Nhà Hậu Lê (chữ Nôm: 茹後黎, chữ Hán: 後黎朝, Hán Việt: Hậu Lê triều; (1428-1789) là một triều đại phong kiến Việt Nam tồn tại sau thời Bắc thuộc lần 4 và đồng thời với nhà Mạc, nhà Tây Sơn trong một thời gian, trước Nhà Nguyễn
Nhà Hậu Lê do Lê Lợi lập ra. Nó được phân biệt với nhà Tiền Lê (980–1009) do Lê Hoàn lập ra cuối thế kỷ X. Nhà Hậu Lê gồm 2 giai đoạn:
Giai đoạn Lê sơ (黎初; 1428-1528): kéo dài 99 năm, bắt đầu từ khi khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi đến khi Mạc Đăng Dung phế bỏ vua Lê Cung Hoàng lên ngôi vua, lập ra nhà Mạc.
Giai đoạn Lê Trung Hưng (茹黎中興, 1533–1789): khởi đầu khi tướng Nguyễn Kim tôn phò Lê Duy Ninh, một người thuộc dòng dõi nhà Lê để khởi binh chống lại nhà Mạc đến khi Lê Chiêu Thống bỏ nước sang cầu viện Nhà Thanh đánh Tây Sơn. Nguyễn Huệ, một lãnh đạo của phong trào Tây Sơn, sau đó lên ngôi vua, chấm dứt giai đoạn Lê Trung Hưng và sự tồn tại của Nhà Hậu Lê. Thời Lê Trung hưng tuy kéo dài, nhưng các Hoàng đế nhà Lê mất thực quyền, chỉ tồn tại trên danh nghĩa.
Nhà Hậu Lê chính thức mất năm 1789, trước sau tồn tại 356 năm, chỉ có 6 năm gián đoạn, là triều đại quân chủ dài nhất trong lịch sử Việt Nam.
Nhà Lê sơ (chữ Nôm: 茹黎初 chữ Hán: 黎初朝, Hán Việt: Lê sơ triều) là giai đoạn đầu của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê. Đây là thời kỳ mà chế độ quân chủ chuyên chế tập quyền trong lịch sử Việt Nam lần đầu tiên đạt đến đỉnh cao của sự phát triển cũng như suy thoái của nó. Nhà Lê sơ được thành lập sau khi Lê Lợi phát động Khởi nghĩa Lam Sơn đánh bại nhà Minh. Ông đổi tên Giao Chỉ (交阯), vốn tồn tại trong thời gian nội thuộc nhà Minh, trở về Đại Việt (大越), quốc hiệu có từ đời Lý Thánh Tông.
Thời đại Lê sơ có 10 vị hoàng đế thuộc 6 thế hệ, đây là thời kỳ các hoàng đế nhà Lê nắm trọn được quyền hành, cũng là thời kỳ vĩ đại, hoàng kim của chế độ phong kiến Việt Nam. Đời Lê Thái Tổ (Lê Lợi) và đặc biệt là đời Lê Thái Tông, xã hội được đi vào ổn định, phát triển thịnh vượng một cách mau chóng sau thời kỳ chiến tranh trước đó.
Dưới thời Lê Thánh Tông, Đại Việt phát triển cực thịnh về mọi mặt từ kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, quân sự. Nước Đại Việt từ trước chưa bao giờ cường thịnh và mạnh mẽ, có sức ảnh hưởng toàn khu vực lớn bằng thời này, thời kỳ này được gọi là Hồng Đức thịnh thế (洪德晟世), tính đến ảnh hưởng các đời sau là Lê Hiến Tông, Lê Túc Tông, là hơn 30 năm.
Tồn tại từ năm 1428 đến năm 1527, kéo dài được 100 năm, triều đại này bị gián đoạn bởi nhà Mạc do Mạc Đăng Dung cướp ngôi và tự lập mình làm Hoàng đế, sau 6 năm được tái lập với tên gọi nhà Lê Trung hưng.
Cương thổ Đại Việt thời Lê Thánh Tông (1460-1497), bao gồm xứ Bồn Man và lãnh thổ mới chiếm được từ Chiêm Thành. Màu đỏ nhạt là lãnh thổ chiếm được trong thời gian ngắn trong cuộc chiến tranh Đại Việt-Lan Xang. Màu xanh nhạt là ba vương quốc của người Chăm.
Bản đồ Đại Việt thời Lê trung hưng thế kỉ 18, gồm cả Đàng Ngoài và Đàng Trong.
Nhà Lê trung hưng (chữ Nôm: 茹黎中興, chữ Hán: 黎中興朝, Hán Việt: Lê trung hưng triều, 1533–1789) là giai đoạn sau của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê (giai đoạn đầu là nhà Lê sơ) trong lịch sử Việt Nam. Nhà Lê trung hưng được thành lập khi Lê Trang Tông với sự phò tá của cựu thần nhà Lê sơ là Nguyễn Kim được đưa lên ngôi báu, kết thúc khi Lê Chiêu Thống chạy sang lưu vong tại Trung Quốc dưới thời Thanh Cao Tông. Đây là triều đại dài nhất so với các triều đại Việt Nam với 256 năm với 16 vị vua.
