Võ Đình Tú (chữ Hán: 武廷秀, ? - 1799), tự Tuấn Chi (俊之), hiệu Thiết Hán (鐵漢), là một tì tướng của nhà Tây Sơn, được người đương thời liệt vào Tây Sơn thất hổ tướng.
Một trong những danh tướng kiệt xuất của vương triều Tây Sơn, sau khi tham gia khởi nghĩa Tây Sơn, Võ Đình Tú được Nguyễn Huệ tin yêu như ruột thịt, hay bàn chuyện quân cơ. Có lần, Nguyễn Huệ nói với các tướng: “Đình Tú có tài văn, võ; ngày sau sẽ là bề tôi rường cột”. Ông binh pháp tinh thông với tài bắn cung, nhảy cao, cưỡi ngựa. Đặc biệt, ngoài cưỡi ngựa bắn cung, ông còn nổi danh về sử dụng thiết côn.
Tương truyền, cây ngân côn của tướng Võ Đình Tú có màu trắng sáng bởi được rèn bằng bạch thiết, rất chắc và khá nặng, phải đến 2 người mới khiêng nổi. Nữ tướng Bùi Thị Xuân mến tài đã thêu lá cờ có 4 chữ vàng “Thiết côn vô địch” tặng ông.
Khi Quang Trung mất, nội bộ nhà Tây Sơn lục đục. Võ Văn Dũng diệt trừ gian thần Bùi Đắc Tuyên nên giữa tướng Dũng và Trần Quang Diệu có nhiều nghi kỵ (Bùi Thị Xuân, vợ tướng Diệu là cháu Bùi Đắc Tuyên). Để tránh “nồi da xáo thịt”, Võ Đình Tú là người đứng ra hòa giải mối hiềm khích giữa hai vị tướng này:
Năm 1792, vua Quang Trung mất, Cảnh Thịnh (Nguyễn Quang Toản) nối ngôi. Ngoại thích Bùi Đắc Tuyên được sủng ái lên làm Thái sư, rồi mỗi ngày một thêm lộng quyền, khiến nội bộ sinh nạn bè phái, kình chống lẫn nhau.
Năm 1795, Nghe lời bàn Trần Văn Kỷ, Võ Văn Dũng gấp rút dẫn quân về Phú Xuân, bí mật phối hợp với Nguyễn Văn Huấn, Phạm Công Hưng vây bắt Bùi Đắc Tuyên ngay ở phủ của vua Cảnh Thịnh, rồi cho dìm nước đến chết.
Tướng Trần Quang Diệu hay tin dữ, kéo binh về trả thù cho nhà vợ, đóng ở bờ Nam sông Hương. Võ Văn Dũng liền đem quân bản bộ đóng ở bờ Bắc sông Hương, mượn lệnh vua để chống lại Quang Diệu.
Võ Đình Tú lấy tình quen thân cả đôi bên, xin Vua Cảnh Thịnh cho phép đứng ra hòa giải. Ông đến gặp Võ Văn Dũng, phân tích sự lợi hại khi hai đại thần chống cự lẫn nhau. Tiếp theo, ông bơi thuyền qua sông Hương, đến An Cựu gặp Trần Quang Diệu phân tích sự chuyên quyền của Tuyên sẽ phá hỏng sự nghiệp nhà Tây Sơn. Nhờ vậy mà Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng nối lại tình xưa, đem binh vào thành, bệ kiến Vua Cảnh Thịnh. Cảnh Thịnh lại sợ Võ Đình Tú, Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng là bạn cố giao, ở gần nhau bất lợi cho mình, bèn phong cho Tú chức Binh Bộ Tham tri vào coi quân ở Quy Nhơn và Phú Yên.
Theo sách Tây Sơn, Võ Đình Tú thông thạo đủ mọi quyền cước, từ côn, kiếm, thương, quyền. Tương truyền, ngoài cưỡi ngựa bắn cung, ông còn nổi danh về sử dụng thiết côn.
