà Mạc. Mười hai năm sau (1592) quân Lê Trịnh thành công chiếm được Đông Kinh, kết thúc 66 năm Nam Bắc Triều.
Mạc Kính Điển là người tài năng, đức độ. Ông chính là trụ cột lớn nhất đã chống đỡ vương triều nhà Mạc sau khi Thái Tổ Mạc Đăng Dung mất, nhưng ông cũng là trụ cột cuối cùng.