Thời kỳ nhà Lê Trung Hưng Tcòn được gọi là Nam Bắc triều, nhà Lê và nhà Mạc chia đôi nước Đại Việt. Khi nhà Mạc bị đánh bại phải chạy lên Cao Bằng (1592 tới năm 1677) thì công thần có công đánh Mạc là họ Trịnh đã nắm hết quyền hành. Công thần họ Nguyễn không thần phục họ Trịnh, ly khai ở phía nam, do đó phần lớn hậu kỳ thời Lê Trung hưng, nước Đại Việt lại bị chia cắt bởi chúa Trịnh và chúa Nguyễn, gọi là Trịnh Nguyễn phân tranh.
Lê sơ - Hậu Lê (1428-1527) 10 đời vua trong 100 năm đổi tên nước là Đại Việt kinh đô tại Đông Kinh (Hoàng thành Thăng Long ngày nay)
Lê Thái Tổ - Lê Lợi (1428-1433)
Lê Thái Tông - Lê Nguyên Long (1433-1442)
Lê Nhân Tông - Lê Bang Cơ (1442-1459)
Lê Thánh Tông - Lê Tư Thành (1460-1497)
Lê Hiến Tông - Lê Sanh (1498-1504)
Lê Túc Tông - Lê Thuần (6/6/1504-7/12/1504)
Lê Uy Mục - Lê Tuấn (1505-1509)
Lê Tương Dực - Lê Oanh (1509-1516)
Lê Chiêu Tông - Lê Y (1516-1522)
Lê Cung Hoàng - Lê Xuân (1522-1527)
Ngày 15 tháng 6 năm Đinh Hợi - 1527, Mạc Đăng Dung đem quân từ Cổ Trai vào kinh đô Thăng Long ép vua phải nhường ngôi, bắt Vua và Thái hậu tự tử. Như vậy Lê Cung Hoàng ở ngôi được 5 năm, thọ 21 tuổi.
Lê Trung Hưng - Hậu Lê với 16 đời vua Lê nối tiếp nhau trong 256 năm kinh đô tại Đông Kinh (Hoàng Thanh Thăng Long ngày nay)
Trang Tông 1533-1548
Trung Tông 1548-1556
Anh Tông 1556-1573
Thế Tông 1573-1599
Kính Tông 1600-1619
Thần Tông 1619-1643 và 1649-1662
Chân Tông 1643-1649
Huyền Tông 1663-1671
Gia Tông 1672-1675
Hy Tông 1676-1704
Dụ Tông 1705-1728
Hôn Đức Công 1729-1732
Thuần Tông 1733-1735
Ý Tông 1735-1740
Hiển Tông 1740-1786. Sinh ra công chúa Lê Ngọc Hân sau này là vợ của Nguyễn Huệ
Chiêu Thống 1787-1789
Trịnh Bồng tự lập làm nguyên soái Yến Đô vương và lấn át nhà vua khiến cho triều chính rối ren, chém giết lẫn nhau. Nguyễn Huệ khi đó là Bắc Bình Vương kéo quân ra Bắc dẹp loạn rồi lại rút quân về Phú Xuân.
Để khôi phục lại triều Lê, tháng 7/1788 Hoàng thái hậu nhà Lê sang cầu viện nhà Mãn Thanh. Dựa vào thế quân Mãn Thanh, Lê Chiêu Thống trở lại kinh đô Thăng Long đã trả thù tàn bạo những người theo Tây Sơn.
Mồng 5 tết năm Kỷ Dậu (1789), quân đội Tây Sơn do hoàng đế Quang Trung trực tiếp chỉ huy kéo ra Bắc đã đánh tan 29 vạn quân xâm lược Mãn Thanh ở gò Đống Đa giành độc lập cho tổ quốc ta. Lê Chiêu Thống, vua bán nước, đã chạy theo tàn quân nhà Thanh sang Trung Quốc.
Các vua Lê sơ
Thái Tổ Cao Hoàng Đế - Lê Lợi
Thái Tông Văn Hoàng Đế - Lê Nguyên Long
Nhân Tông Tuyên Hoàng Đế - Lê Bang Cơ
Lệ Đức Hầu - Lê Nghi Dân
Thánh Tông Thuần Hoàng Đế - Lê Tư Thành
Hiến Tông Duệ Hoàng Đế - Lê Tranh
Túc Tông Khâm Hoàng Đế - Lê Thuần
Uy Mục Đế - Lê Tuấn
Tương Dực Đế - Lê Oanh
Chiêu Tông Thần Hoàng Đế - Lê Y
Cung Hoàng Đế - Lê Xuân