Lữ Gia (chữ Hán: 呂嘉, cũng được dịch là Lã Gia, 191 TCN – 110 TCN), tên hiệu là Bảo Công (保公) là Thừa tướng của bốn đời vua nhà Triệu nước Nam Việt. Ông là người nắm chính trường nước Nam Việt những năm cuối và cuối cùng thất bại trước cuộc xâm lăng Nam Việt của nhà Hán (Trung Quốc). Ông mất ngày 25 tháng 3, các đời sau họ Lữ và họ Lã ở miền Bắc Việt Nam làm giỗ tổ vào ngày 25 tháng 3 âm lịch hàng năm.
Theo ngọc phả thì thừa tướng Lữ Gia được phong làm vua cả cai quản thôn Trung Thành, xã Đại Lai, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Ông có nhiều công trình phục vụ dân thôn: mở trường dạy học, chiêu mộ quân sĩ và đề bạt ra làm quan trong triều... Đền thờ hai bà phu nhân đã được nhân dân Việt xây dựng và thờ phụng tại khu di tích văn hóa lịch sử chùa Phúc Linh. Các vị bô lão thôn họp bàn và thống nhất xây dựng luôn đền tại vị trí trường dạy học và khu đền cũ.
Tương truyền Lữ Gia sinh ra ở huyện Lôi Dương quận Cửu Chân (nay là huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá), có cha là hào trưởng Lữ Tạo người lương thiện, phúc hậu làm nghề lang y; mẹ là người tài sắc, công dung tên là Trương Thị Vĩ, con gái hào trưởng Vũ Ninh (vùng Bắc Ninh ngày nay). Tại quận Cửu Chân có tên họ Hàn hung nghịch, tàn bạo vốn là hào trưởng, thấy Lữ Gia chí khí hơn người nên muốn thu nạp làm tay chân. Gia không chịu khuất phục nên gã thâm thù, cho tay chân đến cướp phá, hành hung gia quyến. Biết không thể sống được nên cả gia quyến đã bỏ quê tìm kế an thân. Khi đến Nam Trì (nay thuộc xã Đặng Lễ, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên) thấy khu đất nơi ngã ba sông đất đai tươi tốt, dân cư thuần hậu nên đã lưu tạm ở đây hành nghề lang y. Ở Nam Trì, Lữ Gia kết nghĩa anh em với Nguyễn Danh Lang (Lang Công). Nguyễn Danh Lang làm tướng ba đời vua Triệu nước Nam Việt. Khi Nguyễn Danh Lang mất, Lữ Gia truyền cho dân làng lập đền thờ. Khi Lữ Gia bị quân Tây Hán chém đầu có truyền cho quân sĩ quê Nam Trì đưa xác ông về Nam Trì an táng và thờ cùng Lang Công. Đền thờ lúc sơ khởi nằm trên đất làng Nam Trì hiện nay nhưng không rõ địa điểm cụ thể. Thời Đường, Cao Biền sang Giao Châu đánh giặc Nam Chiếu, kết nghĩa anh em với hai vị thần Lang Công (Nguyễn Danh Lang), Bảo Công (Lữ Gia), cưới hai bà phu nhân Lự nương, Lữ nương quê đây và dựng lại đền thờ Lang Công, Bảo Công. Khi Cao Biền mất, dân làng thờ cùng hai vị trước. Phía tây đền là phủ thờ Lâu nương công chúa (phu nhân của Lữ Gia) và hai bà phu nhân của Cao Vương. Thời Hậu Lê, Thánh địa lý Tả Ao chọn đất, chuyển làng, dựng lại chùa, đền nên sau khi Tả Ao mất, dân làng thờ cùng với ba vị trước.
Lăng mộ Thừa tướng Lữ Gia và tướng Nguyễn Danh Lang hiện ở xã Đặng Lễ, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên.
Lữ Gia làm Thừa tướng 4 đời vua Nam Việt là Triệu Văn Vương (136 – 125 TCN), Triệu Minh Vương (124 – 113 TCN), Triệu Ai Vương (112 TCN) và Triệu Dương Vương (112 – 111 TCN). Vào thời Triệu Văn Vương, Lữ Gia được vua tin tưởng phong làm Thừa tướng. Triệu Minh Vương thì lấy ông làm Thái phó. Triệu Kiến Đức là con trai của Triệu Minh Vương, mẹ ông là người Việt. Vua cha không chọn ông nối nghiệp mà chọn Triệu Hưng là con của Cù hậu.
