Nguyễn Xí (chữ Hán: 阮熾; 1397–1465) hay Lê Xí, là một vị tướng, nhà chính trị, công thần khai quốc nhà Hậu Lê và là đại thần trải qua 4 đời vua thời Hậu Lê.
Nguyễn Xí sinh năm 1397, ông nội Nguyễn Xí là Nguyễn Hợp. Vợ chồng ông có 2 người con: con trai cả là Nguyễn Khai và con trai thứ là Nguyễn Hội, tại đây ông Hợp đã cưới vợ cho con trai thứ Nguyễn Hội vợ là Vũ Thị Hành người làng Phượng Hoàng Trung Đô thành phố Vinh Nghệ An. Vào khoảng thế kỷ 14 cha là Nguyễn Hội. Nguyễn Hợp dời nhà đến sống tại làng Thượng Xá, huyện Chân Phúc nay là xã Khánh Hợp, huyện Nghi Lộc, Nghệ An. Tại đây Nguyễn Hợp đã cùng Nguyễn Hội khai dân lập ấp, mở mang nghề làm muối. Nguyễn Hội sinh hai con trai: Nguyễn Biện và Nguyễn Xí. Cha con Nguyễn Hội và Nguyễn Biện thường chở muối ra bán ở vùng Lương Giang, huyện Thiệu Hoá - Thanh Hoá, do đó rất thân quen với Lê Lợi khi đó là phụ đạo ở Lam Sơn.
Năm lên 9 tuổi (1405), Nguyễn Xí đến gặp Lê Lợi lần đầu. Cùng năm ấy cha ông bị hổ vồ chết tại quê nhà Thượng Xá, ông theo anh đến làm người nhà Lê Lợi. Lớn lên, Nguyễn Xí vũ dũng hơn người, được Lê Lợi yêu như con.
Lê Lợi sai ông nuôi hơn 100 con chó săn, ông dùng tiếng nhạc làm hiệu lệnh, bầy chó nghe theo, lúc đến, lúc đi đều nhau như một. Lê Lợi khen ngợi, cho là có tài làm tướng, cho sai quản đội quân Thiết Đột.
Năm 1416, Lê Lợi cùng 18 chiến hữu mở hội thề Lũng Nhai dấy nghĩa chống giặc Minh xâm lược. Hai anh em Nguyễn Biện, Nguyễn Xí đều có mặt. 21 tuổi, Nguyễn Xí cùng anh trai và các chiến hữu lập công đầu trong các trận đánh ở Lạc Thủy, Mường Thôi... thuộc các vùng thượng lưu sông Chu.
Mười năm nếm mật nằm gai, vào sinh ra tử, Nguyễn Xí luôn là vị tướng tiên phong tham gia đánh thắng nhiều trận đánh lớn: Bồ Đằng, Trà Lân, thành Nghệ An, thành Diễn Châu, Tốt Động, Chúc Động, Đông Quan, Xương Giang... để “giang sơn thu về một mối”, đất nước hoàn toàn giải phóng sau 20 năm chìm đắm dưới ách thống trị của giặc Minh, vang khúc “Bình Ngô đại cáo” khắp non sông.
Năm Mậu Thân (1428), Lê Lợi lên ngôi vua, Nguyễn Xí được xếp vào hàng “khai quốc công thần” được phong chức “Long hổ thượng tướng suy trung bảo chính công thần”. Năm Thuận Thiên thứ hai (1429), nhà vua cho khắc biển công thần, khi bàn công, ông đứng vào hàng thứ năm, được phong tước Huyện Hầu. Để thể hiện sự ưu ái đặc biệt cho những người có công lớn trong khởi nghĩa, Lê Lợi đã ban quốc tính cho Nguyễn Xí là Lê Xí.
Các sách sử “Đại Việt sử ký toàn thư”, “Đại Việt thông sử”, “Lịch triều hiến chương loại chí”, “Việt sử tổng vịnh” và các thư tịch khi miêu tả lại quá trình phục hưng nhà Lê đều đã ghi công đầu cho Nguyễn Xí.
Năm 1433, Vua Lê Thái tổ qua đời. Nguyễn Xí nhận di chiếu cùng một số quần thần lập Thái tử Nguyên Long (tức Lê Thái tông) lên ngôi vua lúc mới 10 tuổi. Ông giữ cương vị Phụ nhiếp chính triều đình (giúp vua điều hành công việc triều chính).
Trong vương triều nhà Lê, Nguyễn Xí giữ nhiều chức vụ trọng yếu, góp phần to lớn để xây dựng đất nước, mở mang bờ cõi, củng cố chế độ nhà Lê. Khi đất nước bị ngoại xâm, ông là người cầm quân đi đánh giặc. Đặc biệt, khi vương triều nhà Lê bị lâm vào cảnh Lê Nghi Dân giết Lê Băng Cơ và Hoàng Thái hậu chiếm đoạt ngôi vua, gây ra sự nhiễu loạn trong triều đình, Nguyễn Xí đã chủ xướng cuộc chính biến vào năm 1460 diệt trừ bọn phản loạn. Sau khi dẹp bỏ Lê Nghi Dân và bè đảng, Nguyễn Xí đưa Lê Tư Thành (tức Lê Thánh tông) lên ngôi báu. Với chiến công oanh liệt trong cuộc kháng chiến chống quân Minh giải phóng dân tộc và công lao vĩ đại đối với quốc gia trong việc lập lại triều chính, Nguyễn Xí được Vua Lê Thánh tông ban tặng là người: “Bình Ngô khai quốc/ Tịnh nạn trung hưng”. Cũng chính từ đó, các đời sau coi Nguyễn Xí là: “Người hai lần khai quốc”.
Trong cuộc đời làm quan phụng sự 4 triều Vua Lê (Lê Thái tổ (1428-1433), Lê Thái tông (1434-1442), Lê Nhân tông (1443-1459), Lê Thánh tông (1460-1497), Nguyễn Xí một lòng một dạ trung trinh, khai quốc công thần, mở mang đất đai bờ cõi non sông, bảo vệ từng tấc đất cha ông để lại. Ông đã có vai trò khá quyết định trong nhiều chính sách tiến bộ. Theo đó, chia quân ra làm 5 phiên, chỉ để một phiên tại ngũ còn lại cho về làm ruộng theo đường lối “Động vi binh, tĩnh vi dân” (khi động thì làm lính, khi tĩnh thì làm dân), cấp cho dân những nơi không có ruộng đất đến cày cấy ở những nơi thừa ruộng đất, cấm không được giữ đất để bỏ hoang, cho miễn thuế, miễn mọi thứ tạp dịch phu phen nhằm tạo sự an cư lạc nghiệp cho Nhân dân ở các vùng mới khai phá. Không chỉ là một võ tướng tài ba, Nguyễn Xí còn là một nhà chính trị lỗi lạc đối với quốc nội và quốc ngoại.
Cả một đời trung nghĩa với đất nước, với vương triều, ông răn dạy con cháu đời sau phải giữ sự trung thành bằng cách viết bản di huấn trình lên vua ngự phê rồi khắc vào bia đá để lưu truyền cho các thế hệ sau. Bản di huấn của ông được Vua Lê Thánh tông chuẩn y và cho đóng dấu nhà vua lên dòng chữ ghi niên hiệu viết văn bản.