“Khi múa côn giữa trời mưa, cơ thể Võ Đình Tú không hề dính một hạt nước, một mình có khả năng đánh nhiều người. Khâm phục trước tài năng của ông, nữ tướng Bùi Thị Xuân tặng Võ Đình Tú lá cờ đào thêu bốn chữ vàng “Thiết côn vô địch”, nhà nghiên cứu Hoàng Minh Hồng cho biết.
Trong doanh trướng Tây Sơn, Võ Đình Tú rất tâm đắc với Nguyễn Huệ, được Nguyễn Huệ thương yêu như ruột thịt. Khi nhà Tây Sơn khởi nghĩa, Võ Đình Tú được phong chức Đại Tổng lý.
Cùng với Bùi Thị Xuân, ông quản lý và phòng thủ doanh trại ở vùng Tây Sơn. Biết Đặng Xuân Phong là một tráng sĩ, cũng giỏi côn quyền như mình; ông đã cùng Bùi Thị Xuân đến mời và được người này ra giúp. Năm 1778, Nguyễn Nhạc xưng đế, Võ Đình Tú được phong chức thái úy.
Cho đến nay, ở vùng Tây Sơn vẫn còn tương truyền câu chuyện liên quan đến một quan chức là Thị Lang Bộ Lễ Bùi Đắc Tuyên. Ông này biết Võ Đình Tú có tài thiết côn và nhảy cao nên thường bảo thái tử Nguyễn Quang Toản yêu cầu Võ Đình Tú biểu diễn võ nghệ cho xem.
Có lần, Võ Đình Tú cùng Đặng Xuân Phong vào cung bệ kiến vua Quang Trung. Biết rằng đó là hai tướng giỏi đánh côn, Bùi Đắc Tuyên tìm cách mua vui cho thái tử. Tuyên mời hai ông Võ - Đặng đến nhà riêng uống rượu cùng thái tử Quang Toản. Tiệc xong, thái tử đòi xem hai vị đại thần đấu côn.
Đuốc được thắp sáng rực cả sân. Đặng Xuân Phong sử dụng côn đồng, Võ Đình Tú dùng côn sắt. Đường côn qua lại nhanh nhẹn, mạnh mẽ, như “rồng bay phượng múa”. Gia tướng đến xem chật cả trong lẫn ngoài. Tiếng vỗ tay vang không ngớt.
Sau cuộc đấu côn này, dư luận xôn xao, có nhiều ý kiến khác nhau. Người khen hai vị công thần tài nghệ tuyệt luân, xứng danh “Tây côn lưỡng thần công”, người chê bai hai vị đại thần không biết tự trọng.
Lời thị phi đến tai vua Quang Trung. Nhà vua liền trách thái tử và hai vị đại thần Võ - Đặng. Sau cùng, vua cấm Bùi Đắc Tuyên không được bày các trò vui làm mất thể thống các quan đại thần.
Tháng 3 năm Kỷ Mùi (1799), chúa Nguyễn Phúc Ánh cử đại binh ra đánh Quy Nhơn. Sách Nhà Tây Sơn kể:
(Khi ấy) Võ Đình Tú đi kinh lý Phú Yên được tin quân Nguyễn Phúc Ánh đổ bộ Quy Nhơn, vội kéo quân về, đi thẳng lên Cần Úc đánh quân Võ Tánh. Hai bên kịch chiến suốt hai ngày đêm, Võ Tánh trá bại, Nguyễn Huỳnh Đức phục binh trên núi với cung tên và súng đạn. Võ Đình Tú bị mắc mưu giục quân đuổi theo. Tên trên núi bắn xuống như mưa, chen vào những tiếng súng nổ. Quân Tây Sơn bị trúng tên lớp chết lớp bỏ chạy. Đình Tú tả xung hữu đột, cây thiết côn gạt phăng bao nhiều mũi tên bắn vun vút vào người và ngựa. Nhưng không thể tránh khỏi đạn đồng. Bị thương nặng, máu chảy dầm mình, đuối sức ngã gục trên lưng ngựa. Ngựa hí một tiếng dài, nhảy ra khỏi trận tuyến, chạy một mạch về Phú Phong. Đến nhà thì ngựa ngã lăn ra chết. Võ Đình Tú cũng đã lạnh hết chân tay. Đó là vào cuối tháng 4 năm Kỷ Mùi (1799).