Cù hậu tư thông với sứ giả nhà Hán là An Quốc Thiếu Quý, muốn mang Nam Việt quy phục nhà Hán. Triệu Ai Vương còn trẻ, chỉ biết nghe theo lời mẹ. Kết quả là Thừa tướng Lữ Gia đem quân giết Cù hậu, Ai Vương và cả Thiếu Quý. Sau đó, đưa Kiến Đức lên kế vị, tức là Triệu Dương Vương.
Tháng 11 năm 112 TCN, Thừa tướng Lữ Gia đã lập Thuật Dương Vương lên ngôi, quân của Hàn Thiên Thu tiến vào Nam Việt, đánh phá một vài ấp nhỏ.
Lữ Gia bèn mở một đường thẳng để cấp lương cho quân. Khi quân nhà Hán đến còn cách Phiên Ngung 40 dặm, thì ông xuất quân đánh, giết được bọn Thiên Thu. Sau đó ông sai người đem sứ tiết của nhà Hán cho vào trong hòm để trên núi Tái Thượng (tức là đèo Đại Dũ) dùng lời khéo để tạ tội, một mặt phát binh giữ chỗ hiểm yếu. Ông chất đá giữa sông gọi là Thạch Môn.
Vua Hán nghe tin Hàn Thiên Thu bị giết, sai Phục ba tướng quân Lộ Bác Đức xuất phát từ Quế Dương, Lâu thuyền tướng quân Dương Bộc xuất phát từ Dự Chương, Qua thuyền tướng quân Nghiêm xuất phát từ Linh Lăng, Hạ lại tướng quân Giáp đem quân xuống Thương Ngô, Trì Nghĩa hầu Quý đem quân Dạ Lang xuống sông Tường Kha, đều hội cả ở Phiên Ngung.
Mùa đông năm 111 TCN, tướng nhà Hán là Dương Bộc đem 9.000 tinh binh hãm Tầm Hiệp, phá Thạch Môn lấy được thuyền thóc của quân Triệu, kéo luôn cả các thuyền ấy đi, đem mấy vạn người đợi Lộ Bác Đức. Bác Đức cùng Bộc hội quân tiến đến Phiên Ngung.
Triệu Thuật Dương Vương và Lữ Gia cùng giữ thành. Dương Bộc tự chọn chỗ thuận tiện đóng ở mặt đông nam, Lộ Bác Đức đóng ở mặt tây bắc.
Vừa chập tối, Dương Bộc đánh bại quân Triệu, phóng lửa đốt thành. Bác Đức không biết quân trong thành nhiều hay ít bèn đóng doanh, sai sứ chiêu dụ. Ai ra hàng đều được Đức cho ấn thao và tha cho về để chiêu dụ nhau. Dương Bộc cố sức đánh, đuổi quân Triệu chạy ngược vào dinh quân của Lộ Bác Đức. Đến tờ mờ sáng thì quân trong thành đầu hàng. Triệu Dương Vương và Lữ Gia cùng với vài trăm người, đang đêm chạy ra biển.
Bác Đức lại hỏi những người đầu hàng biết chỗ ở của Lữ Gia, bèn sai người đuổi theo. Hiệu úy tư mã là Tô Hoằng (蘇弘) bắt được Kiến Đức, Quan lang của Nam Việt là Đô Kê (都稽; có bản chép là Tôn Đô) bắt được Lữ Gia. Các xứ ở Nam Việt đều xin hàng.
Lữ Gia và vua Triệu sau đó đều bị quân Hán giết.
Theo truyền thuyết, khi Lữ Gia bị bắt và chém đầu, một con chó đã cắp đầu của ông rồi bơi qua sông và chôn giấu. Hiện nay, đền thờ Lữ Gia vẫn còn tại một làng ở xã Quang Yên, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc. Theo một số truyền thuyết khác thì sau khi bị quân Hán chém đầu nhưng chưa đứt hẳn, ông phóng ngựa chạy về vùng đất Vụ Bản, Nam Định. Khi chạy đến thị trấn Gôi bây giờ thì gặp một bà hàng nước. Lữ Gia hỏi là người bị chém mất đầu có sống được không, bà hàng nước cười nói người mất đầu thì làm sao sống được, tức thì đầu của Lữ Gia lìa khỏi thân. Dân vùng Vụ Bản chôn và lập đền thờ ở nhiều nơi trong huyện. Tương truyền đầu, thân và chân của ông được thờ ở ba làng khác nhau. Ngày xưa có hội rước tại các đình, miếu thờ ông trong khắp huyện, to gần bằng hội Phủ Dầy. Truyện này được ghi trong "Thiên Bản lục kỳ", là một trong sáu truyện kỳ lạ của vùng đất Thiên Bản xưa (nay là Vụ Bản).