Phan Đình Phùng (1847-1895) là một nhà lãnh tụ cách mạng Cần vương vùng Nghệ Tĩnh. Ông người làng Đông Thái, tổng Việt Yên, huyện La Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Đỗ Cử nhân khoa Bính Tý (1876), năm sau đỗ Tiến sĩ. Ban đầu được bổ Tri phủ Yên Khánh ở Ninh Bình; đến năm 1878 về Kinh sung chức Ngự sử Đô sát viện. Khi vua Tự Đức băng hà (1883), ông phản đối việc tự quyền của 2 vị phụ chánh Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết nên bị cách chức cho về nguyên quán. Năm 1884, được phục chức và bổ Tham biện Sơn phòng Hà Tĩnh. Năm 1885, kinh thành Huế thất thủ, vua Ham Nghi xuất bôn ra Quảng Bình, ông đến bái yết, được phong Tán lý Quân vụ và lãnh trọng trách thống suất các đạo nghĩa binh.
Suốt mười năm (1885-1896), bất chấp mọi hiểm nguy, gian khổ, cuộc khởi nghĩa do Phan Đình Phùng lãnh đạo đã giao chiến với Pháp nhiều trận, và đã gây cho đối phương nhiều tổn thất nặng nề, tiêu biểu nhất là trận Vụ Quang vào năm 1894.
Thấy không thể dùng sức mạnh quân sự để tiêu diệt được cuộc khởi nghĩa, người Pháp dùng mọi cách dụ dỗ, mua chuộc để khuyên hàng, nhưng trước sau ông vẫn một lòng cự tuyệt. Người Pháp lại dùng Nguyễn Thân và những cộng sự khác ra sức đàn áp nhưng vẫn không làm ông sờn lòng.
Năm 1895, Pháp điều Nguyễn Thân đến phối hợp với công sứ Nghệ An là Duvillier đem 3000 lính đi đàn áp cuộc khởi nghĩa Hương Khê. Quân chủ lực của Phan Đình Phùng bị đối phương bít đường tiếp vận, nên vũ khí, lương thực, quân sốđều thiếu thốn, khó bù đấp. Ngày 17 tháng 10 năm 1894, Phan Đình Phùng đã tập hợp lực lượng, đánh thắng một trận lớn, đối phương mất nhiều vũ khí và bị chết rất nhiều. Đây là trận thắng cuối cùng, vì gần 3000 quân do Nguyễn Thân cầm đầu ngày càng xiết chặt vòng vây. Trong một trận giao tranh ác liệt, Phan Đình Phùng bị thương nặng, rồi hy sinh vào ngày 28 tháng 12 năm 1895.